- Tựa của Đặng Tiến
- Đoạn mở đầu
- 1. Dấu hỏi đầu tiên
- 2. Một nét ưu tư
- 3. Nguồn gốc bi kịch
- 4. Chính trị và tình cảm
- 5. Xung đột
- 6. Chính trị và tình cảm
- 7. Chủ nghĩa xã hội
- 8. Tôn giáo
- 9. ích kỷ
- 10. ý đồ
- 11. Mây Đầu Non
- 12. Nỗi đau
- 13. Thực chất một chi bộ
- 14. Bài giảng trong nhà thờ
- 15. Giữa hai sức ép
- 16. Linh mục và tôn giáo
- 17. Thương cảm
- 18. Kiểm điểm
- 19. Né tránh trách nhiệm
- 20. Vĩnh biệt
- 21. Giọt nước làm tràn ly
- 22. Mây Đầu Non
- 23. Nhức nhối
- 24. Căm giận
- 25. Bất lực
- 26. Giã biệt. Những dấu hỏi
- Phần II : Trong vòng kiềm tỏa
- 2. Lại về với nhau
- 3. Đối thoại với tỉnh ủy
- 4. Tạp chí La Ban
- 5. Bên bờ vực hư vô
- 6. Cú đấm trong bóng tối
- 7. Sơ Huyền ngày gặp lại
- 8. Âm mưu và đố kỵ
- 9. Ngựa hoang bị xiềng
- 10. Thủ đoạn
- 11. Bi kịch
- 12. Mây Đầu Non 3
- 13. Điều kiện
- 14. Đuổi bắt đến hư vô
- 15. Nhà văn và quyền lực chính trị
- 16. Tự do và ràng buộc
- 17. Sự thật ơi
- 18. Xót xa êm dịu
- 19. Câu chuyện một học giả
- 20. Đổi mới? Mây Đầu Non
- 21. Thêm một lần giã biệt
- Đoạn trung chuyển
- Phần III Cuộc đấu không cân sức
- 2. Đảng
- 3. Dưới mưa đêm
- 4. Tranh thủ hay đấu tranh
- 5. Bước đầu sôi động
- 6. Cơn lốc xoáy vào trong
- 7. Sức mạnh từ chân lý
- 8. Trước khi quá muộn
- 9. Chuyên chính vô sản
- 10 Phản trắc
- 11 Bút ký của người bị khai trừ đảng
- 12. Thung lũng mai anh đào
- 13. Ai đáng bị cách chức
- 14. Nguồn gốc của tai họa
- 15. Gốc thông trăm năm
- 16. Dân chủ và quyền lực
- 17. Con đường của quyền lực
- 18. Ân tình và khổ lụy
- 19. Sương mù
- 20. Mê đồ trận cuối cùng
- 21. Tiếng ngân dài trong hư không
- Đoạn kết
- Bạt ( của Hà Sĩ Phu)
- Phụ Lục 1
- Phụ Lục 2
Dù hiểu hai chữ Cách Mạng theo nghĩa lý tưởng nhất, Tiêu Dao Bảo Cự vẫn giữ thân phận làm dâu. Anh như người đàn bà làm vợ lẽ bán chính thức cho một người con trai thứ, phải về dự những dám giỗ kỵ bên gia đình chồng. Anh chỉ nên léng phéng ở vườn sau, quét tước chút đỉnh. chẻ củi nhặt rau. Đằng này anh lại ngang nhiên đòi tự do dân chủ, ngang nhiên lên nhà trên, trước bàn thờ gia tiên đối đáp với mẹ chồng và nhà chồng. Không ai nghe anh đâu. Xã hội Việt nam là một ổ phong kiến. Trên lớp vua quan và cường hào xưa kia, ngày nay lớp đảng viên còn khe khắt gấp bội lần hơn. Tiêu Dao Bảo Cự có lần tự hỏi về thế yếu của nghệ sĩ và trí thức: "Tại sao bộ phận tiên tiến nhất của một dân tộc lại tự mình đứng trong thế yếu. Tôi không biết nghệ sĩ và trí thức Việt nam có tiên tiến hay không, nhưng chắc chắn họ chưa bao giờ chọn được chỗ đứng - dù ở thế mạnh hay thế yếu. Họ giống như người phụ nữ thời xưa, quyền thế đặt đâu thì ngồi đấy. Tài giỏi như Nguyễn Du mà suốt đời làm quan đành phải im hơi lặng tiếng. Công cán như Nguyễn Trãi rồi cùng bị tru di vì một đôi lời nói thẳng. Trước những tấm gương ấy, trí thức của chúng la đã có truyền thống thuần phục lâu đời. Dĩ nhiên là vẫn có những tiếng nói lẻ loi, từ Chu Văn An, Nguyễn Trường Tộ đến Dương Thu Hương, Hoàng Minh Chính, nhưng những tiếng nói đó không làm thành dư luận. Vì từ lâu, người trí thức chỉ là những cá nhân, không tạo được một tầng lớp có lực lượng, có quần chúng, có hậu thuẫn. Trong cuộc đấu tranh cho dân chủ hiện nay, người trí thức đáng lẽ phải là ngọn gió tiền phong. Nhưng có thật thế không? Hay là ngược lại, trí thức trong thâm tâm cũng sợ dân chủ, vì được dân chủ thì mất quyền lợi riêng tư, những đặc quyền đặc miễn bất thành văn đã tích luỹ từ thời này sang thời khác? Do đó, tiếng nói của những con người thấp cổ bé miệng, một đời oan khuất như Tiêu Dao Bảo Cự, là một đóng góp quý hiếm. Trong lịch sử nhân loại, không có một cuộc đấu tranh nào cho tự do dân chủ mà lại vô ích, chỉ có những con người hèn nhát, ích kỷ và đố kỵ là vô ích.
Sách chia làm ba phần rõ nét. Hai phần đầu Những dấu hỏi và Trong vòng kiềm tỏa là tiểu thuyết, có tính cách hư cấu dù rằng được xây dựng trên kinh nghiệm sống và thời cuộc. Phần ba Cuộc đấu không cân sức nghiêng về bút ký, kể lại hậu quả Cuộc hành trình cuối đông chuyến đi từ Lâm Đồng ra Hà Nội cuối 1988, những khai trừ, tranh chấp, giằng co, đấu đá, xen lẫn với nhiều trang tiểu thuyết còn lại của hai phần trước. Sự khác nhau chủ yếu giữa tiểu thuyết và bút ký nằm trong cách hành văn và xây dựng nhân vật. Bút ký ghi chép thực tại trong khi tiểu thuyết cách điệu thực tại. Tuy vậy, việc phân đoạn của tác giả có phần hấp tấp nên người đọc dễ lạc vào trong một cấu trúc không thuần khiết. Tiêu Dao Bảo Cự có vê nôn nao muốn sớm truyền đạt đến người đọc những ưu tư, thao thức của mình, trong một giai đoạn đấu tranh vì dân chủ mà anh cho là quan trọng, nên không đặt nặng vấn đề kiến trúc tác phẩrn. ấy là điều đáng tiếc vì tác giả có tài năng và chất liệu để viết tiểu thuyết cũng như bút ký. Tuy nhiên, thiếu kiên nhẫn, anh đã kết hợp hai thể loại làm giảm hiệu lực của tác phẩm. Đây không phải là một câu nệ về hình thức mà là một quy luật về chức năng: mỗi thể loại tạo ra một khí hậu riêng, và chính cái khí hậu ấy sẽ tạo đời sống lâu dài cho tác phẩm, còn những tư liệu và tư tưởng mà tác giả đưa ra, dù tha thiết đến đâu cùng chóng chìm vào quên lãng... Nguyễn Tuân là bậc tài hoa và dồi dào vốn sống, nhưng chỉ viết bút ký mà không bao giờ viết tiểu thuyết. Và điều người đọc yêu mến và ghi nhớ ở Nguyễn Tuân là phong cách, lối viết, lối nói của Nguyễn Tuân, chứ không phải nội dung những chuyện ông kể lại. Giữa hai thể loại trong Nửa đời nhìn lại, bản thân tôi chuộng phần tiểu thuyết là cái phần cốt lõi, giàu rung cảm, đằm thắm và tế nhị, dù viết chưa đều tay. Những thông tin về xã hội miền Nam những năm 1975-1978 được gạn lọc qua nghệ thuật nên sâu sắc hơn nhưng trang ký sự về sau. Nhưng chúng ta không thể đánh giá Nửa đời nhìn lại như một tác phẩm nghệ thuật bình thường, vì nó được gởi ra nước ngoài trong nghịch cảnh. Chúng lôi hết lòng ủng hộ Tiêu Dao Bao Cự vì can trường của anh và những đóng góp của anh vào cuộc tranh thủ tự do dân chủ cho đất nước. Chúng tôi hoan nghênh bạn bè anh đã góp công góp của để tác phẩm được chào đời, và hoan nghênh nhà xuất bản Thế Kỷ đã lưu tâm giới thiệu nâng đỡ một tác giả mới, sống và viết trong nghịch cảnh. Đặng Tiến 15-11-1993
Tựa của Đặng Tiến
Tiến >>
Nguồn: Mõ hà nội
Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên
vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003