Cỗ xe ngựa chạy giữa hai cây bạch đàn to và dừng lại. Hai cây đó sừng sững giữa một khoảng rừng cây bụi, chúng cao vượt những cây bao quanh, trông đường bệ mà cũng thật mộc mạc. Chiếc xe dừng lại cho ngựa gặm cỏ phía bên kia cây, còn con ngựa, bờm xờm và bình thản như cái cây, thở phì phì rồi đứng yên.
Người đàn ông ngồi trên xe bước xuống. Anh xoa hai tay vào nhau vì trời đã lạnh, mây lạnh tích tụ trên bầu trời nhợt nhạt, còn phía tây ráng màu nâu đỏ như đồng thau. Bầu không khí tỏa ra mùi sương giá. Làn da tê cóng ma sát vào nhau làm không khí lạnh hơn và cảnh yên tĩnh nơi đó càng thêm cô quạnh. Chim ngơ ngác trên cành, còn những con thú giương mắt nhìn xem chuyện gì đang diễn ra. Người đàn ông hạ một bọc xuống khỏi xe. Con chó nhấc chân tè lên một tổ kiến. Con ngựa nhễ nhại mồ hôi môi trề xuống.
Sau đó, người đàn ông lấy rìu bổ vào thân cây sợi cốt chỉ để được nghe một âm thanh chứ chẳng vì lý do nào khác. Âm thanh lạnh lẽo và vang vọng. Anh bổ, bổ tiếp cho đến lúc mấy mảnh vỏ cây trắng rơi xuống. Anh nhìn vào vết xước trên thân cây. Im lặng mênh mang. Đây là lần đầu tiên mới có sự việc như vậy xảy ra ở khoảnh rừng này.
Chợt như cố tình xua đi một giấc mơ, anh nhanh chóng tháo càng xe, để lại trên lưng ngựa vệt mồ hôi đậm. Anh chằng chặt cặp vó trước của chú ngựa nhỏ chắc mập và đeo túi cỏ vào cái đầu trụi lủi của nó. Anh dùng mấy cái túi và vài cây nhỏ dựng một mái che. Anh nhóm lửa. Cuối cùng, anh thở dài, vì ánh lửa nhỏ đó đã nhen lên trong anh một hơi ấm đầu tiên của niềm thỏa mãn. Của việc được ở một nơi nào đó. Cái mảnh rừng đặc biệt ấy đã trở thành của anh nhờ ánh lửa bập bùng. Nó liếm láp và nuốt trọn nỗi cô đơn.
Lúc này, con chó lông đỏ cũng đến ngồi bên đống lửa, gần, nhưng không ngay sát người vốn dĩ chẳng thân thiện gì với vật nuôi. Anh không vuốt ve hay nói chuyện với chúng. Chúng có mặt ở đó - cách xa một quãng - là đủ rồi. Con chó đã ngồi đó. Nó đưa mắt hau háu nhìn, vẻ muốn được ăn vì chủ vẫn chưa chịu lấy hộp đồ ăn ở trên xe xuống. Con chó chăm chú nhìn. Cái đói khiến nó phải xếp chân ngay ngắn. Đôi mắt vàng mòn mỏi dán vào chủ trong khi đợi được ăn thịt.
Người đó còn trẻ. Đời chưa để lại dấu ấn trên khuôn mặt anh. Anh trông dễ ưa; bản thân anh hình như cũng là người tốt. Do chẳng có gì để giấu giếm, nên xem ra cái thế mạnh ấy bị kém một chút. Nhưng đấy lại là sự trớ trêu của lòng trung thực.
Cây cối ở quanh biến mất dần. Trong ánh chiều tối, dưới bầu trời trắng, màu đen của những cành cây, cùng màu đen kịt của rừng cây bụi nhòa trộn vào nhau. Chỉ có đống lửa vẫn cháy. Và trong vòng ánh lửa, khuôn mặt người đó không lộ chút ưu tư trong khi anh xoa thuốc lá sợi trong lòng bàn tay thô ráp một mảnh giấy vuông nheo lại dính ở môi dưới.
Con chó khịt cái mũi. Qua ánh lửa, lông mõm nó sáng lóng lánh. Nó vẫn ngồi theo dõi hành động dằng dai tưởng chừng như không hồi kết.
Mọi chuyện vẫn tiếp diễn, và khói thuốc bắt đầu bay lên.
Người đó đứng dậy. Anh phủi tay. Anh lấy hộp thức ăn xuống.
Con chó lúc ấy mới run rẩy làm sao.
Tiếng đĩa, tiếng nước trà rót vào sắt tây, tiếng bột mì nghe bình bịch. Đâu đó có tiếng nước chảy. Chim ríu rít về tổ. Con ngựa non, sáng lên giữa chùm lông trán, cùng con chó đói bụng, cả hai đều đứng chực con người trẻ đó. Ánh mắt và ánh lửa có một sự hòa đồng.
Lửa hắt ánh vàng lên dáng người đang ngồi cắt thịt. Thấy vậy con chó điên cuồng nhảy cẫng lên như con ngựa bất kham. Anh ném thịt cho con chó, nhưng do bản chất, anh làm bộ miễn cưỡng phải làm vậy. Con chó ngốn ngấu những tảng thịt béo ngậy, chiếc vòng xích bị đẩy trồi lên phía trên cổ, khiến mắt nó lồi ra. Người đó ăn, miệng nuốt trông đến thô tục do có một mình nên cứ phồng miệng mà nuốt cho trôi, sau đó uống nước trà nóng có pha mùi sắt, cốt để cho trôi hẳn. Hơi ấm dâng lên. Giờ anh thấy tỉnh người. Anh ngửi thấy mùi rơm phảng phất từ cái giỏ thức ăn khi con ngựa đang nhai. Anh ngửi thấy mùi gỗ tươi cháy. Anh gối đầu lên chiếc vòng ẩm ướt tháo ở cổ ngựa. Và cái hang lửa to lớn, như một chốn cung mê, cuốn anh vào. Anh dang chân tay, bừng bừng trong ánh lửa, người mỗi lúc một ấm lên, nhưng đột nhiên lại bị tắt ngấm giữa làn khói nhè nhẹ và giữa dòng suy tư mệt mỏi.
Tên người đàn ông này là Stan Parker.
Lúc anh chưa ra đời, mẹ anh đã muốn đặt tên con mình là Ebenezer, nhưng rồi anh không phải mang cái tên đó vì ông bố, một con người tục tĩu, có lông bụng, đã cười nhạo. Do đó, bà mẹ không nghĩ đến cái tên ấy nữa. Bà là một phụ nữ không có tính hài hước và hơi sợ sệt. Lúc đẻ anh ra, bà gọi anh là Stanley, vì dẫu sao cái tên đó cũng thuộc loại đáng kính trọng. Bà vẫn nhớ đến tên nhà thám hiểm mà bà đã đọc.
Mẹ cậu bé đã đọc khá nhiều qua cặp kính gọng vàng, mỏng mảnh hầu như không ôm được hết cặp mắt xanh ướt át của bà. Bà đọc sách, lúc đầu là để tự vệ trước những nỗi sợ và những chuyện khó chịu. Bà tiếp tục đọc vì, ngoài câu chuyện ra, văn học còn mang lại một vẻ phong nhã mà bà khát khao. Sau đó, bà trở thành nhà giáo. Tất cả những chuyện ấy đã diễn ra trước khi bà lấy chồng. Tên bà là Noakes. Và bà nhớ là mẹ mình đã kể rằng ở quê nhà có một người tên là Noakes đã cưới giáo sĩ của chúa đất.
Bản thân bà không làm điều như vậy. Do sai lầm hoặc do bị quyến rũ bà đã lấy Ned Parker, một anh thợ rèn tại khe Willow, một kẻ nát rượu và đã có lần xung phong trả lời bài giảng của cha xứ, nhưng lại là người có thể uốn cong thanh sắt thành nút thắt đồng tâm. Chuyện đó không có gì hào hoa phong nhã, nhưng ít nhất bà còn được sức mạnh cơ bắp bảo vệ. Vì vậy cô Noakes đã trở thành bà Parker, và về mặt nào đó cũng trở nên sợ hãi nhiều hơn trước.
- Stan - có lần mẹ anh nói - con phải hứa sẽ yêu Chúa và đừng bao giờ đụng đến một giọt rượu nhé.
- Vâng ạ, cậu bé trả lời, vì cậu đâu đã trải qua những cái đó, và mặt trời ánh lên trong đôi mắt cậu.
Trong ánh lửa vật vờ mà anh nhóm lên, chàng thanh niên nhớ đến bố mẹ và Chúa của mẹ - một hình ảnh dịu dàng lờ nhờ xanh. Anh đã cố hình dung Chúa của mẹ bằng đường nét có thực, nhưng không sao thấy được. Nào, Chúa ơi, anh đã từng bật kêu lên, nằm mở mắt nhìn vào bóng tối. Đôi lúc anh lại nghe thấy bố chửi bới và văng tục ở phía bên kia cửa.
Bố anh không phủ nhận Chúa. Trái lại. Ông là một thợ rèn, chỉ chăm chăm nhìn vào lò lửa. Ông đập đe và những tia lửa bắn tung tóe. Sức khỏe trong ông bốc cháy, tiếng nhạc kim loại đinh tai nhức óc, át đi mùi hôi thối của móng ngựa cháy, nhưng không làm lòng tin của ông mai một. Có lần, lóp ngóp từ dưới mương lên, về nhà sau cơn bí tỉ, ông thậm chí đã trò chuyện với Chúa, rồi chơi vơi bấu lấy cánh của thiên thần đang phẫn nộ, trước khi ông say không biết trời đất gì nữa.
Chúa của bố mà cậu bé nhìn thấy, căn bản là một ông Chúa nổi giận, hung hăng, Người xuất hiện giữa những tiếng ợ hơi, ngón tay đầy vết chai vung lên kết tội. Ông là Chúa của những vị Tiên tri. Và đây là vị Chúa mà bản thân cậu bé ngờ vực và sợ hơn là vị Chúa dịu dàng của mẹ mình. Dẫu sao, đấy mới là khởi đầu. Ở khe Willow, Chúa vít những cây tới mức chúng lay phấp phới theo chiều gió như những chùm râu. Chúa đổ mưa xuống những mái nhà lợp tôn, cho đến khi thậm chí những ông già bà cả trở nên trầm tư, nhỏ bé hơn và vàng vọt hơn trước ngọn đèn muội khói, và Chúa đã cắt cổ cụ Joe Skinner, mà nào cụ có tội tình gì, mọi người quen biết đều thấy cụ là ông già tử tế, thích bẻ vỏ bánh mì vãi cho chim ăn.
Đấy là một trong những điều, chàng thanh niên nhớ lại, mẹ anh không cố gắng giải thích. “Đó là một trong những sự việc đã xảy ra”, bà bảo.
Nói vậy, rồi bà lúng túng quay mặt đi. Có nhiều điều bà không có lời giải đáp. Vì lý do đó, bà không hợp lắm với những người đàn bà khác, đa số gần như biết tuốt, còn những gì họ không biết nghĩa là chẳng đáng để biết. Thế nên mẹ của Stan Parker sống cô độc. Bà vẫn tiếp tục đọc; nào là tập thơ của Tennyson đóng bằng khóa móc đồng, bên trong có ép những bông hoa violet, nào là tuyển tập Shakespeare ố lỗ chỗ vì bị ngập nước, rồi đến những cuốn danh mục sách, niên giám, những sách công thức nấu nướng, một bộ bách khoa toàn thư và cuốn từ điển địa lý, tất cả tạo nên cung cách đọc sách riêng biệt nhằm để che chở cho tâm hồn bà. Bà đọc sách, rồi bà thực hành sự ngăn nắp, tựa như bà có thể sắp xếp mọi thứ trật tự theo cách đó; chỉ có thời gian và mọt sách phá hủy những nỗ lực của bà cùng linh hồn những con người cố bật khỏi bất cứ cảnh ngộ tù túng nào giam hãm họ.
Chẳng hạn có chàng thanh niên con trai bà - giờ đây nằm bên đống lửa nhỏ, đầu gối trên chiếc vòng cổ ngựa - đã vượt mọi khuôn khổ. Anh đã bật thoát ra, không chút bứt rứt, anh là người mà ta thường gọi là một anh chàng tốt, kiểu tốt đối với mẹ mình, nhưng vì lý do nào đó anh lại là một sinh vật riêng biệt. A, - mẹ anh bảo, - anh sẽ là thầy giáo, hay người giảng đạo, anh sẽ truyền đạt những vần thơ và lời của Chúa. Với lòng tôn trọng những lời đó, bà nghi ngờ rằng, trong cảnh mông muội và có thiện ý, lại có thể được giải thích rõ được chúng. Nhưng đối với con bà, người đã đọc vở kịch Hamlet của Shakespeare, những đoạn kinh Cựu ước, trong đó con người xuất hiện qua từng lời, anh đã đọc vào ban ngày giữa tiếng ruồi bay vo vo và vào ban đêm, giữa tiếng đất khô nứt nẻ, anh thấy chẳng có vấn đề gì phải giải thích. Dù sao thì cũng chưa phải lúc.
Anh không phải là người giỏi diễn giải. Khi nghĩ đến lời gợi ý về công việc, anh như ngồi trên đống lửa. Anh chẳng là gì cả. Anh chỉ là một con người. Từ trước đến giờ anh vẫn tự nuôi sống được mình. Từ trước tới giờ, sự huyền bí không phải là mối quan tâm của cá nhân anh, những mối hoài nghi mới chỉ là những tiếng âm vang yếu ớt. Đúng là anh có nhìn thấy biển, và cảnh ồn ào hỗn độn ấy đã khoét sâu trong anh một cái hang chứa chất đầy ngỡ ngàng và hụt hẫng. Cả những lời ca lướt đi trong cát bụi và những cây tiêu của một thị trấn vào lúc trời chạng vạng thực sự đã trở thành một cái gì đấy của riêng tư. Và có lần, một người đàn bà nào đó, một gái điếm, chẳng trẻ mà cũng chẳng đẹp, đã dán mặt vào ô kính cửa sổ nhìn chằm chằm ra ngoài, nên Stan Parker nhớ mặt người đó vì anh đã cùng chia sẻ cái xa xăm mà mắt cô ta nhìn vào.
Song, bếp lửa đang lụi dần, anh nhìn thấy, với những nghĩ suy lạnh lẽo ấy. Anh run lên, rồi nhoài người khều những cục than đỏ để chúng lại thổi bùng thành ngọn lửa trong đêm tối. Nơi anh nằm hiện tại vẫn tương đối ấm. Con ngựa non đứng chỗ rìa ánh lửa, nó khuỵu gối, túi cỏ vẫn treo ở trên đầu, lúc này đã hết nhẵn và bị lãng quên. Con chó lông đỏ - từ nãy vẫn nằm tì mõm vào chân - trườn người lên đánh hơi và liếm cổ tay chủ nó, người theo nguyên tắc lại đẩy nó ra. Trước cử chỉ ấy, con chó thở dài. Còn người đó cũng vững dạ trước sự có mặt của chính con vật.
Đêm đã buông xuống cái kén ánh sáng nhỏ bé, đe dọa sẽ phá tan nó. Làn không khí lạnh thổi ào ào qua những cành cây, lao vào những thân cây, rồi nằm chồng chất lạnh lẽo trên mặt mương. Đá rên rỉ vì lạnh. Trong những chiếc đĩa hứng nước lỗ chỗ trên mặt đá, nước đông lại và kêu lách tách.
Người đàn ông vừa ra khỏi giấc ngủ gà ngủ gật liền phàn nàn về cái xó xỉnh khốn khổ giá lạnh, anh cứ quấn chặt hơn các bao tải quanh người.
Nhưng anh biết cũng chẳng làm gì được nữa. Anh biết rằng chiếc xe của mình dừng lại ở đâu, thì mình phải dừng lại ở đó. Chẳng còn cách nào khác nữa. Anh cố gắng tận dụng chiếc túp lều mình đã khóa chặt vào. Khó có thể nói là bước vào túp lều này bởi mấy phần do ý chí, mấy phần do số mệnh. Hay có lẽ số mệnh là ý chí. Dù sao Stan Parker cũng khá ngang bướng.
Anh chẳng phải là thầy giáo cũng chẳng phải là nhà truyền giáo như mẹ anh từng hy vọng, gần như cho đến tận giây phút khi họ đặt bà dưới bãi cỏ vàng hoe ở chỗ rẽ của khe Willow. Anh cũng đã làm thử qua nghề này nghề nọ. Anh đã từng chăn đàn cừu gầy trơ xương, một đàn bò đông lúc nhúc, lông bóng mượt; anh đã đào một chiếc giếng trên đá rắn, xây một ngôi nhà và giết một con lợn; anh đã từng cân đường cho nhà kho ở vùng quê, chữa giày và mài dao. Nhưng anh không theo đuổi nghề nào lâu, do biết mình không chủ định làm.
“Đấy, anh chàng Stan đấy”, mọi người bĩu môi, thở phì và bảo vậy vì họ cảm thấy đây là người có thể tấn công được.
Do khi nhìn qua lối cửa, họ thấy anh - với dáng dấp một cậu bé - đang thổi ống bễ cho bố, nên họ nghĩ rồi ra anh sẽ bám rễ ở đấy thôi.
Bám rễ ở đấy lại đúng là mong muốn của bản thân anh thanh niên Stan Parker; nhưng đứng ở đâu, và làm thế nào mà đứng được? Trên các đường phố, những cánh cửa sổ mở, trên những con đường cát bụi, cây cối bám chắc rễ khiến lòng anh tràn ngập một nỗi buồn khao khát về một sự vĩnh hằng. Nhưng chưa thể có được. Đó là một cuộc vật lộn giữa hai ước vọng. Lúc còn là một cậu bé đứng giữ móng ngựa cho bố, thổi bễ, hoặc cạo những mảnh vụn xám bám quanh vó ngựa hoặc vun những đống phân vàng gọn ghẽ, anh đã nếm trải nỗi bất hạnh của những ước vọng đó. Ôi, còn nơi đây với ánh mặt trời và ruồi bay vo ve không lúc nào ngớt, lại là sự thanh bình của vĩnh hằng; mọi hình dáng đó đều quen thuộc, việc nối tiếp việc, ngày tháng trôi đi liên tục. Đứng trong ánh sáng của một ngọn lửa này, thật khó lòng mà mà diễn giải được toàn bộ mọi ngọn lửa. Vả lại, anh yêu quý người bố lúc nào cũng ợ hơi, mình đầy lông lá, và khi người thợ rèn đó cuối cùng đã chết vì rượu rum và một cơn đột quỵ anh đã khóc lóc thống thiết.
Rồi, hơn lúc nào hết, nỗi nhớ sự vĩnh hằng và lòng thèm khát được xê dịch giằng xé trong người cậu bé đúng vào lúc cuộc đời cậu kết thúc và bắt đầu.
- Ít nhất con cũng là niềm an ủi của mẹ Stan ạ, - bà Parker nói, mũi bà trở nên nhỏ đi và đỏ hồng lên, không phải vì sầu muộn nhiều, mà vì nhớ lại bao sự việc khiến bà thống khổ trong một thế giới chẳng tốt đẹp gì.
Cậu bé nhìn mẹ với lòng kinh hoàng, cậu hoàn toàn không hiểu mẹ định nói gì, nhưng biết chắc mình không thể đáp lại nỗi mong đợi của mẹ.
Những bức tường của căn nhà gỗ đang được dỡ ra. Cây tiêu xòa vào tận gối cậu, thế rồi bụi đường đã ở ngay chân cậu. Vào một sáng sớm, khi sương còn lạnh bên ngoài ủng, cậu đứng dậy ra đi tìm sự vĩnh hằng. Rồi cậu cứ đi, đi mãi trong bấy nhiêu năm, chẳng thu lại được gì nhiều nhặn ngoài những cơ bắp, chai sạn trong bàn tay, và những nếp nhăn đầu tiên trên mặt.
- Hừm, Stan, giờ con đã là người lớn rồi đấy, - có lần mẹ anh nói lúc anh đi qua lối cửa ọp ẹo của căn nhà ở khe Willow và bắt gặp mẹ đang lục lọi các thứ trong ngăn kéo.
Cứ như thể là lần đầu tiên bà chợt tỉnh ra và ngạc nhiên nhận thấy sự thay đổi.
Cả anh cũng kinh ngạc, vì anh không hề nhận thấy trưởng thành có gì khác biệt.
Hai mẹ con lúng túng một lát.
Sau đó, qua đôi vai và đường gân trên cổ mẹ, Stan Parker biết rằng chẳng bao lâu nữa mẹ sẽ qua đời. Trong phòng còn thoảng mùi những lá thư cũ.
Bà anh bắt đầu nói về tiền trong nhà băng. “Bố con đã để lại một khoảnh đất trên vùng đồi phía sau đây đấy, mẹ không biết tên nó, với lại nó chẳng hề có tên, bà con cứ gọi đó là đất của ông Parker, ừ, có miếng đất ấy đấy. Bố con đã chẳng coi nó ra gì. Miếng đất đó có được khai phá đâu. Ông ấy nói của vứt đi mà. Song có những chỗ đất tốt lắm. Khi vùng này phát triển chắc nó sẽ có giá trị đôi chút. Đường sắt là một phát minh kỳ diệu, và dĩ nhiên giúp ích cho người có đất. Vì vậy, con giữ lấy mảnh đất đó, Stan ạ, - bà bảo, - cho chắc ăn.”
Giọng bà Parker không còn chút xúc động nào. Nghe trống rỗng và đều đều.
Song hơi thở anh dồn dập hơn, tim anh đập thình thịch bên mạng sườn - đây là giải thoát hay tù đày? Anh không biết. Chỉ có điều mảnh đất bỏ đi, vô danh này sắp trở thành của anh, và như thể là lần đầu tiên cuộc đời anh đang hình thành.
- Thưa mẹ, vâng ạ, - anh nói.
Bao giờ nghe mẹ nói tới những vấn đề quan trọng thì anh cũng vậy. Rồi anh quay mặt đi để che giấu niềm tin chắc chắn của mình.
Ít lâu sau, mẹ qua đời, anh khẽ sờ bàn tay giá lạnh của mẹ, rồi chôn cất mẹ và bỏ đi.
Có người nói anh chàng Stan Parker không có tình cảm gắn bó với mẹ, nhưng thực ra chỉ vì anh không hiểu rõ mẹ mình.
Khi anh thanh niên đó vĩnh viễn bỏ đi trên chiếc xe mua lại của Alby Veitch, cùng con ngựa chưa thuần lông bờm xờm, thì chẳng ai bận tâm chú ý cả. Khi xe lăn bánh trên vết đường mòn đã tan băng và gà quang quác chạy tránh đường thì chỉ có một, hai người ngừng tay đập thảm hay nhào bột và nhận thấy Stan ra đi. Ngay sau đó, không còn lý do gì để nhớ đến gia đình Parker từng ở nơi đó. Vì hiện tại đã thắng thế.
Stan Parker đi tiếp qua đầm lầy và sỏi đá, đến những vùng đồi núi có mảnh đất của anh. Suốt hôm đó, chiếc xe cũ kêu lạch cạch và chồm lên, sườn con ngựa khỏe bóng nhẫy mồ hôi. Con chó lông đỏ bước lê bên xe. Cái lưỡi hồng của nó, theo chiều dài của chặng đường thè ra quét cả xuống đất.
Vậy là họ đã đến nơi, ăn và ngủ, sáng ra, giữa sương giá, bên cạnh đống tro lửa, họ đứng trước một viễn cảnh phải lựa chọn cách sống. Phải làm cho cuộc sống đó có mục đích. Phải vật lộn với sự im lặng, cùng sỏi đá và rừng cây. Sống sao nổi giữa một thế giới lạnh giá.
Thế giới đó, chẳng khác gì những ý đồ của nó, vẫn còn bị giam hãm một cách lạnh lùng, ảm đạm. Đôi lúc cỏ ngầy ngậy dưới răng, giờ đây chắc hẳn đã gẫy gập, sắc như thủy tinh, sỏi đá chắc hẳn đã thu hình nhỏ lại, vậy mà suốt đêm đó cứ tác oai tác quái. Không khí hút cạn hơi ấm của chim chóc như cố níu chặt không để chúng bay.
Nhưng không một chú chim nào chịu khuất phục.
Ngược lại chúng tiếp tục khuấy động sự im lặng. Còn chàng trai, sau khi đã thườn thượt thở dài liền đi thu dọn các túi đồ, trong đó còn nghe nổi lên tiếng rơm rạ lạo xạo và một, hai chú rệp bầu bạn, bèn vùi đầu vào công việc buổi sáng. Không còn cách nào khác.
Anh chẳng còn biết làm việc gì ngoài vét đống tro, ngoài việc vận động toàn thân dùng rìu đẵn những khúc gỗ xám xịt nằm ngả ở đó, làm giãn huyết mạch; cả mảnh đất đã tan hết tuyết đang trở nên sinh động; những vệt cỏ dài uốn mình nghiêng ngả khi mặt trời đã ló; những tảng đá đắm mình trong ánh dương thanh bình; tiếng nước chảy thoạt đầu khe khẽ rì rào, sau nổi rõ ở đâu đó; mặt trời mỗi lúc một lên cao cuốn theo làn khói mảnh mai nhưng đều đều từ đống lửa anh thanh niên đã nhóm.
Một chú chim nhỏ đuôi dựng đứng thấp thoáng ở đó, một mẩu vụn bánh mì dưới chân anh.
Anh thanh niên nhá mẩu bánh mì cũ. Hàm răng anh đều đặn, chắc khỏe, ánh nắng lung linh quanh cằm. Hệt như bằng vàng.
Ngụm nước trà ấm trôi xuống ngấm dần khắp người, anh thấy sung sướng.
Trời mỗi lúc một rạng. Stan Parker nhổm dậy và sau khi đi loăng quăng một lát, cốt chỉ để ngắm những gì của mình, anh bắt đầu phạt rừng cây bụi. Cây đầu tiên anh phạt, loạt lá rơi xuống phá tan sự im lặng như tờ. Công việc khá ngon. Nhưng đây cũng là cuộc vật lộn vất vả với bụi rậm, bất cứ chỗ nào thao tác cũng cực kỳ chật vật, bất thần xuất hiện từ phía sau, để lại lời cảnh cáo ở ngay trên da thịt những thông điệp bằng máu. Anh đã lột cả cái quần đen nhăn nhúm ra. Thân hình vàng óng của anh quằn quại, không phải vì đau đớn, mà vì quá sốt ruột. Mê muội trước viễn cảnh, anh chẳng còn thấy cây cối quất vào da thịt gây vết thương thật sự. Anh làm mải miết, và mặt trời đã hun khô cả máu.
Nhiều ngày trôi qua như vậy, anh tiếp tục phát quang đất đai của mình. Con ngựa vạm vỡ, lắc lắc chùm lông trán còn nguyên vẹn, kéo căng sợi xích và di chuyển những khúc gỗ. Anh tiếp tục đốn và đốt. Đôi lúc do quá say mê làm việc vì mục đích ma quái, các xương sườn dường như trôi dưới lớp da của anh. Đôi lúc miệng anh đầy tư lự, vốn thường ươn ướt, do khát đã trở nên nghiêm khắc, cứng lại đóng vẩy trắng. Song anh vẫn đốt và đốn cây. Đêm đến, anh nằm trên đống bao bố và lá cây, trên mảnh đất lúc này đã yên tĩnh, mềm mại, để xương cốt được giãn ra. Anh lăn ra ngủ như chết.
Giữa đám cây bụi cháy loang lổ, còn chưa chịu chấp nhận bộ mặt thay đổi của mình, anh nhanh chóng dựng một căn nhà, hay nói cho đúng hơn, một túp lều. Anh mang về những súc gỗ được tạo hình. Chậm rãi. Anh dựng những thanh gỗ đã đẽo. Từng thanh một. Chất đống những thanh gỗ mảnh. Cả những tháng ngày cũng chồng chất lên nhau. Mùa lại mùa tiếp nối đến trên khu đất anh đã khai khẩn. Nếu ngày thổi bùng trong lòng anh cơn giận thì tháng lại làm dịu lắng, vì vậy thời gian đó trôi đi, vừa hình thành vừa làm tan biến.
Song căn nhà vẫn đang được xây giữa những gốc cây đã ngừng chảy nhựa. Đúng là một biểu tượng hơn là một căn nhà. Mấy bức tường gỗ ghép vào nhau là ổn rồi. Nhà có cửa sổ đón ánh sáng lọt vào căn phòng hình chữ nhật, có ống khói, bằng sắt tây uốn theo hình hộp diêm, rốt cuộc cũng có khói bốc lên. Cuối cùng, anh dựng thêm hàng hiên rất thấp, chỉ như một hàng mi nhưng nào ai cấm chứ. Nhìn qua các hàng cây, đó là căn nhà đơn sơ nhưng bình dị mà chàng trai đã xây nên.
Giá có láng giềng, chắc nhìn thấy khói cuộn đều đặn qua ống hình hộp diêm hẳn phải dễ chịu lắm. Nhưng đào đâu ra hàng xóm. Chỉ thỉnh thoảng vào những ngày yên tĩnh hơn mới thấy vọng lại từ một chốn xa thăm thẳm, tiếng rìu bổ thình thịch như tiếng tim đập mạnh. Chỉ ở rất xa. Xa nữa, có tiếng gà gáy. Tưởng tượng chăng. Xa quá!
Họa hoằn anh đánh chiếc xe cao vổng của mình đến chỗ đó. Cả khu đất trống đầy tiếng con chó lông đỏ sủa và kêu ăng ẳng vì bị cột chặt vào cái cọc ngoài hiên. Rồi khi im lặng trở lại, đôi mắt vàng của nó nhìn theo xe. Một con vẹt bất chợt bay qua trên khoảng không xanh ngắt. Một chú chuột sáng bóng trên sàn nhà đất. Con chó bị bỏ rơi cuối cùng cũng phải im lặng. Thậm chí tuy bị xích, nó cũng không còn gắn bó với căn nhà mộc mạc của anh nữa.
Lúc nào cũng thấy chàng trai đánh xe đi chở về đủ thứ: một cái bàn và mấy chiếc ghế trầy xước, có ghép gỗ mun, một chiếc giường sắt, to và kêu cót két, vài thanh chấn song đầu giường bị trẻ con uốn cong để thò đầu qua được. Anh còn mang về cả những nhu yếu phẩm như bột mì, một chai thuốc giảm đau, thịt muối, dầu hỏa, khoai tây giống và gói kim khâu, cùng rơm yến mạch cho con ngựa bờm xờm, cả trà và đường bị rơi vãi ra sàn nhà khi giẫm lên cứ kêu lép nhép.
Chiếc vòng cổ của con chó gần như bóp nghẹt đứt cổ nó khi anh ta về, và lần nào nó cũng vui mừng nhảy cẫng lên khi ngửi thấy mùi các thứ mang về.
Rồi có lần anh đã biến mất một thời gian, lâu hơn mọi lần, lúc về mang theo một người đàn bà ngồi cạnh anh trên chiếc xe, tay nắm tấm ván và chiếc mũ bẹt của mình. Lúc chị ta bước xuống xe, con chó được tháo xích ra, nghển cổ, vẫn còn ngờ ngợ là mình đã được tự do, ngón chân run lên, im lặng đánh hơi quanh viền váy.
Chương 1
Tiến >>
Nguồn: TVE 4U
Được bạn: Mot Sach đưa lên
vào ngày: 14 tháng 10 năm 2024