Nguy Cơ Risk - Khoa Học Và Chính Trị Về Nỗi Sợ Hãi

dan gardner

dịch giả: ngọc trung , kiều vân

Lời Nói Đầu

Bất cứ ai đã nhìn thấy cũng sẽ không bao giờ quên. Và hầu hết mọi người đều đã nhìn thấy.

Khi chiếc máy bay đầu tiên từ trên bầu trời trong xanh tháng Chín lao xuống và đâm vào Toà nhà Trung tâm Thương mại, chỉ có một chiếc camera duy nhất bắt được hình ảnh này - khi ấy chiếc camera đang ghi lại cảnh các viên chức trong thành phố đang làm việc bình thường mà bây giờ người ta đã quên từ lâu rằng họ đang làm gì. Nhưng khi toà tháp bốc cháy, tín hiệu báo động đã được phát đi tới tấp trên các đường dây và đường hàng không. Những cặp mắt điện tử của thế giới đều hoạt động, và chờ đợi. Khi chiếc máy bay thứ hai lao xuống, rất nhiều người chứng kiến và theo dõi - có lẽ phải đến hàng trăm triệu người - đã nhìn thấy chiếc máy bay, vụ nổ giận dữ, khói mù mịt, những cơn mưa mảnh kính và thép rơi xuống giống như pháo hoa trong một buổi diễu hành. Họ đều đã trực tiếp nhìn thấy cảnh tượng đó, nó quá rõ ràng, quá thật, giống như họ đang chứng kiến toàn bộ cảnh tượng khủng khiếp qua cửa sổ phòng khách vậy.

Những người không tận mắt chứng kiến vụ tấn công cũng đã nhanh chóng được thấy cảnh tượng này. Trong những giờ phút hỗn loạn sau đó, những hình ảnh đã được phát đi phát lại. Chúng được chiếu ở khắp mọi nơi. Từ London tới Moscow và Tokyo. Từ những đỉnh núi của dãy Andes cho tới những cánh rừng tại Madagascar và cả khu vực sa mạc ở Australia. Tại tất cả các thành phố, mọi khu vực và từng ngôi làng có sự góp mặt của các phương tiện truyền thông - gần như đã phủ khắp hành tinh này - người ta đều đã chứng kiến tấn thảm kịch. Chưa bao giờ trong lịch sử của loài người lại có một trải nghiệm chung tới mức như vậy.

Gần 3.000 người đã chết. Hàng trăm nghìn người mất gia đình và bạn bè. Đó là một tội ác khủng khiếp. Tuy nhiên, các vụ khủng bố ngày 11 tháng 09 không phải là đã gây ra những mất mát cho hầu hết dân số của nước Mỹ, và xét tới dân số thế giới, thì tỉ lệ những người chịu mất mát lại càng nhỏ hơn nhiều. Ngày 12 tháng 09, những người còn lại trong chúng ta đều đã phải trở lại cuộc sống bình thường. Nhưng có những thứ đã thay đổi. Làm sao có thể không thay đổi sau những gì chúng ta đã chứng kiến?

Sau những gì đã xảy ra, có một số sự thay đổi nhỏ, hay ít nhất đó dường như không phải là những thay đổi đáng kể. Một trong những thay đổi đó là người ta thôi không đi máy bay nữa. Vài ngày sau vụ khủng bố, khi các hãng hàng không thương mại nối lại các chuyến bay thì những chiếc máy bay đã cất cánh trong tình trạng gần như không có hành khách.

Chính những hình ảnh đó là một nguyên nhân cơ bản. Đó là một phản ứng bản năng. Mỗi ngày có rất nhiều chuyến bay, và “cơ hội” để có mặt trên chiếc máy bay bị không tặc và đâm vào một toà nhà thương mại là rất nhỏ. Nhưng dường như điều đó chẳng nói lên điều gì. Các sân bay trở nên ảm đạm. Việc đi máy bay trở nên xa lạ và nguy hiểm.

Tất cả chúng ta đã đều được biết thông tin về gia đình các nạn nhân trong nhiều tuần và nhiều tháng sau vụ khủng bố. Thời lượng phát sóng của các phương tiện truyền thông bị lấp đầy bởi những cuộc phỏng vấn, giới thiệu lý lịch. Những câu chuyện khủng khiếp về sự mất mát đã khiến cho sự kiện gây chấn động này còn mang cả tính chất cá nhân với tất cả mọi người. Và đã có rất nhiều những buổi nói chuyện về những gì tồi tệ hơn có thể sẽ xảy ra. Các chính trị gia, các học giả và các chuyên gia đã nói về chủ nghĩa khủng bố như thể đó là Kị sĩ thứ Năm trong sách Khải Huyền(1). Cái chết và sự phá huỷ có thể ập tới bằng vô số cách, chúng ta đã được cảnh báo về các nguy cơ: chất độc trong nguồn nước; máy bay lao vào các lò phản ứng hạt nhân; virus đậu mùa được phát tán trên xe điện ngầm; các loại bom bẩn; các vali hạt nhân được chứa trong khoang những con tàu chở hàng vô danh.

Thời gian sau đó lại xuất hiện thông tin rằng một số người đã bị chết do những bức thư có chứa vi khuẩn bệnh than. Bệnh than. Không có ai nhìn thấy nó đang tới. Nhiều tháng trước, chúng ta rất an toàn và thịnh vượng. Đột nhiên, chúng ta trở nên giống như những con bươm bướm trước cơn bão. Những chính trị gia theo đường lối quyết liệt khuyên mọi người chú ý tới các mức độ màu sắc cảnh báo nguy hiểm, dự trữ sẵn các nguồn cung khẩn cấp. Đừng quên mua các dải băng ống để bịt kín cửa sổ và cửa ra vào, chống lại những cuộc tấn công hoá học hay sinh học. Và nếu như bạn có rơi vào tình huống đó, thì hãy cầu Chúa toàn năng rằng chúng ta còn có thể được thấy bình minh của ngày hôm sau.

Đó là một khoảng thời gian kinh hoàng và dường như không có thật. Dường như có thể dự đoán được rằng người ta sẽ chạy trốn khỏi các sân bay. Có một điều có lẽ sẽ gây ngạc nhiên là mặc dù vậy, họ lại không bắt đầu đào các hố tránh bom tại sân sau nhà mình. Người ta vẫn đi làm và tiếp tục cuộc sống của mình. Họ chỉ không bay thôi. Thay vào đó, họ đi trên mặt đất.

Các nhà chính trị lo lắng rằng “cuộc di cư” của người Mỹ từ máy bay sang ô tô sẽ ảnh hưởng tới ngành hàng không, thế nên hành động cứu trợ sẽ được thực hiện đồng thời với sự “di cư” này. Nhưng lại không có ai bàn luận về sự tăng đột biến việc đi lại bằng ô tô. Tại sao lại như vậy? Vì đó chỉ là chuyện vặt vãnh. Trong khi có những mối đe dọa chết người cần phải lo lắng hơn nhiều.

Tuy nhiên, có một điều mà không chính trị gia nào lưu tâm là di chuyển bằng đường hàng không lại an toàn hơn lái ô tô.

Khoảng cách an toàn là quá lớn, trong thực tế, các chuyến máy bay vẫn có thể an toàn hơn việc đi lại bằng ô tô, thậm chí kể cả khi nguy cơ về chủ nghĩa khủng bố đã trở nên tồi tệ hơn so với nguy cơ trong thực tế. Một Giáo sư người Mỹ đã tính toán rằng giả sử như mỗi tuần bọn khủng bố lại cướp một chiếc máy bay và sử dụng nó để tấn công khủng bố tại nước Mỹ thì một người bay trung bình một tháng một chuyến trong một năm sẽ chỉ có 1/135.000 xác suất bị giết bởi bọn không tặc - một tỉ lệ rủi ro chẳng đáng kể gì nếu so sánh với tỉ lệ 1/6.000 nạn nhân thiệt mạng trong các vụ tai nạn ô tô.

Các nhà phân tích rủi ro đều biết rõ về khoảng cách an toàn này. Và họ hiểu rằng lưu lượng di chuyển quy mô lớn chuyển từ máy bay sang ô tô sẽ có những tác động gì. Đó là một phép toán đơn giản. Nếu một người từ bỏ hình thức di chuyển tương đối an toàn bằng máy bay và chuyển sang đi ô tô thì sẽ không phải là vấn đề lớn. Anh ta gần như sẽ chắc chắn sống sót. Tuy nhiên, nếu hàng triệu người có cùng sự lựa chọn như vậy thì có lẽ một số trong đó sẽ thua trong trò đánh bạc may rủi này, và thua bằng chính mạng sống của họ.

Tuy nhiên, những vụ tai nạn ô tô lại không giống như các vụ không tặc khủng bố. Chúng không tràn ngập trên các bản tin của CNN, chúng cũng không tạo ra các cuộc thảo luận không có hồi kết của các học giả. Chúng không truyền cảm hứng cho các bộ phim của Hollywood, chúng cũng không tác động tới các chiến dịch của các chính trị gia. Và cứ như vậy, trong những tháng sau vụ khủng bố ngày 11 tháng 09, các chính trị gia và các nhà báo không ngớt lo lắng về chủ nghĩa khủng bố, vi trùng bệnh than và các loại bom bẩn. Còn mọi người thì tránh xa những chiếc máy bay để tránh khỏi những vụ không tặc, “hi sinh” trên những con đường của nước Mỹ. Và không có ai chú ý tới điều này.

Hay nói một cách khác, thì chỉ có rất ít người nhận ra điều đó. Gerd Gigerenzer, một nhà tâm lý học tại Viện nghiên cứu Max Planck, Berlin đã kiên trì thu thập các dữ liệu liên quan đến việc di chuyển và các mức độ rủi ro. Năm 2006, ông đã công bố một tài liệu so sánh các số liệu của 5 năm trước khi xảy ra vụ khủng bố ngày 11 tháng 09 và 5 năm sau đó.

Sự thực là dòng người đổ xô đi ô tô thay vì đi lại bằng máy bay tại Mỹ chỉ kéo dài trong một năm. Và sau đó, các hình thức giao thông lại trở về bình thường. Gigerenzer cũng phát hiện ra rằng, đúng như những gì đã dự đoán, những vụ tai nạn chết người trên các xa lộ tại nước Mỹ đã tăng vọt sau tháng 09 năm 2001 và lại trở lại mức bình thường vào tháng 09 năm 2002. Với những dữ liệu này, Gigerenzer đã tính toán được số người Mỹ bị chết trong các vụ tai nạn ô tô chính là hậu quả trực tiếp của việc chuyển từ đi máy bay sang đi ô tô.

Và con số đó là 1.595 người chết, tương đương hơn một nửa tổng số người chết trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất trong lịch sử. Con số này gấp sáu lần so với tổng số những hành khách xấu số trên các chuyến bay ngày 11 tháng 09 và gấp 319 lần tổng số người đã chết bởi sự tấn công của vi khuẩn bệnh than vào năm 2001.

Tuy nhiên, hầu hết mọi người đã không chú ý tới điều này ngoài gia đình của những nạn nhân. Thậm chí, ngay cả những gia đình này cũng đã không thực sự hiểu chuyện gì đã xảy ra. Họ nghĩ - họ vẫn nghĩ rằng - họ đã mất chồng, vợ, cha, mẹ, hay con cái bởi những vụ tai nạn giao thông và họ chấp nhận điều đó như một cái giá của cuộc sống hiện đại.

Họ đã không hiểu rằng, chính nỗi sợ hãi đã cướp đi những người ruột thịt thân yêu của họ.

Lời Nói Đầu

Tiến >>


Nguồn: NXB: Lao Động Xã Hội 2008
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 21 tháng 4 năm 2024