Ông Nhiệm

phạm tú uyên

Mỗi khi có dịp đi qua cung đường này, tôi luôn ghé lại thắp nén nhang cho ba. Mặc dù hài cốt của ba được gia đình đem về quê an táng từ lâu. Thắp nén hương để tưởng nhớ nơi ba nằm xuống. Nơi mà gần năm mươi năm trước biết bao người đã bỏ mạng nơi đây. Con đường 7B máu lửa.

Thường thì anh chị tôi thỉnh thoảng hay đi, còn tôi thật lâu mới có dịp đi qua. Cách đây khoảng hai mươi năm tôi ghé thắp hương, thấy từ xa, lấp ló trong rừng một căn nhà nhỏ, tôi cũng không quan tâm lắm. Rồi sau đó một thời gian dài có ghé lại, cũng vẫn căn nhà đó tuy có cũ kỹ. Tôi cho rằng người Dân tộc cất nhà để giữ nương rẫy nên cũng không để ý. Hôm nay có dịp trở lại tỉnh lộ hai lăm, đi loanh quanh để tưởng nhớ một thời đạn bom ly loạn. Ngày đó tôi còn bé nhưng những đau thương, mất mát cũng đã hằn sâu trong ký ức non trẻ. Định ra về thì thấy ngôi nhà lấp ló trong rừng cây ấy có khói lam bốc lên từ mái lá, cũng hơi tò mò. Hơn nữa, ghé lần này rồi chẳng biết còn có dịp trở lại nơi này nữa không. Tôi quyết định đến thăm căn nhà tranh đó.

Ngôi nhà tuy cũ kỹ, chẳng có đồ đạc gì nhiều nhưng tươm tất, sạnh sẽ. Chủ nhà là một ông lão chừng hơn bảy mươi tuổi, đang lui cui trong bếp. Có người lạ đến, ông ra tiếp:

- Chào ông, ông cần gì?

Tôi nói lý do có mặt ở đây và ghé thăm xin ông ly nước. Ông mời tôi ngồi rồi xuống bếp rót nước. Tôi chú ý thấy ông bị hư một mắt, dáng đi của ông hơi lạ, nhìn xuống đôi chân trần, chân ông cũng không có ngón. tôi không dám hỏi. Ông cho tôi biết ông tên Nhiệm, lên đây ở cũng hơn hai mươi lăm năm rồi. Khi nói vì sao ba tôi mất ở đây, ông Nhiệm nói chuyện có vẻ cởi mở hơn. Ông kể:

- Tôi ở vùng quê Quảng Ngãi, chiến tranh xảy ra, gia đình tứ tán. Anh tôi lên núi theo Cách mạng, mẹ tôi chết khi hai bên đánh nhau, tôi lưu lạc lên Kon Tum với người bà con. Sau đó đến tuổi đi quân dịch, tôi đăng lính Biệt động quân của chế độ cũ, được mấy năm thì xảy ra cuộc di tản tháng ba, một chín bảy lăm trên đường bảy này, giờ là đường tỉnh lộ hai lăm.

Ông Nhiệm ngừng kể, đưa tay bưng bát nước chè hớp một ngụm, rồi nhìn ra hướng đường Quốc lộ 25, đôi mắt mờ nhòa, xa xăm:

- Ngày đó, đây là con lộ máu...

- Dạ, tôi khi ấy mới mười tuổi.

- Ừ, tôi lạc trong rừng nhiều ngày. Một hôm chính tại nơi này, tôi đang thất thiểu lê từng bước thì phía trước một loạt đạn nổ, chân nhói đau, máu thấm ướt cả quần...

Ông Nhiệm lại im lặng. Tôi thấy ông dường như xúc động lắm, tay run run bưng bát nước, đôi mắt chớp lia lịa. Tôi cũng im lặng đồng cảm, nhưng chưa hiểu ông xúc động điều gì. Một lúc lâu sau ông nói, giọng đứt quãng:

- Tôi biết mình bị thương vì loạt đạn đó, tôi lia một băng... Ừ, tôi lia một băng đạn về phía tiếng nổ đã làm tôi bị thương... Sau loạt đạn, khu rừng lại trở nên yên lặng. Tôi nằm im một phần vì đôi chân tê buốt, một phần xem có còn nguy hiểm gì không.

- Thưa, sau đó thì...

- Tôi nằm một lúc lâu, nghĩ rằng nó chết rồi mới cố bò lại bụi cây, nơi phát ra tiếng súng. Đúng như thế, nó bị thương nặng, máu ra rất nhiều, đầy cả mặt. Tôi trườn tới sát bên xem bình đông của nó còn nước không. Do máu ra nhiều nên tôi khát nước vô cùng, bình đông còn nước tôi mở nắp định uống, chợt một bàn tay quờ quạng nắm lấy tay tôi, nói thều thào: «Mày là thằng Nhiệm phải không em?»

Quá bất ngờ, sao nó lại biết tên mình. Quả thật, tôi không thể nhận ra nó là ai, vì khuôn mặt dính đầy máu. Tôi hỏi: « Sao anh lại biết tên tôi?»

Hỏi xong, chợt nhiên cảm thấy có gì đó rất không bình thường, tôi lấy tay áo lau những vệt máu trên mặt nó. Nó gọi một cách yếu ớt: «Nhiệm!» Tôi bàng hoàng: «Anh Nhân!» Không còn nghi ngờ gì nữa, đó là anh tôi. Người đã lên núi theo Cách mạng khi tôi còn đi học. Hai anh em ôm lấy nhau. Tôi đau đớn đến tột cùng, anh thều thào: «Nhiệm ơi, anh xin lỗi... ». Nói đến đây người anh trở nên mềm nhũn - anh vừa trút hơi thở cuối cùng. Tôi ôm anh khóc không ra hơi. Sau đó tôi lấy cuốc nhà binh cố moi một cái lỗ, dù sức đã cạn kiệt, dù tay chân như tê dại nhưng không thể để anh tôi nằm như thế này: «Em xin anh tha thứ, em không đủ sức để an táng anh tử tế được». Lấp đất, làm dấu để sau này tìm lại xong tôi ngất đi bên nấm mộ của anh tôi còn tươi mùi đất. Tôi ngất đi không biết bao lâu, khi tỉnh lại bởi cơn mưa rừng trút xuống. Thấy bàn chân đau nhói như ai lấy kẹp rứt từng miếng thịt, tôi gượng ngồi dậy. Một con heo rừng tưởng tôi đã chết nên đứng vô tư nhai những ngón chân của tôi.

Nói xong, ông Nhiệm đưa bàn chân không còn ngón mà lúc đầu thoạt nhìn tôi hơi thắc mắc. Ông nói:

- Sau đó tôi cố lếch ra đường, rồi được bà con Dân tộc đưa về buôn cứu chữa những vết thương trên người.

Tôi nhìn ông Nhiệm thán phục:

- Với những thương tích như thế, ở trong hoàn cảnh không thuốc nen mà ông sống được quả là kỳ tích.

Ông Nhiệm đưa tôi ra cuối vườn, ở đó có một ngôi mộ được chất bằng đá núi thật đẹp. Ông nói:

- Đây là ngôi mộ của anh trai tôi. Tôi sẽ ở bên anh đến cuối đời, và khi lìa đời cũng mong ước được nằm bên cạnh anh tôi.

Nghe ông Nhiệm nói, tôi thấy nghẹn lòng, cay cay nơi khóe mắt. Chúc ông sức khỏe và đạt được điều ông mong muốn.

Trời bắt đầu ngã về chiều, nắng tháng ba ở Tây nguyên cứ phả vào người hừng hực. Tôi tạm biệt ông Nhiệm, đến lại nơi ngày xưa ba ra đi, tôi đứng lặng cúi đầu chào ba, đôi mắt lại cay cay. Tôi khóc thương ba tôi, khóc cho hai anh em ông Nhiệm, khóc cho những người đã ngã xuống nơi đây.

Phạm Tú Uyên


Nguồn: Tác giả Vietnamthuquan.eu - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 31 tháng 5 năm 2023