- - I - Lên Đường
- - II -
- - III -
- - IV -
- - V -
- - VI -
- - VII -
- - VIII -
- - IX -
- - X -
- - XI -
- - XII -
- - XIII -
- - XIV -
- - XV -
- - XV - (2)
- - XVI -
- - XVII -
- - XVIII -
- - XIX -
- - XIX -2 -
- - XX -
- - XXI -
- - XXII -
- - XXIII -
- - XXIV -
- - XXV -
- - XXVI -
- - XXVI - (2)
- - XXVI - (3)
- - XXVI - (4)
- - XXVII -
- - XXVIII -
- - XXIX -
- - XXX -
- - XXX - (2)
- - XXXI -
- - XXXI - 2 -
- - XXXII -
- - XXXIII -
Cậu Tú
dịch giả: trần dần
- I - Lên Đường
anhtrax - tập 2: cậu tú
nguyên tác:le bachelier (jacques vingtras #2)
Tôi tặng quyển sách này cho NHỮNG AI bụng nhồi đầy tiếng Hy-lạp tiếng La-tinh, mà chết đói.
JUYN VALEX (Jules Vallès)
*
Tôi có học thức.
“Thế là anh đã được trang bị để bước vào cuộc chiến đấu - giáo sư của tôi nói với tôi trong lúc từ biệt - Ai đã thắng ở trường học, sẽ là người chiến thắng khi bước vào sự nghiệp đời mình.”
Sự nghiệp gì?
Một người bạn cũ của thầy tôi, nhân đi qua Năngtơ( Nante) tới thăm thầy tôi, có kể lại câu chuyện về một người bạn đồng môn hồi xưa, một trong số những học sinh đã chiếm được đủ mọi thứ giải thưởng, đã được người ta tìm thấy xác nát nhừ và be bét máu, ở dưới đáy một mỏ đá, nơi anh ta lao mình xuống sau ba ngày đói ăn.
Cái mỏ đá chẳng phải là nơi để bước vào[1]; tôi nghĩ không nên; dù sao thì cũng không nên đâm đầu vào trước.
Bước vào sự nghiệp có nghĩa là: tiến lên trên đường đời; là, như Hecquyn (Hercule), đứng ở ngã tư.
Như Hecquyn đứng ở ngã tư (Comme Hercule dans le carrefour). Tôi chưa quên môn thần thoại học của tôi. Thôi được! thế cũng là đáng kể lắm rồi.
Trong lúc người ta đóng ngựa vào xe, ông hiệu trưởng đã tới bắt tay tôi như đối với một alumni yêu quý nhất của ông. Ông đã nói chữ alumni.
Đang bối rối về nghĩ tới chuyện lên đường, tôi đã không hiểu ra ngay lập tức. Ông Riban (Ribal,), giáo sư đệ tam lấy khuỷu tay hích tôi.
“Alumn-us, Alumn-i”(alumni), ông khẽ nhắc tôi, vừa nhấn mạnh vào chữ thuộc-cách, vừa vờ làm như đang cài lại móc quần.
- Tôi hiểu ra rồi! Alumnus... nghĩa là “học trò”, đúng rồi.
Tôi không muốn chịu nước lép với ông hiệu trưởng về món từ ngữ; ông dùng tiếng la-tinh với tôi, tôi trả lại ông tiếng hy-lạp:
- (nghĩa là: xin cảm ơn thầy yêu quý).
Đồng thời tôi còn làm một cử chỉ bi kịch, tôi trượt chân, ông hiệu trưởng muốn giữ tôi lại liền bị trượt chân theo; có đến ba bốn người nữa cũng suýt bị ngã như những hình thầy tu xếp bằng quân bài.
Ông giám hiệu (impavidum ferient ruinoe) ((impavidum ferient ruinae)[2] là người lấy lại được thăng bằng trước nhất, và trở lại chỗ tôi, hơi giẫm lên chân mọi người. Trong giờ phút trọng đại này, ông lại nói thêm về học thức của tôi.
“Với hành lý ấy, anh bạn ạ…”
Người phu trạm ngỡ là nói về hòm xiểng của tôi.
“Ông có những bọc hàng gì đấy?”
Tôi chỉ có một chiếc hòm nhỏ thôi, nhưng tôi còn có cái vốn học thức của tôi.
Thế là tôi đã lên đường.
Tôi có thể vung tay, vung chân, khóc, cười, ngáp, hét, tùy ý.
Tôi làm chủ các cử chỉ của tôi, làm chủ lời ăn tiếng nói và vẻ im lặng của tôi. Cuối cùng tôi đã ra khỏi chiếc nôi, nơi các bậc cha mẹ phúc đức của tôi đã bọc tã cho tôi mười bảy năm trời và thỉnh thoảng lại dựng tôi dậy để quất tôi.
Tôi không dám tin là thật! Tôi sợ chiếc xe ngựa bỗng dừng lại, rồi thầy tôi hoặc mẹ tôi bước lên xe và lại bắt tôi về đặt lại trong nôi. Tôi sợ ít ra là một giáo sư, một tay buôn từ ngữ, tới ngồi bên cạnh tôi như một tên sen đầm.
Nhưng không, trên nóc chiếc xe chở khách chỉ có mỗi một viên sen đầm và hắn nai nịt những đồ da trâu màu trứng tráng, ngù vai nom như miếng phó-mát, và đội mũ kiểu Napôlêông.
Loại sen đầm ấy thì chỉ bắt những kẻ giết người; hoặc khi họ bắt những người lương thiện, thì tôi biết rằng việc chống cự họ để tự vệ không phải là một tội. Người ta có quyền giết chết họ như ở Farâyron ấy. Người ta sẽ chặt đầu anh sau; nhưng bị chặt đầu còn không bị nhục bằng làm thầy anh ngã vào chiếc ghế khi ẩy thầy anh ra để khỏi bị ông ấy đánh chết.
Tôi được TỰ DO! TỰ DO! TỰ DO!..
Tôi như thấy lồng ngực mình nở rộng và người tôi rộn lên một niềm kiêu hãnh… Tôi như thấy kiến lấm rấm bò ở chân và ánh mặt trời chan hòa đầu óc.
Tôi ngồi thu lu một chỗ. Ôi chao! Mẹ tôi sẽ bảo là trông tôi có vẻ còm nhom hoặc như gù, con mắt ngơ ngác, quần hếch, gi-lê xộc xệch, khuy áo đứt hết! - Đúng vậy, bàn tay tôi đã dứt tung đi tất cả mọi thứ để lùa vào da thịt ở ngực; tôi cảm thấy tim tôi đang đập mạnh, và tôi thường ví tiếng tim đập lúc ấy với sự cựa quạy của đứa hài nhi trong bụng mẹ sắp đẻ…
Tuy nhiên cảm giác say sưa dần dần xẹp xuống, dây thần kinh chùng lại, và tôi mệt mỏi như thể sau một ngày say rượu. Một nỗi buồn thoáng qua trên vầng trán tôi, như đám mây nọ đang cuốn trên trời cao, và như mớ bông xám che lấp mặt trời.
Chân trời, qua cửa kính, đang đe dọa tôi với cái vẻ bao la của nó, cánh đồng đang trải ra câm lặng và hoang vắng, không gian ấy và cảnh cô tịch ấy dần dần làm lòng tôi tràn ngập một niềm xúc động xót xa…
Tôi không hiểu người ta đã khiêng chiếc xe ngựa chở khách lên tàu hỏa lúc nào[3]; nhưng tự dưng tôi cảm thấy một thứ kinh sợ có tính chất tôn giáo trước con đường sắt mà cái trán bằng đồng của đầu máy xe lửa đâm toác ra và trên đó cuộc đời tôi đang lao đi… Và, kiêu hãnh như tôi, táo bạo như tôi, cũng cảm thấy mình đang tái người đi, ngỡ mình sắp khóc.
Vừa lúc đó viên sen đầm nhìn tôi - hãy can đảm lên. Tôi vờ bị ngạt mũi để giải thích cặp mắt ướt của tôi và tôi hắt hơi để che giấu là tôi sắp òa lên khóc.
Kiểu vờ vĩnh đó tôi sẽ còn dùng đến nhiều lần.
Tôi sẽ mãi mãi lấy cái vẻ vô tư lự và mỉa mai như chiếc mặt nạ hay bộ tóc giả để che đậy những xúc động thầm kín của tôi.
Cô bạn đồng hành ngồi cạnh tôi là một cô gái xinh xắn có bộ ngực đẫy đà, nụ cười quyến rũ, cô dùng những lời nói mặn mà, và vuốt ve tôi bằng đôi mắt to xanh, làm tôi cảm thấy tự nhiên, thoải mái.
Nhưng tới một trạm nghỉ, cô ta đã giơ tay về phía một chị bán hoa và chờ tôi mua hoa tặng cô.
Tôi đỏ mặt rời khỏi toa đó và nhảy sang toa khác. Tôi đâu có nhiều tiền để mua hoa hồng!
Trong túi tôi chỉ vừa xoẳn có hai mươi bốn xu: hai mươi xu bằng tiền hào và bốn xu bằng tiền xu… nhưng khi tới Pari tôi sẽ được lĩnh bốn mươi phơrăng.
Đó là cả một chuyện rắc rối.
Hình như ông Truytsê ở Pari có nợ ông Ăngđrê ở Năngtơ, ông này lại nợ thầy tôi thay một ông Saluymô nào đó ở Xanh-Naze; nhưng qua tất cả những lời giải thích lôi thôi đó, rút lại là tôi sẽ tới văn phòng Sở vận tải Pari để nhận của ông Truytsê món tiền bốn mươi phơrăng.
Còn từ giờ tới đó, chỉ có hai hào tư!
Hai hào tư, mười bảy tuổi, đôi vai đô vật, giọng nói như tiếng đồng, răng như răng chó, nước da xanh xanh, bàn tay vàng như chanh và tóc đen như hắc ín.
Cùng cái dáng điệu man rợ ấy, một sự nhút nhát kinh khủng, nó làm tôi khổ sở và vụng về. Mỗi lần có người nào lớn tuổi hơn, giầu có hơn, hoặc yếu đuối hơn nhìn tôi, khi những người nói chuyện với tôi không thuộc hạng người tôi có thể đánh nhau được và dùng quả đấm để trả lời sự giễu cợt của họ, tôi đâm sợ như con nít và lúng túng như con gái.
Người mẹ hiền của tôi cứ luôn luôn bảo rằng tôi trông xấu xí từ mũi xấu đi, tôi lóng ngóng, vụng về (thậm chí không biết tưới nước thành hình con số 8), đến nỗi tôi đâm ra không tin ở mình trước bất cứ ai không phải là người của nhà trường, giáo sư hoặc là bạn học.
Tôi tin là tôi thua kém tất cả mọi người qua lại và tôi chỉ vững tin ở lòng can đảm của mình.
Tôi đã có cái ăn đường với những thứ mẹ tôi chuẩn bị cho. Tôi sẽ không đụng đến số tiền hai hào tư.
Tới lúc khát nước, tôi lẻn vào chỗ quầy ăn uống và dừng sau đám hành khách, tôi nhấc một bình nước, rót đầy vào chiếc cốc bằng da của tôi. Chiếc cốc này tôi đã mua từ hồi định đi làm thủy thủ, làm kẻ phiêu lưu, làm người phát hiện hải đảo.
Tôi phải mất nhiều nghị lực để vồ lấy cổ chiếc bình và ăn cắp nước. Tôi cảm thấy tôi như một trong những người nghèo khổ nọ chìa tay về phía một chiếc bát ăn, ở các cổng làng.
Tôi nghẹn ngào uống, tim tôi cũng nghẹn ngào. Tựu trung đó là một cử chỉ làm tôi thấy nhục.
Pari, 5 giờ sáng
Chúng tôi tới nơi.
Cảnh sao mà im lặng! Tất cả đều nhợt nhạt dưới ánh mờ buồn bã của buổi sáng và có cái vẻ cô tịch của nông thôn trong cái cảnh Pari đang ngủ này. Thật là buồn như cảnh hoang vắng: trời lạnh, cái lạnh của rạng đông, và ngôi sao cuối cùng nhấp nháy ngờ nghệch trong màu xanh nhạt nhẽo của bầu trời.
Tôi sợ hãi như một chàng Rôbanhxông đổ bộ lên một bờ biển hoang vắng, nhưng ở một xứ chẳng có cây xanh và quả đỏ. Các ngôi nhà đều cao vút, ảm đạm, và như đui mù, với cửa sổ đóng chặt, rèm buông kín.
Đám phu trạm đang đẩy các hòm xiểng. Đây là hòm của tôi.
Còn cái ông bốn mươi phơrăng đâu? người bạn của ông Ăngđrê(Andrez) đâu?
Tôi tới gần một người khuân hàng trông có vẻ hiền lành nhất, và giơ bức thư ra, tôi hỏi thăm ông Truytsê, - đấy là tên đề trên phong bì.
“Ông Truytsê à (Truchet)? buồng giấy của ông ta kia kìa, nhưng ông ta đi Óoclêăng (l'Orléance) từ hôm qua.
- Đi rồi!… Liệu tối nay ông ấy có về không?
- Cũng phải vài ngày nữa; vì mới xảy ra vụ một tay đánh xe ăn cắp trên tuyến này nên trên cử ông ta đi theo dõi.”
Ông Truytsê đi rồi. Mẹ tôi thật là có tội! Đáng lẽ mẹ tôi phải đề phòng là ông đó có thể đi vắng, mẹ tôi phải biết là có những tay đánh xe ăn cắp, mẹ tôi phải tránh cho tôi cái cảnh trơ trọi một mình với hai hào tư trên vỉa hè của một thành phố nơi trước đây tôi chỉ là một tên học trò bị nhốt, có thế thôi.
“Ông có chiếc hòm này phải không? Một nhân viên hỏi tôi.
- Thưa ông, vâng.
- Ông có khiêng nó đi không? Chúng tôi còn phải xếp những hành lý khác vào buồng giấy.”
Vác hòm đi ư! Tôi không thể vác nó trên lưng mà lê qua thành phố… chỉ một tiếng đồng hồ là tôi sẽ khụyu. Ôi chao! tôi uất quá đến trào nước mắt, và cổ họng tôi như có một lưỡi dao mẻ ngoáy vào trong…
“Thế nào, chiếc hòm! kia!”
Người nhân viên lại nhắc lần nữa, vừa đẩy chiếc hòm về phía tôi, với cử chỉ bực bội và giận dữ…
“Thưa ông, tôi nói, giọng run run… Tôi cần đưa ông Truytsê… một bức thư của ông Ăngđrê, giám đốc Sở vận tải Năngtơ…”
Người đó dịu nét mặt lại.
“Ông Ăngđrê à?… Biết! vậy là ông cần một chỗ để đến trọ chứ gì?… Có một khách sạn ở phố Hai-Đồng vàng, không đắt đâu.”
Ông ta nói “không đắt đâu”, với vẻ rất tử tế. Ông nhìn được vào tận đáy túi tiền của tôi, tôi cảm thấy thế!
“Với ba hào, ông sẽ có một buồng.”
Ba hào!
Tôi đánh bạo và nắm lấy quai hòm.
Nhưng tôi chợt nảy ra một ý khác.
“Tôi có thể để hòm lại ở đây được không? tôi sẽ đến lấy sau?
- Được… Để tôi đẩy chiếc hòm của ông vào góc này… Chà! hòm này thì không thể nào lẫn với hòm khác được, ông vừa nói vừa nhìn địa chỉ tôi. Hẳn là ông đã đề phòng cẩn thận.”
Chính mẹ tôi đã lấy đanh đóng tờ danh thiếp lên chiếc hòm của tôi:
Chiếc hòm này, kỷ niệm của gia đình, thuộc quyền sở hữu của VANHTRAX (Jăc - Jôdếp - Atanadơ) sinh ngày lễ Thánh Bacnabê, ở Puy (quận Loa-thượng), con trai của ông Vanhtrax (Luy - Pie-Ăngtoan), giáo sư đệ lục tại trường trung học hoàng gia ở Năngtơ. Rời tỉnh này, ngày 1 tháng ba, để đi Pari, bằng xe ngựa chở khách của hãng Lafit và Gaya, ở góc quảng trường Rôtôngđơ. Trường hợp xảy tai nạn, xin gửi hòm về Năngtơ (quận Loa-hạ), theo địa chỉ sau: Ông Vanhtrax, bố, đường bến Ritsơbua, số 2, gác hai, trong tòa nhà của ông Jăng Pôtxiê, tục gọi là “Vòi Gộc”. Hãy trông coi chiếc hòm này cẩn thận!
Chữ xếp như bản mộ chí trên một cây thập ác nông thôn. Người nhân viên nhìn tôi từ đầu xuống chân, còn tôi thì ấp úng một câu nói dối: “Đấy là bà nội tôi đã làm. Ông biết, các bà già hiền lành ở nhà quê ấy mà…”
Tôi tưởng có thể khỏi lố bịch bằng cách gán mộ chí cho một bà lão nhà quê.
“Bà cụ chít khăn đen, váy thì hếch ngược ở phía sau, tôi biết lắm, người nhân viên hiền hậu nói.”
Nếu ông ta trông thấy cái mũ màu vàng, với những con chim mổ nhau, là cái mũ cưng của mẹ tôi!… người mẹ mà tôi vừa mới phủ nhận…
Cuối cùng, người ta cất chiếc hòm vào một chỗ - Tôi chào, vặn quả đấm cửa và đi ra.
Thế là tôi đang ở giữa Pari.
Tôi đã vào Pari như thế đấy.
Bước đầu may mắn! Cuộc đời tôi bắt đầu với ngôi sao chiếu mệnh như thế rồi đây sẽ ra sao?
Tôi bước ra khỏi sân, đi về phía trước… Những chiếc xe hàng thịt phóng qua; mũi ngựa như phì ra lửa (ở tỉnh lẻ người ta nói như vậy là vì người ta đã cho chúng uống máu); những chiếc xe hàng sữa bằng sắt tây chồm chồm trên đường lát đá; thợ thuyền xuôi ngược với một mẩu bánh mì và đồ nghề cuộn trong chiếc áo bludơ; một vài cửa hiệu mở mắt thức dậy; những người giữ đồ thánh xuất hiện trên thềm các nhà thờ, tay cầm những chiếc chìa khóa to tướng; vài chiếc rơđanhgôt ra đường.
Paris đang thức giấc.
Paris đã dậy.
Tôi lê bước trong các phố đợi đến tám giờ.
Chú thích:
[1] Ở đây có 1 trò chơi chữ không dịch nổi, trong tiếng Pháp mỏ đá và sự nghiệp cùng một từ; carrière (N.D.)
[2] Cảnh đổ nát (của trần gian) đập vào mắt ông mà không làm ông cảm động, nói cách khác: những thảm họa ghê gớm nhất cũng không làm ông lay chuyển (thơ Horaxơ).
[3] Việc giao thông vào hồi 1851 thường làm như thế
- I - Lên Đường
Tiến >>
Scan: conguyen- Đánh máy:conguyen, vqsvietnam, alpha8x, lemontree123, meobeohu, tamchec, Fish, bablu, hathao, mrmalibu và Bac Nguyen
Nguồn: NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC - Hà Nội – 1974 - http://tve-4u.org
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 8 tháng 12 năm 2023