Từ Istanbul - Ðến Tu Mơ Rông - Theo Ðường Chim Bay

phan thái yên

- 1 -

Dùng dằng với múi giờ vừa quen nay phải vội lìa xa, tôi trằn trọc trở lăn suốt đêm đầu tiên trở lại nhà. Mắt biếng lười khép mở, nhấp nhem khung cửa nhờ nhờ bóng cây trong vườn phủ kín vùng thao thức sâu quá canh tàn. Bâng khuâng trong cảm giác khơi vơi của ra-đi-quay-về, tôi như người say trong giấc mộng du, đầu óc mụ mị nhấp nhô những ngày những tháng như dãy cột mốc dập dềnh trên sóng nước. Tôi nằm nghe cảm giác mình mềm theo trí tưởng, chừng như muốn nhão ra cho thấm vấy đến tận cùng chốn hồng hoang hòa quyện giữa lịch sử với truyền thoại theo dòng thời gian trắc trở, máu me.

Ðoàn chiến binh giáp trụ, khiên đao, ầm ào vó ngựa qua mấy thời đế quốc Roman, Bysantine, rồi Ottoman, hưng phế. Is?tan?bul? âm hao ngọt ngào tiếng khải hoàn ca. Istanbul, thành phố từ những ngày tôi tóc xanh đã ước mong được đến một lần, sao lòng vẫn mãi bồi hồi nghĩ về cơn mộng cũ? Xa xưa rồi, Constantinople. Có một bài cả Mỗi cô gái ở Constantinople đều sống đời mình ở Istanbul, nên nếu bạn được hẹn hò ở Constantinople (nên nhớ) nàng sẽ đợi bạn ở Istanbul.

Chờ chi nữa, lên đường thôi!

Tạm biệt Istanbul, con tàu mộng du theo cánh chim bay về quê hương yêu dấu, châu thổ tràn ngát hương sen, và Tây Nguyên xanh thẩm đại ngàn. Sài Gòn, Huế, Ðà Nẳng, Hội An. Quê hương cũ mến yêu, đã bỏ đi mà vẫn mãi nhớ về. Nơi gia đình, người thân, mồ mả mẹ cha vẫn còn ở đó và kỷ niệm một thời xuân vẫn tươi tắn nụ cười chờ đón. Hồ như thoảng vọng đâu đây tiếng mẹ ầu ơ ru con bên vườn trưả Hay vẫn mãi là tiếng chim hót trong lòng qua bao năm tháng?

Phải chăng sự luân chuyền bất tận của mùa xuôi theo thời gian và kỷ niệm chuổi ngày thơ sẽ nối dài thêm ước vọng. Người đứng nhìn đọt núi Ngọc Linh vói trời rồi vọng theo ngàn mây trôi mà kiếm tìm giấc mộng đời mình. Tự nghìn năm xưa, người đi về biển xanh, người ở lại đầu non, nên người vẫn mãi phân ly, ngoái vọng đợi chờ, dắt díu ra đi. Trên đá cũ lũy đồn cheo leo quan ải, từ hàng trăm năm trước có lẽ gió trên đỉnh Bạch Mã vẫn thổi chạnh lòng người lính thú Ðàng Trong. Người hiu hắt nỗi lòng trấn thủ lưu đồn... chiều chiều mây phủ Hải Vân, súng rền Non Nước bâng khuâng dạ ngườị..(Ca dao).

Những giấc mơ vẫn lặn lội lên đường. Cơn mơ nào nối liền cách trở cheo leo như những toa tàu nối vào nhau bền bỉ. Con tàu thấp thoáng băng mình qua cánh rừng xa, mỏng manh làn khói xám bị gió xé rã rời. Thế thôi, dù có lắng tai cũng chẳng nghe được chút âm vọng nào ngoài nhịp đập tim mình và tiếng gió trời. Con tàu vẫn lao mình về phía trước, lúc chênh vênh triền vực, khi tối tăm qua mấy dặm hầm sâu. Con tàu ra đi, níu kéo thời gian, nối lại những quãng đời có mưa rơi ở hai đầu nỗi nhớ.

Lòng bổng chùng theo nỗi nhớ về dòng sông lưu lạc quê nhà. Dòng sông trôi, đẩy nhịp hư vô cuốn trả cơn mơ bất tận kiếp người về lại với cảnh đời dâu biển. Dòng sông trở mình thấm đẫm phù sa, ôm đồm từng nỗi niềm riêng của đá sỏi nghìn xưa mà mơ buổi hóa thân. Giấc mơ của đá. Nỗi buồn của từng giọt lệ, từng giọt mồ hôi rã đọng muối khô vì ngọn gió lịch sử tai chướng, lọc lừa.

Tiếng chim Mockingbird ồn ào cuối cùng đã lay tôi khỏi cơn ngái ngủ đầy cảnh sắc mộng mị.

Tôi ngồi dậy, định bụng làm vài động tác vươn vai cho tỉnh người nhưng rồi chỉ lặng lẽ bước ra khỏi phòng ngủ. Tình cảm đầy xúc động về hình ảnh của thành phố đi qua, về sinh hoạt ròng vã mồ hôi của dân quê mình cùng những cánh chim bay trên núi cao, đồng sâu khiến tôi bồi hồi

đứng lại, nhắm mắt hồi lâụTôi muốn ở lại với giấc chiêm bao đầy màu sắc đã cho tôi nỗi vui được ra đi, được trở về, tràn đầy hạnh phúc suốt 33 ngày qua.

Mùi café thơm làm tôi tỉnh táo. Vợ chồng vừa trở về cõi riêng thân thuộc của mình. Khu vườn sau hoa nguyệt quế nở trắng, tinh khôi. Và như thế, chuyện kể về những ngày vui lại được sống dậy.

Rốt cùng rồi bố con tôi cũng hẹn nhau được một chuyến đi. Cơ may đến khi trường Ðại học Hải-Ðăng dạy đồng ý tài trợ cho anh chàng một chuyến đi dài khảo sát, tìm kiếm các loài chim quý hiếm ở Việt Nam cùng nhóm giáo sư thuộc các trường ở California và Colorado. Roya vừa chấm xong điểm thi cuối niên học cho sinh viên nên mừng rỡ được dịp về thăm quê chồng như dự tính. Ông bố chồng thì như mở cờ trong bụng vì hành trình về Sài Gòn qua ngã Thổ Nhĩ Kỳ sẽ ở thăm Istanbul 5 ngày, 4 đêm. Ba tuần kế tiếp nhóm khảo sát sẽ cùng nhau đi?săn? chim tại vùng châu thổ Miền Tây và Tây Nguyên. Hai tuần cuối của chuyến đi, ba chúng tôi sẽ đoàn tụ tại Ðà Nẳng với bà ngoại và gia đình con gái về thăm.

Chuyến bay dài hơn mười tiếng đồng hồ từ Chicago đến Istanbul vào buổi sáng. Phi trường Quốc Tế Istanbul chưa đến giờ cao điểm, người đi lại thưa thớt. Ngủ gà ngủ gật mãi trong quán café phi trường mà vẫn chưa đến mười giờ sáng. Homestay đặt trước từ Mỹ thì mãi đến hai giờ chiều mới được vào, may sao Ðăng liên lạc trước với người chủ nhà đồng ý cho gởi hành lý sau mười một giờ sáng.

Nơi chúng tôi trọ là một apartment có hai phòng ngủ khá khang trang trong một khu nhà cổ, có lẽ được xây từ đầu thế kỷ trước. Tôi ngán ngẩm nhìn dàn cầu thang xoắn lên đến tầng ba, rồi tặc lưởi theo hai người trẻ tuổi từng bước leo lên. Ráng đi cho quen ông già! Còn về Việt Nam ba tuần leo núi, băng rừng theo cho kịp bọn trẻ và mấy con chim biết bay, tôi thầm nhủ. Ngôi nhà nhìn ra một quảng trường rộng lát đá cuội mòn nhẳn dấu thời gian. Bầy chim câu hàng trăm con chấp chới bay theo đàn rồi ùa sà xuống tranh thức ăn từ những người đàn bà trùm khăn ngồi từng nhóm rải rác trên những băng ghế đá. Không xa quảng trường là Galata Tower ẩn hiện sau con phố dốc lát đá, quanh co đông nghẹt người đi. Gởi xong hành lý, chúng tôi tìm đường đỉ ăn sáng, mà phải là bữa ăn sáng truyền thống Turkiye mười một, mười hai món. Nhìn một bàn thức ăn đầy màu sắc và thơm phức, tôi thầm nhủ thôi thì??đường điếc? gì đó tính sau đi. Rời nhà hàng?breakfast all daỷ về lại nhà trọ vừa kịp hai giờ chiều, chính thức nhận phòng.

Tắm mát và giấc ngủ bù nạp đủ năng lượng, chúng tôi sảng khoái bước vào buổi tối Chủ Nhật Istanbul. Phố đông nghẹt người, thương hiệu thời trang cao cấp trên thế giới chen vai với khách sạn, nhà hàng san sát nhau và người đi như nước tràn. Âm nhạc, tiếng động, tiếng nói cười trẻ trung chói động vào tai, lùng bùng như đang ngồi trong một phi cơ phản lực đang rời phi đạo lao lên không trung. Không hẳn là phố đi bộ nhưng chẳng có xe qua lại ngoại trừ thỉnh thoảng những xe bọc thép cảnh sát vũ trang đến tận răng lèn lách chạy qua và các đoàn xe pick up dềnh dàng chở đầy thanh niên vẩy cờ Trăng lưởi liềm trắng. Họ hô rầm vang khẩu hiệu nghe lỏm bỏm được tên ông Tổng thống Erdogan vừa thắng cuộc bầu cử chung kết tối nay. Ở cuối phố, qua khỏi náo nhiệt, tình cờ vào một nhà hàng nhỏ ăn được tô cháo cá ngon tuyệt.

Hải-Ðăng có thói quen thức dậy rất sớm mỗi sáng, mang theo ống dòm đi thơ thẩn tìm chim. Trúng ý tôi nên hai cha con sè sẹ ra khỏi nhà, dò dẫm theo Google đến một công viên đầy cây xanh gần bến tàu. Thấp thoáng sau hàng cây dẫn xuống cầu tàu còn mờ trong hơi nước, chiếc phà nhỏ vừa cập bên lố nhố hành khách lên xuống. Cậu con trai chỉ về hướng một nhóm tàu cả chục chiếc lớn nhỏ với những hàng ghế sắp thứ tự theo từng dãy trên bong lộ thiên. Ngày mai mình sẽ đi boat tour cả ngày trên Bosphorus Strait ra cho tới Black Sea.

Buổi sáng chim thức dậy hót ríu rít trong các tàng cây. Hải-Ðăng mãi mê chăm chú lắng nghe, kiếm tìm vị trí của từng cái đầu, cái mỏ chim nhỏ xíu lay động trong lá, hay cặp chân chim mảnh khảnh, vàng vàng, đen đen nhảy chuyền bất giác trên những nhánh cây nhỏ. Anh chàng thỉnh

thoảng lại ậm ừ xuýt xoa trong cổ họng tiếng tán dương rồi đối chiếu, tra xét trên iPhone và ghi chép vào chiếc sổ nhỏ luôn mang theo bên mình. Ông bố thì hậm hực, tiếc rẻ hùi hụi đã mấy lần mới vừa chỉnh xong tiêu điểm, cận cảnh vừa rõ ràng chưa kịp bấm thì chim vụt bay mất. Mất toi tấm hình chim đẹp hết biết. Ðang?săn? chim miệt mài, thì Roya nhắn tin sắp ra khỏi nhà và hẹn ăn sáng ở quán cà phê nhìn ra quảng trường.

Quán cà phê cũng là một tiệm làm bánh, chủ là một thiếu phụ nói tiếng Anh rất lưu loát và đúng giọng, có lẽ đã từng sống ở Anh Quốc. Cô vui vẽ giới thiệu, giải thích cà phê, trà, bánh Turkish dành riêng vào buổi sáng. Hải-Ðăng và Roya mỗi người thử một loại cà phê khác nhau, tôi gọi một tách trà đen với lời dặn đừng pha quá đậm. Bánh thì chúng tôi gọi Baklava và Kurabiye (một loại bánh quy Turkish) và vài cái Croisan Pháp cho chắc bụng tới trưa. Roya thăm hỏi tôi trà đen uống với đường củ cải tím ra sao, tôi gật đầu tán thưởng đưa cô ta uống thử một ngụm. Tôi cũng tán đồng với cô con dâu về cái vị ngon đặc biệt của cà phê Turkish uống với mật ong. Cắn một miếng Baklava, thấm ngẩm hương vị quế và mật ong rệu chảy trong miệng rồi chiêu ngụm trà thơm chát ngòn ngọt? Phải rồi, tôi đang ở Istanbul. Ðời bổng dưng vui, bổng nhớ tới Jed Hamoud, người bạn hiền hơn ba mươi năm trước làm việc chung ở Ðại học Minnesota. Baklava do Jed tự tay làm cho gia đình và bạn bè vào mỗi cuối năm. Lần sau cùng gặp nhau đã mười năm hơn, trước ngày Jed đưa gia đình trở về miền Nam Thổ Nhỉ Kỳ sinh sống.

Bên ngoài quán cà phê, từ khung cửa kính lớn tầng hai, nắng trên quảng trường bắt đầu chiếu sáng lên mặt đá cuội, lãng vãng bầy chim câu đang chờ bửa ăng sáng.

Hôm nay chúng tôi đi thăm Topkapi Palace Museum và trung tâm Sultanahmet Square cách nhau một cuốc taxi ngắn.

Khi ba chúng tôi đến Cung điện Topkapi, hàng dài khách du lịch đã rồng rắn trước hai phòng vé.

Vợ chồng Hải-Ðăng nhanh chóng chia nhau vào sắp hàng ở cả hai nơi. Roya may mắn mua được vé trước, vé dành cho cả Palace và Bảo tàng viện Harem ở cùng khuôn viên với Hoàng cung.

Quốc Vương Mehmed II người đánh bại đế quốc La Mã, chinh phục Constantinople, mở ra thời kỳ hào thịnh của đế quốc Ottoman đã đổi tên đế đô là Istanbul. Mehmed II khởi công xây dựng Topkapi Palace từ năm 1460 đến 1478. Trong gần 400 năm sau đó, Palace là cung điện của những quốc vương Ottoman kế vị, đã được tu sửa, chỉnh trang nhiều lần. Vào những năm đầu 1850s, các vì Sultans lúc đó đã dời đến Dolmabahce Palace bên bờ Bosphorus. Tuy thế, kho báu, kho lưu trữ Hoàng gia, và Thánh tích của Ðấng tiên tri Muhammad vẫn được bảo tồn tại Tokapi, kể cả những quốc lễ của triều đại Ottoman vẫn được tổ chức ở Palace này.

Sau sự tan rã của đế chế Ottoman và bắt đầu nền Cộng hòa Turkish vào năm 1922, Topkapi Palace đã trở thành 100-ngàn-mét-vuông Topkapi Palace Museum, bao gồm 200 ngàn tài liệu lưu trữ, 86 ngàn cổ vật và 20 sảnh đường triển lãm.

Chúng tôi chăm chú đi qua từng khu triển lãm trưng bày những bộ sưu tập lớn về đồ sứ, trang phục áo choàng của vương gia vọng tộc, khí giới khiên giáp của dũng sĩ tướng quân, những tiểu cảnh về đế chế Ottoman, các thư thảo Hồi Giáo (hiểu được chết liền), và cả báu vật nữ trang Ottoman.

Món châu báu tôi thích nhất là chiếc dao găm bằng vàng, chuôi dao nạm ngọc lục đẹp hải hùng, ông nào xem cũng trằm trồ, đó là chiếc Topkapi Dagger. Còn các bà thì đổ xô tới, xem mãi không chịu đi, viên kim cương lớn gần bằng ngón chân cái.

Lưu luyến rời Topkapi Palace lúc trời vừa quá trưa. Phía ngoài cung điện là khoảng phố ngắn với nhiều quán ăn và cửa tiệm nhỏ bán đồ lưu niệm. Có cả Topkapi Daggers cũng được bày bán ở đây. Quá đắt cho món đồ chơi vàng mã made-in-China. Con Ðường Tơ Lụa đã bơi qua Hắc Hải đến đây từ lâu rồịTrung Hoa ngày nay đã đi quá xa khỏi Trường An, con đường không còn êm như tơ lụa nữa mà đầy mùi dầu thô Trung Ðông, tanh hôi mùi sừng voi tê giác, kim cương đá quý Châu Phi, có khi còn thơm tho mùi Cognac Bordeaux Pháp, thượng lưu thời trang Venice, Milan, Florence nước Ý. Con đường tơ lụa của họ đã qua tới Châu Mỹ, mướn phòng ở UNESCO

Liên Hiệp Quốc hay Foundations các trường Ðại học, xây viện Khổng Tử. Con đường tơ lụa bây giờ bao gồm cả thềm lục địa, qua Việt Nam, Ðông Nam Á trắng trợn bá quyền như Ðường Lưởi Bò chín mười phân đoạn, đường vòng đường tránh xảo quyệt mưu mổ

Mùi cá mackerel nướng thơm quá. Anh chồng tán thán, chị vợ gật đầu, cả ba chúng tôi bước vào.

Sultanahmet Square tự hào với hai đền Hồi giáo nổi tiếng Hagia Sophia Mosque và Blue Mosque.

Ðền Hồi giáo Hagia Sofia Mosque được xây dựng từ Thế kỷ thứ 6, thời Byzantine, như là một nhà thờ Cơ Ðốc, lúc kinh đô còn mang tên Constantinople. Vào thế kỷ 14, thời kỳ đế quốc Ottoman, nhà thờ này trở thành đền Hồi giáo cho đến năm 1934 chính phủ Turkish đã quyết định biến nơi này thành bảo tàng viện, một?tàng kinh các? của lịch sử nhân loại. Năm 2020, có lẽ vì muốn hài lòng thế giới Arab Muslim, ông tổng thống Erdogan này một lần nữa đã?cải đạỏ bảo tàng viện thành đền Hồi giáo. Hagia Sophia Mosque tiêu biểu cho thời kỳ huy hoàng của Byzantine xa xưa đã thể hiện tất cả qua kiến trúc các thời đế quốc, từ nóc vòm Hồi giáo đến các khảm họa, phù điêu hiếm có của văn minh Cơ Ðốc.

Blue Mosque, cũng trong phạm vi Sultanahmet Square, được xây dựng vào thời kỳ đế quốc Ottoman, những năm đầu 1600. Ðền nổi tiếng với hơn 20,000 viên gạch men xanh ngọc trong hơn 50 họa tiết tulip khảm lên tường bên trong đền. Blue Mosque là ngôi đền duy nhất ở Istanbul có 6 tháp thay vì 4. Ðiều này đã gây tranh cải, thậm chí là những khiêu khích thù địch vì lúc bấy giờ chỉ có Ðền của Ðấng Tiên Tri ở Mecca được bảo quyền có 6 tháp. Cuối cùng Sultan Ahmet I đã tài trợ xây ngọn tháp thứ 7 cho ngôi đền ở Mecca để giải quyết hiểu lầm nghiêm trọng này.

Quảng trường phía ngoài đền, tín đồ đang đến khá đông có lẽ sắp đến giờ cầu nguyện. Nắng trưa hanh vàng phủ lên tháp chuông một màu sáng lóng lánh như mật. Chim biển tranh ăn với chim câu đậu rồi bay theo đàn quanh hồ phun nước. Mấy chú chó to lớn, không thấy chủ đứng gần, biếng lười nằm ngủ lim dim dưới bóng cây. Vài thiếu phụ đeo khăn mạng niqaah ẳm con thơ, họ ngồi ủ rủ ở một góc đền lấm lét xin ăn. Chuông báo giờ ngân nga gióng lên, rồi tiếng cầu nguyện từ hai ngôi đền vang lên đối đuổi nhau mạnh mẽ, ấm áp và dài hơi như một bản song ca hay tuyệt khiến tôi nhớ đến những lời kinh thơ man mác điệu buồn phương Nam từ ngôi chùa Hòa Hảo ở Ðồng Tháp Mười gần nửa thế kỷ trước.

Trong tiếng cầu kinh vạm vỡ, rền vang tôi vừa thấy Istanbul của một thời Ottoman vẫn còn lẩn khuất đâu đây. Istanbul. Thành phố của Sultan Ðại đế, Vương gia, Tướng quân xưa, hồn muôn năm cũ vẫn cùng lúc hiện hữu với con người thế hệ mới. Những người trẻ tuổi hừng hực sống, đầu trần không mạng che, những người không có tiếng nói, cho dù đói nghèo nhưng khát vọng và ước mơ đã vãng sinh, tái tạo Istanbul. Một nơi thật và huyễn như tiếng gọi vang tên của ba thành phố dội vào thời gian sâu thẳm. Từ thánh thư Quran đến lúc những trang chữ Shakespeare viết ra, chuyện của ba thành phố Byzantium, Constantinoble, Istanbul là lịch sữ, là ý niệm đã thăng hoa thành thực tế. Istanbul sừng sửng như cổng ngọ môn giữa trời Ðông Tây, Âu Á. Trong lịch sử nhân loại, có một thành phố đã lần lượt từng là đế đô của cả ba đế quốc Roman, Byzantine, và Ottoman. Istanbul! Một khải hoàn ca.

Sáng nay cả ba chúng tôi đến Galata Tower thật sớm, rồi Google đi bộ đến khu phố gần Karakoy Ferry, hy vọng có thể tìm chim, ngồi nhâm nhi trà, cà phê ngắm mặt trời lên hay nhìn thiên hạ trên bộ, dưới thuyền. Không tệ, ống kính tôi chụp cận cảnh được bầy chim biển đang sãi cánh bay trong bầu trời hừng đông. Ăn sáng xong, chúng tôi trở về quảng trường đứng chờ trước một khách sạn đã hẹn trước để được đưa tới bến tàu đi du lịch suốt ngày trên Bosphorus Strait ra Hắc Hải.

Con tàu chạy dọc theo dãi nước kéo dài chia đôi hai lục địa Âu Á. Ðền đài, cung điện đôi bờ chầm chậm lướt qua trước mắt, đi vào ống kính, nối theo nhau thành chiều dài uy linh của lịch sử ba thời Ðế quốc hài quyện vào nhau.

Tàu chạy chầm chậm vào phía bờ Âu, cập vào cầu tàu của khu làng cổ Ortakoy đẹp như tranh vẽ với những tòa nhà cấu trúc kỳ lạ và những con phố nhỏ trãi đá cuội san sát cửa hàng nghệ thuật,

phòng trưng bày, chợ nhỏ và hàng quán cà phê. Tôi ngạc nhiên khám phá ra một quán phở Việt nam trang trí khá tinh tế theo kiến trúc Việt Nhật. Lòng bàng hoàng nghĩ tới chuyện đời nào sẽ được kể ra đàng sau quá khứ của người Việt lưu vong này. Thuyền nhân, vượt biên,?lao động nước ngoàỉ ở lại, một cô gái đi theo diện hôn nhân? Hay cơ duyên nào. Tôi muốn biết nhưng nhà hàng vẫn chưa tới giờ mở cửa.

Tàu rời bến chạy về phía bờ Á để được hướng dẫn ghé thăm Kucuksu Palace, tòa lâu đài thời kỳ Ottoman này xây vào những năm 1800s được xử dụng như là một nhà nghĩ sau lúc đi săn lùng thú hoang cho hoàng thân quốc thích thời bấy giờ. Lâu dài tuy nhỏ nhưng không thiếu phòng ốc được tô điểm với vàng, đá hoa cẩm thạch và pha lê. Tấm thảm đỏ trải kín đại sảnh được thêu khảm theo tiết họa Iran tinh tế cầu kỳ là quà tặng của một Sa Hoàng Tsar.

Con tàu tiếp tục hải trình về phía Remeli Hisari Fortress. Tàu chạy chậm để du khách tha hồ ngắm nhìn khu pháo đài thành lũy dọc theo bờ Âu của Bosphorus. Sultan Mehmed II khởi xây Lũy đài Rumeli vào các năm 1451, 1452 để chuẩn bị cho cuộc bao vây tiến công lật đổ đế quốc Byzantine, chinh phục thành phố Constantinople và độc tôn cho đế quốc Ottoman. Ðế đô được thay tên mới Istanbul vào năm 1453. Thời gian sau đó, Rumeli Fortress được dùng làm nơi kiểm soát quan thuế và là nơi định cư của đại sứ các vương quốc thù nghịch hay có chiến tranh với đế quốc Ottoman. Vật đổi sao dời, ngày nay Rumeli Fortress là một trong những điểm du lịch nổi tiếng ở Istanbul có bán vé vào?đồn?.

Tàu tháo dây rời cầu tàu của Rumeli Fortress, tiếp tục chạy lên hướng Bắc phía Hắc Hải Black Sea. Ðã quá ngọ, đói rồi! Vừa lúc lunch buffet được dọn ra ở dãy bàn cuối bong. Thực đơn hôm nay gồm có gà nướng, khoai tây chiên và rau cỏ cùng vài loại nước ngọt. Nhìn bộ điệu rất thành thuộc, nhắm mắt mà làm, của anh chàng kiêm mọi việc trên tàu, tôi nghĩ có lẽ đây là thực đơn duy nhất hàng ngày của chiếc tàu. Cũ mình mới người mà!

Tàu chạy qua một căn cứ Hải quân lớn phía bờ Âu. Khu trục hạm, tuần dương hạm đậu lềnh khênh, có cả một chiến hạm bong rộng với vài chiếc trực thăng trên đó. Lực lượng kiểm soát tàu thuyền, kể cả chiến hạm ngoại quốc ra vào Hắc Hải đây sao? Tin tức, tình hình chiến sự vệ quốc của Ukraine trong hơn năm qua, đôi khi hé lộ phần nào quyền lực của Thổ Nhĩ Kỳ đối với Nga hoặc NATO trên vùng biển Hắc Hải khiến tôi muốn nhìn cho rõ hơn hạm đội đang neo bến trong kia.

Có tiếng reo mừng của Roya và du khách trên tàu khi nhìn thấy bầy cá heo đang bơi lộn nô đùa trên mặt nước xa xa trước mủi tàu. Tụi nó đang dẫn mình ra Black Sea đó, Papi thấy không!?

Con tàu giảm dần tốc độ tiến vào vùng vịnh nhỏ im gió của làng chài cổ Payrazkoy. Ngôi làng đẹp duyên dáng nép mình giữa đồi cây sau lưng và bãi cát trắng mịn ôm dọc theo bờ vịnh phía trước. Ðoàn du khách?đổ bộ? vào làng. Mấy quán ăn nhỏ lố nhố khách đứng ngồi thưởng thức món cá nướng đang tỏa mùi thơm phức. Chúng tôi vừa ăn kem xoài vừa tản bộ đi sâu vào xóm nhà sau chợ. Những ngôi nhà nhỏ nhắn, đầy màu sắc nằm dọc theo cung đường nhỏ trãi đá cuội. Nắng nửa chiều lung linh rọi lên những giàn hoa giấy rực bông đỏ.

Làng Payrazkoy nhìn ra Hắc Hải, nên sau khi rời làng tàu chỉ chạy thêm chừng năm, sáu hải lý rồi thông báo quay trở về. Hắc Hải đây sao? Trong lòng mắt đại dương đen của nàng từng thấp thoáng hằng hà chiến thuyền của bao đời Ðế quốc bổng chợt chẳng mảy tăm hơỉ Tôi tiếc rẻ nhìn con tàu quay đầu. Vẫn nước xanh, vẫn bầy cá heo tung tăng bơi lội nhưng tôi cảm thấy có điều gì đó rất khác. Ngoài kia. Odessa, Crimea, Biển xanh, Trời xanh, Mặt trời, Chiến Tranh và Hòa Bình?Mình đã đi hết biển sao?

Một ngày nữa ở Istanbul, chiều mai sẽ ra phi trường bay về Sài Gòn. Vợ chồng hai đứa đã lấy hẹn thưởng thức?traditional turkish bath?, Roya buổi sáng, Hải-Ðăng vào lúc chiều tối sau khi chúng tôi đi thăm Grand Bazaar.

Tôi không đi nhưng theo Roya giải thích thì Turkish Bath là một kiểu tắm hơi hay một nơi tắm công cọng có sự kết giao với thế giới Hồi giáo. Nó là một đặc trưng nổi bật trong văn hóa Hồi giáo và được thừa kế từ khuôn mẫu suối nước nóng của La Mã. Nói theo thằng cháu ngoại 10 tuổi?chử nghĩa một bồ? của Papi tui thì kiểu tắm Turkish truyền thống đã Islamized cách tắm hơi của La Mã.

Chợ Grand Bazzar được khởi công vào năm 1455 nhưng nhiêu khê mãi đến sau 1730 mới thật sự hoàn thành. Chợ rộng 30,700 mét vuông (so với chợ Bến Thành 13,056 mét vuông) có hơn 3000 gian hàng. Mỗi ngày có chừng 400,000 khách viếng thăm, mua sắm. Tôi nghĩ phần rất lớn chắc là đi thăm cho biết. Ðây là khu chợ xưa và lớn nhất thế giới. Chợ bày bán đủ mọi thứ trên đời, thượng vàng hạ cám, thiệt giả có đủ. Sau một hồi đi quanh, tôi nhận thấy đa số các mặt hàng tiêu biểu, mắc có rẻ có, là nử trang đủ loại, thảm Trung Ðông, bột gia vị đủ loại. Nghệ thuật rao hàng, chặt chém thì đã đến mức thượng thừa. Tuy nhiên cung cách trao đổi, mua bán khá lịch sự, nhỏ nhặn. Vợ chồng hai đứa mua vài món quà lưu niệm nho nhỏ, tôi cũng góp phần, có hớ?một chút? cũng không sao, góp chút tiền điện cho phải đạo. Tóm lại là đừng quên bảo vệ chiếc ví của mình theo cả hai nghĩa.

Chuyến bay về Sài gòn thật ra là đến sáng sớm mai, khởi hành lúc 2 giờ sáng. Tuy thế, hành lý đã thu dọn xong nên sau bữa ăn tối, chúng tôi thơ thẩn dạo quanh quảng trường với mùi thơm của bắp nướng mở hành và vị mật ngọt đẫm hương quế của Baklava trên môi. Lúc đêm Istanbul vừa sâu, chúng tôi gọi taxi ra phi trường.

Suốt mấy ngày ở Istanbul không thấy một đồng hương nào nhưng vừa đến phòng chờ lên máy bay tôi đã thấy nhiều gia đình Việt Nam đang chộn rộn đứng ngồi, rì rào trò chuyện. Ða số họ có lẽ đã đợi quá cảnh ở đây từ trưa.

Trong tiếng động cơ rập rềnh chờ khởi hành tôi nghĩ đến lịch sữ hào hùng của đế quốc Ottoman,

Sultan Mehmed II vị?chúa tể của hai châu lục và hai đại dương? cùng sự vãng sinh của thành phố vĩ đại Istanbul. Tôi nhắm mắt mơ mòng, cùng thời kỳ những năm hậu bán 1400?s ở vùng Ðông Nam Á, Hoàng đế Lê Thánh Tôn cũng đã đưa Ðại Việt phát triển đến thời cực thịnh, từ giáo dục, trọng hiền đến mở rộng cõi bờ. Nam tiến xuống tận Quảng Nam và lân bang trên đường Tây tiến như Chiêm Thành, Ai Lao, Chân Lạp, Chiang Mai (thuộc Xiêm La), Mekala (thuộc Mã Lai) đều phải làm tròn nghĩa vụ cống nạp cho Ðại Việt hàng năm. Lịch sử luôn có những diệu kỳ riêng của nó.Và tôi vừa sống qua những ngày sảng khoái bên dòng Bosphorus.

- 1 -

Tiến >>


Nguồn: http://www.giaomua.com
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 5 tháng 10 năm 2023