Khi ngồi viết những dòng này cái lạnh muộn màng còn sót lại cuối đông cứ chờn vờn, luyến tiếc sang xuân, dù tết Nguyên đán đã qua hơn tháng nay. Ngồi nhìn xuống công viên trước nhà qua màn mưa trắng đục lòng bỗng thấy nao buồn. Đã đóng lại Truyện dài KÝ ỨC TUỔI THƠ. Với cái kết của một sớm mai hồng cùng tiếng chim non chíp chiu bay theo mẹ, đứa bé mong gặp những người thân yêu. Tất nhiên là như vậy trong đoạn đời bé thơ đầy gian truân, đau thương tan tóc... để nó không phải xót xa hơn. Nhưng những gì đến với tôi - một đứa trẻ con trong thời chiến tranh ly loạn sao lại có thể khắt nghiệt như thế nhỉ? Bất giác tôi đưa tay xuống chân, vết của viên đạn xuyên vào năm xưa vẫn còn dấu sẹo, không phải là giấc mơ. Và tôi đã viết thêm phần này sau năm mươi tám năm đăng đẵng, kể từ ngày ấy.
Sáng hôm ấy lòng tôi vui như mở hội. Được gặp ba và anh sau bao tháng ngày gian khổ đầy hiểm nguy. Những cơ cực, đau buồn không còn đọng gì trong tôi khi giờ đây ngồi dưới gốc cây bên sân trạm xá, nhìn núi rừng còn bảng lảng sương mai, nhìn những chú chim chấp chới bay trong nắng mai hồng lòng rộn lên niềm hạnh phúc khi được gặp cha, gần anh, gặp lại những người thân yêu mà cuộc sống của họ phải luôn đối mặt với sống chết từng ngày. Tôi ngồi đợi đến trưa, lúc đầu còn đùa với thằng Riêng nhưng càng về chiều, khi bóng nắng chói chang cứ nghiêng dần về phía núi, rồi bóng tối lan nhanh tôi ngồi bất động, Riêng ở bên cạnh thấy vậy cũng lặng im không dám nói cười. Ba tôi sao rồi? Anh tôi ở đâu? Anh Thiệu nói chậm lắm là đến trưa mọi người đến mà sao giờ này... Có điều gì đã xảy ra với ba và anh, với mọi người? Đầu tôi quay cuồng chân tay lạnh ngắt, tôi dựa vào gốc cây, Riêng vẫn ngồi im bên cạnh. Chợt phía trạm xá tiếng kẻng báo động vang lên, rồi nhiều tiếng kẻng trong núi vang vang. Mọi người ở trạm xá xôn xao, thu gom đồ đi sơ tán. Người khỏe dìu kẻ ốm lên đường tiến sâu vào trong núi, Ngọng và Đức lì cũng được khiêng đi. Riêng nhìn tôi: “Mày không đi à?” Tôi lắc đầu: “Mình chờ ba”. Vậy là tôi ngồi chờ đợi ba, chờ đợi anh và đã không bao giờ còn gặp lại những người mà tôi vô cùng yêu thương, cho đến tận bây giờ.
Tối hôm đó cùng những ngày sau, nơi này trở thành chiến trường, bom lại nổ đạn lại rơi khắp nơi. Tôi lạc Riêng. Nó trở về với núi rừng của nó, trở về với rẫy nương của nó và mong rằng người bạn ấy sẽ tìm gặp lại gia đình mình. Còn tôi và hai mẹ con người dân tộc bị thương được lính Cộng hòa đưa lên trực thăng chở về Tuy Hòa. Do còn bé quá, hơn nữa không có người giám hộ nên họ sắp xếp tôi vào cùng nhóm hai mẹ con người Dân tộc.
Những ngày đầu, người ta phát cho gia đình tôi (họ gọi thế) một bao gạo to với bốn tờ tiền năm mươi đồng mới cứng. Chị người Dân tộc mừng rỡ khi được phát gạo. Chị kéo bao gạo vào góc phòng, còn những tờ tiền chị đưa cho tôi, chị nói:
- Người anh em lấy cái tiền này, tôi không dùng nó đâu mà.
Tôi rút ra một tờ năm mươi đồng, còn lại đưa chị:
- Chị cất đi, cần gì thì mua.
Thị xã Tuy Hòa ngày đó chỉ mấy đường phố chính là sầm uất, còn ra cũng nông thôn giống như trên Phú Thứ. Hồi chưa có chiến tranh, đôi khi tôi được anh Sơn cho theo xuống bằng xe đạp, anh mua phụ tùng xe còn tôi đi ngắm phố xá. Khi ấy, thành phố không bí hiểm, không lạ lẫm như bây giờ. Lúc đó nó đẹp, nó rực rỡ, nó nhộn nhịp. Mua gì cũng có, toàn những thứ mà trên quê chưa bao giờ được thấy. Người thì sang trọng, chạy xe vù vù. Tôi thầm ao ước được làm người thành phố. Còn giờ sao nhìn nó xa lạ với mình. Những tòa nhà cao ngút mắt, những con người đi đường vội vã, xa lạ như thế này thì biết anh Hà và má ở đâu? Làm sao tìm? Tôi đi lang thang cả ngày ngoài đường, tối về tới khu tạm cư, người mệt mỏi rã rời. Chị người Dân tộc nấu gì tôi ăn nấy. Khổ nỗi, ngày nào chị cũng cho tôi ăn cơm với muối hột giã cùng lá é, thịt bò ba lát nấu canh với trái cà pháo bé như hòn bi, mùi hăng hăng đắng nghét, lại có cả ớt hiểm nữa. Chị không biết nấu gì ngoài những món đó.
Ngày nào cũng vậy, tờ mờ sáng tôi ra ngoài khu tạm cư dạo quanh mấy vòng xem có gặp ai người quen không, có gặp được anh Hà hay má không. Tôi ghé lề đường mua ổ mỳ vừa đi vừa ăn. Từ ngày xuống Tuy Hòa, tôi đã đi loanh quanh khắp nơi mà chẳng gặp được ai quen. Tôi lần hỏi đường qua Phú Lâm, biết đâu má với anh Hà ở đó để chờ gặp tôi. Nghĩ như vậy nên dù rã rời, tê cứng đôi chân tôi vẫn thấy rất háo hức đi qua Phú Lâm.
Qua khỏi cầu Đà Rằng dài hun hút, đến bụi tre bên vệ đường ngồi nghỉ. Nhìn dòng sông rộng, chỉ thấy lờ mờ bờ bên, chợt nhiên nhớ đến sông Đồng Bò. Mùa này sông không nhiều nước nên những bãi bồi giữa sông xanh rì cỏ và bụi cây dại. Nhớ quá! Nhớ nhỏ Vân, nhớ bác Hiền, nhớ con Ve, thằng Riêng... Những tháng ngày qua cơ cực và hiểm nguy nhưng không làm sao tôi quên được. Rồi nhớ Ba, nhớ anh Sơn, không biết giờ này ra sao. Tôi tiếc là trước đây ở trên núi, gần trong gan tấc mà giờ lại xa muôn trùng. Rồi nhớ anh Hà, nhớ Má, tôi không khóc nhưng nước mắt cứ lăn dài trên đôi má gầy gò, lem luốc. Tới Phú Lâm trời đã ngã bóng, vậy là không trở về lại Tuy Hòa được rồi. Ai đời vừa đến đã vội quay lui. Mà không quay lui thì tối nay phải ở lại Phú Lâm. Tôi nhủ thầm: “Mặc kệ, lo gì ngủ ở đâu. Ngày trước ở trong rừng còn ngủ được, huống gì bây giờ không sợ đói, không sợ ma, không sợ thú dữ. Mà ở đây tôi thấy bọn nhỏ cỡ tuổi tôi, quần áo rách rưới, nhem nhuốc, mặt mày dáo dác. Chắc cũng chạy loạn tránh bom đạn chiến tranh như tôi, nên cũng bớt lo chuyện sớm tối. Hơn nữa, biết đâu lại gặp người quen hay những đứa bạn trên quê. Nghĩ đến đây, đôi chân không còn thấy mỏi mệt nữa. Ghé tới xe bán bánh mì mua một ổ, vừa đi vừa ăn, mắt nhìn ngang nhìn dọc, không khác gì bọn trẻ con lạc mẹ đang thất tha thất thểu trên đường. Mặc dù bộ dạng là như thế nhưng quần áo thì giống một cậu học trò nhỏ, quần sooc xanh áo sơ mi trắng (Sau ngày xuống trại tạm cư, tôi được phát hai bộ như thế).
Cứ lang thang như vậy, từ đường lớn đến ngõ hẹp, từ xóm chợ đến bến xe ngựa, nơi nào tôi cũng qua, xó nào tôi cũng tới. Trời tối mịt, bụng đói cồn cào tôi lại ghé mua ổ bánh mỳ. Ăn bánh mỳ thì nhanh đói nhưng chẳng biết phải mua gì. Hàng cơm, bún, phở chắc chắn không dám tới vì sợ hết tiền. Trên rừng gặp gì ăn nấy, gặp khoai lang móc khoai lang, gặp củ mỳ moi củ mỳ, đôi khi nhá cả lá, cả rễ cây cho qua cơn đói. Còn ở đây, nơi phố xá cái gì cũng bán, cũng mua, không xin được, không trộm cắp được, làm thế có mà xấu hổ đến chết mất. Ăn xong ổ bánh mỳ, thấy bụng cũng tạm ổn. Tôi vào căn nhà bên đường định xin miếng nước, trong nhà đóng cửa tối om om, có tiếng trẻ con khóc như tiếng mèo kêu. Nhìn thấy ngoài chái hiên có ảng nước, không muốn làm phiền chủ nhà nên đến bên hiên lấy gáo múc uống đến cành hông, bánh mỳ trong bụng nở ra, căng lên, có cảm giác như đang rất no, thế cũng ổn. Dưới ánh trăng nhờ nhờ, nhìn bên phải nhà góc trước vườn thấy có một đống gì lù lù, tôi lại xem, té ra đống cây dỡ từ ngôi nhà nào đó. Vậy đêm nay ngủ tạm ở đây thôi. Tôi nghĩ thế nên đến kéo hai miếng ván nhỏ nối lại, đủ để tôi có thể nằm co lại mà không chạm người vào đất.
Hôm sau, gà gáy lần thứ hai tôi lồm cồm bò dậy. Trời còn tối nhưng phía chân trời đã ửng hồng ngày mới. Ngoài đường những chiếc xe ngựa chạy lọc cọc. Trên xe, quang gánh thúng mủng, bao bì, thùng thiếc, thứ móc thứ cột lổm nhổm bao quanh xe. Ngày trước khi còn ở Phú Thứ, bọn trẻ con chúng tôi hay đu sau bửng xe ngựa để lên cầu trên hoặc xuống ga Gò Mầm, chơi trò đánh giặc giã với bọn xóm khác. Giờ nhìn những chiếc xe ngựa lòng không khỏi bồi hồi. Một đứa trẻ con ăn chưa no lo chưa tới, mới ngày nào còn mè nheo với anh với chị, còn làm nũng với mẹ với ba, chơi đùa vô tư lự với đám bạn cùng trang lứa, giờ một thân thui thủi, một mình trơ trọi. Tự lo cho mình, tự bảo vệ lấy mình trước bao gian nan nguy khốn đang chờ phía trước. Ngồi nghĩ lan man như vậy trời sáng lúc nào không hay. Tôi vội xếp hai miếng ván lại bỏ lên đống cây như cũ, nhanh chóng ra ngoài đường, chủ nhà vẫn chưa dậy.
Phú lâm vào những năm thập niên sáu mươi là một vùng quê, nhà cửa mái tranh, mái tôn lộn xộn, xập xệ tuy nhiên hàng hóa được bày bán nhiều hơn. Một con đường chính chạy từ Tuy Hòa vô Nha Trang. Qua Phú Lâm một đoạn, quẹo lên Phú Đa là sắp tới Phú Thứ. Nó lớn hơn Phú Thứ một tẹo bởi gần Tuy Hòa và cũng nhiều đường ngang, ngõ dọc hơn. Tôi đứng tần ngần chưa biết đi hướng nào. Thấy một chiếc xe ngựa chạy qua theo hướng đi vô. Hỏi thăm mới biết xe chạy vô là đi Hảo Sơn hoặc lên cánh trên Phú Thứ. Mà đi Phú Thứ thì chỉ tới đoạn ga Gò Mầm, không lên được nữa vì từ Xã Hòa Bình trở lên vẫn còn là vùng chiến sự. Tôi muốn lên đó quá, dù rằng chẳng làm được gì, nhưng lòng tôi cứ thôi thúc mãi. Tôi tự dặn lòng: “Ngày mai hẵng đi, hôm nay phải tìm má với anh Hà đã”. Nghĩ thế nên tôi chuẩn bị tinh thần cho ngày hôm nay.
Thật tình, tìm như thế nào? Chẳng biết. Chỉ biết rằng cứ đi, gặp ai cũng nhìn. Thấy nơi nào đông người là tới, lảng vảng quanh đó rồi lại đi. Đi lang thang như đứa bụi đời. Tóc tai rối bời, vàng như râu bắp, cứ nắng mưa dội xuống thân hình bé nhỏ, quắt queo. Thời buổi chiến tranh nên những đứa trẻ như tôi không ít. Tôi còn có người thân để tìm, có nơi để nghĩ tới. Thằng Nhái mới gặp chiều hôm qua, nhà nó ở trên Thạch Thành trạc bằng tuổi tôi. Ba má dẫn Nhái đi chợ Phú Thứ, gặp lúc đánh nhau, cả ba chạy xuống hướng Phú Lâm, nó không bị gì nhưng ba má Nhái trúng đạn chết dọc đường. Vậy là giờ nó bơ vơ. Nó đi, chẳng biết đi đâu, nó về, chẳng biết về đâu. Thấy thật tội cho thằng Nhái.
Tôi tìm chỗ ăn sáng, lần này không ăn bánh mỳ nữa, thấy gần xe bánh mỳ có cô ngồi bán bánh hỏi. Tôi nghĩ bánh hỏi chắc cũng rẻ, không nhiều tiền vì làm bằng bột gạo nên mua một dĩa. Ăn bánh hỏi no lâu hơn mà lại rẻ. Đang ngồi ăn bỗng nghe tiếng kẻng vang lên liên hồi, tôi nhổm dậy định chạy nhưng thấy mọi người vẫn ngồi ăn, vẫn đi lại bình thường, tôi hỏi cô bán hàng:
- Kẻng báo động sao không thấy ai lo lắng hết thế cô?
Cô bán hàng phì cười:
- Không phải kẻng báo động đâu chú em. Mấy ông bán thuốc dạo đánh phèng la đấy.
Tôi hoàn hồn, cứ ngỡ tiếng kẻng báo động như hồi ở trạm xá trên núi. Nhìn nơi phát ra tiếng kẻng, một số người dần dần tụ lại, quây tròn người đang đánh phèng la. Ăn xong, tôi chạy sang bên ấy đi quanh mấy vòng xem có gặp người quen không, rồi nhập vào vòng tròn xem họ làm gì. Đang ngồi chồm hỗm dán mắt vào ông đánh phèng la, tuổi trạc bằng ba tôi thì một con nhỏ giống y hệt nhỏ Vân rẽ đám đông đi vào, giống quá nên tôi buột miệng gọi:
- Vân! Vân!
Nhỏ nghe gọi quay lại nhìn:
- Bạn gọi mình?
Tôi mừng húm, đứng phắt lên chạy đến cầm tay nó, nói không kịp thở:
- Sao bạn ở đây, gặp ba má rồi à?
Nó tròn xoe mắt nhìn, ngạc nhiên hơn là mừng rỡ. Tôi hụt hẫng hơi có chút giận dỗi, nói:
- Mới có mấy tháng mà Vân quên mình rồi à?
- Bạn là...
- Mình là Hà em nè.
Mắt nó vẫn tròn xoe:
- Hà em?
- Ừ, Vân đi với ông bán thuốc này à?
- Đó là ba mình.
Tôi lại tròn mắt nhìn nó:
- Ba?
Nói xong tôi ngớ người ra:
- Bạn là Vân?
- Mình tên Vân.
- Vậy đúng rồi, mình là bạn của nhau mà.
Lúc này người đàn ông gọi vào đưa phèng la cho nó, ông ta mở rương lấy chai lọ, bao bì, những thứ linh tinh bày ra bàn, có cả một cây đàn. Tôi lùi ra ngồi xuống nhưng lòng thực sự không thỏa mái. Nó đánh phèng la quanh vòng tròn, ngang chỗ tôi ngồi, hình như dừng lại một tẹo, nhìn và mỉm cười với tôi. Nụ cười sao mà giống nhỏ Vân như tạc, hiền lành, thân thiện. Tôi cười lại và quên phéng chuyện bực mình với nó vừa rồi.
- 1 -
Tiến >>
Nguồn: Tác giả Vietnamthuquan.eu - Thư viện Online
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 21 tháng 9 năm 2023