- CÂU CHUYỆN của tôi mùa hè năm ấy
- HÀNH hương
❖ I ❖ - BÃO tuyết
- VẾT MÁU trên đường phố
- BÔNG HỒNG xăm trên da
- HỒng KỲ nằm dài mười tám năm
- Cái cây hình vành khuyên
- NGƯỜI ĐẸP trên ban công
- CÂY SÚNG và con bướm
- MÙA XUÂN và người tù
- HỒng gù
- NGƯỜI THỢ đóng giày
- KỂ CHUYỆN dốc dâu
- CHÌM NỔI dòng đời
- BÀI CA núi thánh
- GIÓ nóng
- THÀNH đá
- KHU MỘ ngát hương
- TÌM KIẾM trong mơ
- CHẾT sau bảy ngày
❖ Ngày thứ nhất ❖ - TRUYỀN THUYẾT dòng sông
❖ I ❖ - Chú Thích
Tôi còn nhỚ, mỘt buỔi hoàng hôn mùa hè năm 1983, chuồn chuồn từ vùng đầm lầy bay lên hàng đàn, tôi bồn chồn đi qua đồng lúa, những bông lúa vàng óng và mẩy hạt ngả nghiêng trong gió. Trong nắng chiều, bạt ngàn là châu chấu, bầu không khí rung lên ù ù inh tai. Tôi đi len lỏi men theo bờ ruộng, hoàng hôn êm ái xoa đầu tôi, tôi nhìn thấy cuộc đời mình đỏ rực như máu chảy lênh láng phía mặt trời lặn, tôi bỗng rơi vào một cảm giác xa vắng và nặng nề của trời chiều. Dòng sông thời gian chảy ào ào, những câu chuyện xa xưa theo nhau trở lại, tôi hấp tấp đi, biển lúa và hoàng hôn đều một màu vàng rực chói chang. Hồi đó tôi mới là đứa bé mười ba tuổi.
Những cây bạch dương đứng thẳng bên nhau, gần gũi như anh em, bóng đen của chúng xẻ dọc vầng mặt trời sắp lặn. Đàn châu chấu và chuồn chuồn dầy đặc bay lượn, chúng vùn vụt đập vào mắt tôi, tôi rùng mình kinh hãi. Đầu óc tôi quay cuồng, tối tăm mặt mũi...Thời gian lạnh lùng đã găm chặt tôi vào buổi hoàng hôn mùa hè năm ấy, chao ôi hoàng hôn, hoàng hôn vĩnh cửu của mùa hè 1983.
Mùa hè năm ấy tôi học năm thứ ba trung học phổ thông. Tôi mặc bộ quần áo lính màu vàng nhem nhuốc bạc màu, ngơ ngác và hoang mang, chán nản trước tương lai, chẳng biết nhìn vào đâu. Tôi khoác chiếc túi xách bằng vải bạt rách tơi tả, sải bước trên bờ cỏ mới nhú xanh. Một làn gió ào ào lướt qua, những bông lúa trĩu hạt rung lên xào xạc quệt vào đầu vào mặt tôi. Tôi đội chiếc mũ giả lính nhem nhuốc dầu mỡ, đây là chiếc mũ tôi nhặt được trên con đường mòn dẫn ra đầm lầy vào một mùa hè khác. Nhớ lại lúc nhặt chiếc mũ, tôi cúi xuống và đúng vào khoảnh khắc tay đụng vào chiếc mũ thì như có một dòng thác cuộn lên trong tim, một mùi chết chóc xộc vào mũi, lúc đó tôi cũng chẳng nghĩ gì nhiều, chụp mũ lên đầu và đắm chìm trong cảnh sắc bao la. Sau đó vài ngày, cũng chỗ ấy, có người phát hiện ra nhiều xác chó trong ruộng ngô, những xác chó đều đã thối rữa, với mức độ khác nhau chứng tỏ chúng không chết cùng một lúc nhưng thời gian cách nhau không xa. Bao nhiêu năm đã qua đi, người làm cái việc này là Junmatri bây giờ đã yếu còng lưng tôm, như chiếc cung sắp sửa bật cái thân xác ốm yếu của anh ta vào cái đầm lầy tối tăm này, anh ta vừa uống trà sữa ăn bánh khô vừa lầu bầu nói với tôi: Tao coi lũ chó như anh em của thằng Mahantai, chính tao giết chúng. Thằng Mahantai cướp đi Saina của tao, ôi Saina, hắn cưỡng hiếp rồi giết cô ấy! Tao giết lũ chó vì chúng nó là anh em của thằng đểu đó! Nói đến đây, anh ta khóc không thành tiếng, nước mắt đầm đìa. Tôi biết trong đó có nhiều chuyện anh ta đã không nói ra. Sau này tôi mới biết, chính tôi tham gia vào câu chuyện chết chóc này và mãi mãi bị đóng đinh vào buổi hoàng hôn đau đớn, não nề, xa vắng mà hối hả của mùa hè năm ấy.
Tôi đi xuyên qua đồng lúa dạt dào trĩu hạt, đôi mắt vừa hoảng hốt vừa say mê. Tiết trời chiều tháng năm sâu lắng và nặng nề làm sao, tôi cảm thấy hơi lạnh từ lòng đất ngấm vào cơ thể. Lúc này tôi đã ngửi thấy mùi mục nát từ đầm lầy bốc lên, tâm trạng bồn chồn và lo lắng. Còn cách xa đầm lầy hơn trăm mét, cách bức tường thành đổ nát chỉ có hai mươi mét. Bất giác tôi bước nhanh hơn, vì sắp đến nhà Bình rồi, còn phải đi qua cái bãi lầy hôi thối ấy nữa. Khi cách bức tường hình vòng cung chừng năm mét, tôi thoáng nghe thấy một âm thanh đã từng làm tôi xao động khi mới bước vào tuổi mới lớn. Tôi dừng lại, như con mèo khi nghe thấy tiếng chuột đang bò, một cơn tức giận lạ lùng bùng lên. Tôi rón rén áp sát bức tường, cái âm thanh làm tôi xúc động lại càng rõ hơn. Tôi lén trườn qua lỗ tường, tim tôi như muốn nhảy ra ngoài. Khi gạt một bụi cây ra, tầm mắt tôi chạm vào một đôi giày cao gót màu đỏ chót. Có tiếng gì như tiếng mèo kêu thảm thiết trong đêm, bối rối và hồi hộp, trái tim tôi bỗng trở nên tối tăm và sũng nước. Tôi bò lên phía trước như một con chó, đến bụi cây, thò đầu lên nhìn. Một cảnh kinh hoàng: Một cô gái áo đỏ và một người đàn ông vạm vỡ đang quấn vào nhau, lăn lộn, cả hai đều rên ư ử một cách quái gở, lớp cỏ vừa bị họ nghiền nát lại bướng bỉnh ngóc dậy. Mắt tôi ướt nhòe, trong lòng sục sôi tức giận và bất an. Tôi chửi thầm: Đồ chó má! Đồ nhơ nhuốc! Bẩn thỉu! Trái tim tôi bị vấy bẩn, ngập chìm trong cảm giác tức tối và bối rối. Tôi lặng lẽ rụt đầu lại, bò đi như một con giun, nhân tiện vơ đôi giày cao gót đỏ chót nhét vào túi sách và chui qua lỗ tường. Vừa định đi ra thì cái âm thanh nọ lại xoáy vào tai tôi. Ánh mắt tôi dừng lại nơi cục gạch to và nặng. Tôi cầm lấy, vung cánh tay lên. Cục gạch vẽ một vòng cung hoàn hảo bay vào phía trong thành. Tiếp theo tôi nghe thấy một âm thanh trầm đục và tiếng kêu thảm thiết khe khẽ. Tóc gáy dựng đứng lên, tôi lo lắng và vội vã lẻn đi như một con chó đói, theo con đường dẫn đến cổng một ngôi nhà trong màu xanh biếc bạt ngàn.
Bàn tay của hoàng hôn âu yếm và hiền lành vuốt ve tôi. Trong đôi mắt u tối của tôi le lói một ngọn lửa vàng rực: nhà của Bình đã hiện ra trước mắt tôi. Tôi ba chân bốn cẳng lao đi. Nhà Bình ở bên bờ sông, phía nam là mảnh đất được giao cho nhà cô canh tác. Mặt ruộng hiện lên các mảng màu xanh khác nhau của lúa mạch, ngô, đậu, ớt, dưa chuột. Lòng tôi rối bời và lo ngại. Bình có nước da trắng ngần và khuôn mặt đầy đặn. Ở lớp học, cô ta ngồi phía trước tôi, một hôm tầm mắt tôi bỗng nhiên bị hút vào cái gáy và vành tai của cô, thế là tôi ngắm mãi hai chỗ ấy, trong lòng xốn xang mê mẩn, thầy giáo gọi mấy lần cũng chẳng nghe thấy, ánh nắng buổi sáng rọi qua cửa sổ chiếu vào cánh tay mỡ màng đầy sức sống của cô, nhìn rõ lớp lông tơ mịn màng, trái tim tôi như bị ai bóp nghẹt, run rẩy ngứa ngáy làm sao.
Một buổi sáng tỉnh dậy tôi bỗng thấy có điều gì không ổn. Tôi kéo quần xuống, nơi đó ướt đầm đìa và nồng nặc mùi lúa ẩm. Tôi lấy ngón tay quệt một ít soi lên ánh nắng sớm mai, chất nước dinh dính như nước mũi, hơi trong, phảng phất một hương sắc bi thương. Đó là lần đầu tiên tôi bị di tinh. Một sự thay đổi đột ngột làm tôi lúng túng, ngượng ngập. Lúc ấy tôi mới nhớ ra là vừa nằm mơ, mơ thấy đôi giày cao gót đỏ trong cỏ, bóng hai người chập làm một, cánh tay có lớp lông mịn vàng óng và cái cổ mỡ màng của Bình... Trong giấc mơ của tôi tất cả những cái đó bị cắt xén, lắp ghép lung tung, có cả đàn chuồn chuồn bay lượn, cuối cùng một người con gái gần như trần truồng ôm lấy tôi, rồi tôi lại mơ thấy tôi cưỡi một con ngựa cực kỳ dũng mãnh lao về phía đầm lầy, nơi có nhà Bình.
Bây giờ nhớ lại mùa hè năm ấy, tôi mười ba tuổi ngồi ôm chăn trên giường, trong lòng thanh thản và buồn. Tôi lo lắng không biết sự thay đổi này mang lại cái gì cho tôi.
Đôi mắt tôi như cục sắt bị nam châm hút chặt vào cổng nhà Bình. Nhà cô nuôi một con chó đen to, con chó này thường lẳng lặng đến gần người ta rồi đớp một cái, mà đã đớp là không bao giờ trượt. Tim tôi đập thình thịch, tôi hơi sợ, sợ con chó và sợ ông bố thọt chân của Bình. Thực ra tôi mới đến nhà Bình có một lần: Mùa hè năm ngoái, sắp thi cuối học kỳ, tôi lo quá, ban đêm lẻn vào văn phòng nhà trường lấy trộm đề thi môn toán, nhưng tôi hầu như chẳng hiểu gì, cuống lên như khỉ rơi xuống nước. Thế rồi tôi quyết định đi tìm Bình, một học sinh xuất sắc. Tuy bị con chó đớp một miếng nhưng cũng đáng đồng tiền bát gạo, cô ấy thi được nhất lớp, tôi láu cá cố tình bỏ hai đề không làm, được tám mươi điểm, xong chuyện. Tôi dán mắt vào cổng nhà Bình, vừa xúc động vừa đau khổ. Tôi giả tiếng gà kêu lên vài tiếng, lát sau Bình đi ra trong chiếc áo màu vàng cam, cô ấy lững thững đi về phía tôi, tay áo xắn cao, lấm bột trắng xóa. Bình có vẻ xấu hổ pha lẫn bực bội nhìn tôi, cô đi về phía tôi, như một bức tranh sơn dầu đậm màu, khuôn ngực nhô cao khiến tôi vừa ngưỡng mộ vừa e ngại.
Tôi nấp sau một cái cây, căng thẳng nhìn Bình đến gần rồi kéo tuột cô vào phía sau cái cây, nhìn về phía sân, thấy vắng người bèn ôm lưng cô lôi đi.
Những cây lau xanh biếc đong đưa buồn bã trong nắng chiều. Mặt trời đỏ rực chập chờn sắp lặn phía tây chiếu xuống hai đứa sáng rực. Tôi liếc mắt nhìn, tấm áo của Bình sáng như lửa cháy, tôi sợ bỏng vội rời tay ra. Bình khẽ hỏi tôi đi đâu, tìm cô làm gì. Trong lòng rạo rực, tôi run rẩy nói là ra bờ sông.
Khi nhìn gần khuôn mặt Bình, tôi mới nhận ra đôi mày rộng và dài, đôi mắt to đen láy, thăm thẳm trong veo. Tôi thấy trong lòng xốn xang, mắt hoa, đầu óc quay cuồng. Bước chân chúng tôi nhẹ nhàng nhưng mấy con vịt giời vẫn nghe thấy, vỗ cánh bay lên ngay trước mặt. Thân hình tuyệt đẹp với dáng bay của chúng trong ánh chiều tà làm chúng tôi mê đắm. Cứ như vậy chúng tôi ra đến bờ sông.
Sông không rộng nhưng rất sâu, đến hơn chục mét, nước chảy lững lờ, như đứng yên. Hai bờ mọc đầy lau lách, thì thầm trong tĩnh lặng của hoàng hôn, lao xao kể cho nhau nghe chuyện tôi và Bình đến đây. Tôi chỉ vạt cỏ bảo Bình ngồi. Bình nhẹ nhàng ngồi xuống và lại hỏi đến đây làm gì. Tôi chẳng biết nói sao, mắt nhìn vớt vát những tia nắng cuối cùng, bỗng dưng mồ hôi đổ ra lạnh toát. Tôi chợt nhớ đến đôi giày cao gót đỏ trong túi xách. Tôi lấy ra và nói: cho bạn đấy, có thích không? Mắt Bình sáng lên, hồi lâu nói nhỏ nhẹ: thích. Tôi vừa định đưa giày cho Bình thì một ý nghĩ chợt lóe lên. Tôi nói: tôi muốn ôm bạn một cái, sau đó sẽ đưa. Hai má Bình đỏ rực. Cô ngồi đó không nói, mặc cho ánh hoàng hôn chiếu khắp người, Bình e thẹn nhưng không nũng nịu, lớp lông tơ trên má sáng lên trong nắng chiều, xinh đẹp làm sao. Tôi bực mình vì chẳng biết làm gì nữa. Sau đó tôi nghĩ ra một cơ hội để khép lại màn kịch này, tôi nói: Thế thì tớ sẽ ném đôi giày xuống sông, bạn dám vớt lên thì nó là của bạn, nếu không thì... Bình cười, nói: ném đi, tớ dám nhảy xuống vớt lên... Tôi quẳng ngay đôi giày xuống sông, “tòm” một cái, đôi giày cao gót đỏ nổi lềnh bềnh rồi lững lờ trôi theo dòng nước. Bình cởi áo ngoài lao xuống sông như một con cá. Tôi nghĩ hỏng rồi, cô ấy bơi giỏi lắm, cô ấy mà vớt được thì cái mẹo của tôi coi như bỏ đi. Tôi hơi cuống.
Tôi ngồi chờ trên bờ một lát, không thấy Bình lên. Lại chờ đến mười lăm phút, cũng chẳng thấy bóng dáng cô ấy đâu. Trống ngực tôi đập thình thình, mồ hôi lăn từng giọt. Thế là tôi vội vàng lủi đi như con chó trong biển lau lách bạt ngàn.
Hôm sau một người đánh cá vớt được xác Bình, lão ta bảo rằng thi thể cô ta bị rong rêu quấn chặt cứng, hề hề hề , đôi mắt cô ta bị cá khoét mất, hề hề hề , cặp vú vừa mẩy vừa trắng, hề hề hề . Lão đánh cá vừa nói vừa cười một cách thô bỉ, tim tôi như bị sét đánh, tôi có cảm giác rằng sẽ không bao giờ dứt ra khỏi hình ảnh Bình mất đi đôi mắt, tấm thân bị rong rêu quấn chặt.
Tiết trời đã đi vào chính hạ, ve kêu inh ỏi như từng đợt sóng vỗ trong tai. Thị trấn của tôi, hầu như mỗi năm một lần lại trình diễn một màn kịch đâm chém và chết chóc. Bọn người sống dư dả mà biếng nhác lại bàn tán sôi nổi, tìm nguồn vui và cảm giác mạnh trong những chuyện vỉa hè thật hư méo mó. Một buổi chiều nóng bức đến nghẹt thở, pháp trường được dựng trên một gò đất mé đông nam thị trấn. Hầu như tất cả trẻ con ở đây đều vui như tết, rong ruổi bám theo xe tù, tôi cũng thế.
Trên xe tù, một người đàn ông lực lưỡng bị trói giật cánh khuỷu. Đó chính là Mahantai, kẻ đã hãm hiếp giết người khét tiếng thành phố, có biệt danh Ma-da-sắt. Thoạt đầu trông thấy anh ta, tôi giật thót tim, có cảm giác hơi quen. Về sau khi tôi nhìn kỹ và bất giác thấy kiêng nể: đôi mắt Mahantai rực sáng, bộ ria rậm rì, vầng trán đầy đặn và rắn rỏi, hệt như nhân vật anh hùng trong sách giáo khoa.
Cảnh sát quát nạt những người đang hớn hở ra mặt, họ vây ba vòng đẩy Mahantai lên đỉnh gò, nơi đã có một vòng cảnh sát khác quây tròn. Hàng ngàn người vươn dài cổ chờ đợi để lắng nghe tiếng nói của tên giết người, ai cũng run sợ, nôn nóng, bồn chồn không yên.
Lúc hành hình, bỗng nhiên mọi tiếng ồn đều lắng xuống, như chìm sâu xuống đáy nước, yên tĩnh đến quái gở, đến phát sợ. Tim tôi đập thình thình, tôi nhắm mắt lại, đếm nhẩm, rồi nhìn lên trời thở mạnh một hơi. Trên không trung, từng đám mây trôi lững lờ, yên ả, như chẳng có chuyện gì xảy ra. Đúng vào lúc mắt tôi bắt được đám mây nhuộm màu hoàng hôn phía trời tây xa xa thì tiếng súng mà người ta nóng lòng chờ đợi vang lên, tiếp theo là mấy ngàn người dồn đẩy, huyên náo, sôi lên sùng sục. Cuộc hành hình thế là xong.
Rất lâu sau tôi mới nghe được đầu đuôi vụ án là thế này: Mahantai đã hãm hiếp cô Saina xinh đẹp, nhân viên cửa hàng thực phẩm, trong đám cỏ nơi thành cổ, sau đó lại đập chết cô bằng một viên gạch. Người ta còn bảo rằng khi bị phát hiện, người ta thấy anh ta vừa khóc vừa mặc quần áo cho Saina khi cô đã chết rồi. Hầu như lần nào khai báo anh ta cũng phân trần rằng không phải anh ta giết Saina, nhưng chẳng ai tin anh ta.
Đến nay, đã bao năm qua đi, tôi mới có một cảm giác tội lỗi, tôi nhớ lại từng chi tiết xảy ra trong buổi hoàng hôn mùa hè năm ấy. Vậy mà hôm nay, thủ phạm thật sự là tôi đây lại đang nhởn nhơ đi trong dòng đời. Tôi biết rằng, từ vai trò tòng phạm trong câu chuyện chết người thảm khốc đó, tôi đã trở thành thủ phạm. Tôi chẳng bao giờ có thể thoát ra khỏi cái buổi hoàng hôn mùa hè năm ấy.
Giờ đây hoàng hôn đang tắt dần, tôi đã ra khỏi cánh đồng lúa trĩu bông, leo lên một con dốc. Từ đó nhìn về bốn phía, xung quanh là vùng đầm lầy bốc mùi mục nát, cánh đồng ảm đạm, sương khói buồn thảm, đàn chó chạy lang thang giữa các ngôi nhà. Xa xa những ngôi nhà cao tầng trong thành phố mờ ảo phả hơi lạnh lẽo lên không trung. Ở nơi đây tôi đã bao lần nghe Junmatri cất cao tiếng hát. Tôi không nhớ anh ta bắt đầu xuất hiện ở đây trước hay sau khi Saina chết, hầu như mọi người trong cái thị trấn này đều biết anh chàng bán thịt nướng Junmatri, yêu chết mê chết mệt cô nhân viên bán hàng thực phẩm xinh đẹp Saina. Nhưng cô luôn giữ một khoảng cách hờ hững với anh chàng si tình. Trong ký ức của tôi, nhiều lần vang lên tiếng đàn tôm-bô-la, anh ta đàn hát thâu đêm bên nhà cô nơi góc phố, bày tỏ mối tình si của mình với cô gái yêu. Tôi còn nghe người ta nói, có lần Junmatri bày tỏ lòng mình bằng cách chịu đau đớn đóng đế sắt vào chân mình và đã choáng ngất đi. Nhưng Saina vẫn lạnh nhạt với Junmatri, vì thế mọi người đều giận anh ta.
Tôi rảo bước lên bờ đê, ở nơi này năm mười ba tuổi tôi đã thấy cảnh lộng lẫy của hoàng hôn đang tắt dần, nhiều ngày sau cái chết của Saina, tôi thấy bóng dáng u uất của Junmatri lang thang nơi đây và nghe tiếng hát lạnh lẽo mà da diết như ánh trăng của anh ta. Đàn chó hung hăng theo anh ta như hình với bóng và anh ta bỗng trở thành chúa tể của lũ chó, tôi còn nhớ thân hình càng ngày càng tiều tụy của anh ta
Tôi vội vã đi qua đồng lúa nổi sóng trong ánh chiều, xác những con chó chết vẫn bốc mùi nồng nặc, căng thẳng và mê muội, như con chó đói trên đồng hoang hấp tấp tìm về cổng nhà mình.
Nhà tôi như một đống cứt trâu, xập xệ nơi cuối thị trấn, từ ngoài nhìn vào rách nát mà tối tăm, bụi bặm thời gian làm cho nó chẳng còn chút hơi ấm, chỉ còn mấy hàng rau xanh mẹ tôi trồng ngoài vườn còn hiện ra chút gì đó của sự sống.
Khi tôi đẩy cửa vào, lại một lần nữa bị nỗi kinh hoàng túm chặt lấy: đầu tóc rũ rượi, trong tấm áo đen, mẹ tôi bị treo lơ lửng trên xà nhà, mớ tóc dài che khuất mặt - bà đã tự tử. Giữa nhà là một đống tro tiền giấy và tem phiếu. Thân hình mẹ tôi bị mạng nhện mắc cứng vào cái khung ảnh ký ức đau thương của tôi. Lúc đó tia nắng vàng của hoàng hôn lọt vào nhà, mãi mãi ghim chặt tôi vào cái buổi hoàng hôn mùa hè năm ấy đang vội vàng trôi đi mất.
Thời gian trôi đi, đứa trẻ mười ba tuổi là tôi bắt đầu hiểu đời là thế nào. Tôi ngại ngùng và bất lực với mấy chữ “giết chóc” và “máu me”. Trong cái mùa hè năm ấy, tôi đi xuyên qua bao nhiêu là chuyện chết chóc, rồi sau đó lại bị ghim chặt vĩnh viễn vào cái buổi hoàng hôn mùa hè năm ấy, ôi nặng nề và buồn thảm làm sao?
Việc mẹ tôi chết có liên quan đến bố tôi. Trong ký ức, bố tôi là một người lái xe, ông có cái mũi bã rượu to tướng, mắt ác như diều hâu. Ông lúc nào cũng xách chai rượu và say khướt, và đúng vào cái ngày mẹ tôi bị mạng nhện chăng kín thì ông ấy biến mất một cách thần kỳ. Những truyền thuyết về ông thì thật nhiều như nấm mọc sau mưa, đến như tôi là đứa con đẻ mà cũng chẳng biết thực hư ra sao. Một nguồn tin đáng tin cậy nhất là ông ấy và người bạn, một người đàn bà có mười hai vạn tệ. Bà ta là một nhân viên ngân hàng đã ăn cắp tiền của nhà nước rồi cùng với bố tôi lẳng lặng cao chạy xa bay. Nhưng trong ký ức của tôi không moi đâu ra được hình ảnh người đàn bà này. Tôi cứ tưởng tượng ra bố tôi là một người như vậy và tôi chưa bao giờ yêu ông ấy.
Đời là gì? Sống là gì, chết là gì? Tình yêu là gì? Chúng ta chết vì cái gì? Buổi hoàng hôn mùa hè năm ấy tôi đã nghĩ về những điều này như hồi còn bé đã nghĩ tại sao người ta có hai chân. Trong ký ức, bộ mặt khắc khổ tuổi mười ba của tôi ẩn hiện trong buổi hoàng hôn u ám của mùa hè năm ấy, bị những câu hỏi đó hành hạ và dàn dụa nước mắt.
Một buổi chiều sau đó ba năm, tôi nhận được một thông báo chết người không biết từ đâu gửi đến, lúc ấy tôi đã được thu nhận vào trại mồ côi, chính mình trải nghiệm tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, trên bản thông báo rõ ràng nhắc đến tên bố tôi. Ông đã chết trên chuyến xe lửa Thành Đô đi Côn Minh trước khi tôi nhận được thông báo này ba mươi ba ngày. Ông bị người ta sát hại, trên người có mười ba vết đâm. Hung thủ cướp đi một cái đồng hồ và một trăm bốn mươi ba tệ. Kẻ giết bố tôi năm ấy mới mười chín tuổi.
Tôi biết rằng tôi không thể nào thoát ra khỏi buổi hoàng hôn mùa hè năm ấy. Khi đó tôi là một đứa trẻ già dặn, đi giữa cánh đồng trong ánh hoàng hôn, những con châu chấu xanh nhảy tanh tách, bám vào bắp chân tôi, rồi lại bắn đi như viên đạn. Tôi phóng tầm mắt về phía trước, ánh hoàng hôn rực rỡ mà nặng nề chìm dần trên đầm lầy. Những bông lúa đầy đặn thảnh thơi vẫy chào tôi. Tôi đi mãi, đi mãi, cuối cùng đã đến ngôi nhà hai tầng trước khi ánh hoàng hôn tắt hẳn.
Tôi ngửi thấy mùi khói ngày nào. Tôi lặng lẽ đứng trước cổng ngôi nhà, một cảm giác xúc động vu vơ, sống mũi cay cay. Tôi đã một thân một mình đi qua đồng lúa hoàng hôn để đến được đây, tôi chẳng còn chọn lựa nào khác, đành đẩy cửa bước vào.
Trong nhà bài trí giản dị. Hai chiếc ghế mây, chỉ một chiếc có người ngồi, người đó quay lưng lại phía tôi, một làn khói xanh bay lên từ tay người đó. Tôi đến gần, định nói thì người đó quay lại, tôi ngây người: Đó là chính tôi sau mấy năm!
Tôi bối rối hỏi: “Anh là ai?” Tiếng tôi vang lên như vọng từ đâu về.
Anh ta vẩy tàn thuốc nói: Tôi là anh. Tôi chờ anh đã sáu năm, từ năm 1983 đến nay, tôi là anh sau sáu năm.
Anh chờ tôi làm gì? Chẳng lẽ anh lại biết được tôi là vai chính trong câu chuyện mùa hè năm ấy? Tôi sợ hãi hỏi, tiếng tôi run rẩy và tiếng nọ đè lên tiếng kia, âm u như từ đâu dội lại.
Anh ta cười và nói: Không, thủ phạm chính là thời gian. Thời gian giết chết cả hai chúng ta, hai ta đều bất hạnh.
Thế thì chờ tôi làm gì?
Bởi vì anh đã lạc vào mê cung của buổi hoàng hôn năm ấy. Trong ký ức của anh mọi chuyện đều chồng chéo với hoàng hôn, như các lớp màu phết đè lên nhau. Tôi giúp anh ra khỏi buổi hoàng hôn đó, không tốt sao? Anh ta cười.
Tôi như trút được gánh nặng, buông một tiếng thở dài.
Bây giờ anh đi soi gương xem.
Tôi đến trước bức tường, soi kỹ mình trong gương. Tôi giật mình kinh hãi: Tôi bây giờ com-lê giày da, nét mặt từng trải và đầy suy tư. Rõ ràng tọa độ thời gian tôi đang tồn tại đây không phải là năm 1983 nữa rồi. Tôi quay lại, và nhận ra rằng cái ghế và cả người trên đó đều đã biến mất.
Tôi ngồi vào chiếc ghế còn lại, đốt một điếu thuốc. Một tiếng nói vang lên bên tai tôi: Đã bao năm trôi qua, hôm nay sẽ có một người có cùng trải nghiệm thời gian và cùng ký ức với anh sẽ đến đây tìm anh. Xin anh hãy chuẩn bị một chiếc ghế mây. Anh ta sẽ kể cho anh nghe câu chuyện xảy ra vào một buổi hoàng hôn mùa hè của một năm nào đó và rồi anh sẽ giết sạch những người trong ký ức của anh trong một thiên tiểu thuyết.
Trong làn khói xanh, tôi chìm đắm vào những chuyện xa xưa, bàn tay ấm áp và âu yếm của hoàng hôn lại vuốt ve tôi và mọi thứ trong căn buồng này. Tôi chờ đợi thời gian, kẻ đã lạnh lùng giết đi tất cả đến gõ cửa ngôi nhà cô đơn và lạnh lẽo của tôi trong một buổi hoàng hôn đầy bí ẩn.
CÂU CHUYỆN của tôi mùa hè năm ấy
Tiến >>
Nguồn: TVE 4U
Được bạn: Mot Sach đưa lên
vào ngày: 17 tháng 1 năm 2025