Mục Lục

Nguyên Hồng Toàn Tập 1

nguyên hồng

Tiểu Sử Nguyên Hồng (1918-1982)

Nguyên Hồng họ Nguyễn, tên khai sinh đồng thời cũng là bút hiệu duy nhất trong cuộc đời cầm bút của nhà văn. Nguyên Hồng sinh ngày 5-11-1918 tại phố Hàng Cau, thành phố Nam Định trong một gia đình nghèo theo đạo Thiên Chúa. Mười hai tuổi, bố chết vì ho lao, người mẹ trẻ nghèo khổ phải vào Vinh ở vú đầm, rồi mấy năm sau đi bước nữa. Mười lăm tuổi, vừa đậu xong Tiểu học đã bị đày đọa trong các nhà lao Nam Định, Hà Nội rồi bị giải đi Phúc Yên. Mười sáu tuổi, hết hạn tù được tha, Nguyên Hồng phải từ giã thành phố Nam Định và người bà nội ngoan đạo, cùng mẹ và bố dượng ra sinh sống ở xóm Cấm, Hải Phòng. Hơn ba năm, Nguyên Hồng đã dạy học lẩn lút trong các xóm nghèo lao động với hơn hai mươi đứa trẻ lau nhau, rách rưới, con em của những người làm nghề đội than, khuân vác hoặc buôn thúng bán mẹt ở xóm Cấm và xóm chùa Đông Khê. Cũng chính ở Hải Phòng, Nguyên Hồng gặp nhà thơ Thế Lữ (1935), kiện tướng của phong trào Thơ mới, thành viên của Tự lực văn đoàn. Từ đó, người thanh niên thất nghiệp này nuôi khát vọng đi vào con đường văn chương, coi văn chương là lẽ sống cao cả nhất của đời mình. Những trang bản thảo đầu tiên rất trong sáng và say mê của tiểu thuyết Bỉ vỏ và hồi ký Những ngày thơ ấu đã được hình thành dần trong những căn nhà ổ chuột tối tăm, bẩn thỉu của khu phu phen thuyền thợ xóm Cấm, Hải Phòng. Năm 1937, Bỉ vỏ của Nguyên Hồng và Kim tiền của Vi Huyền Đắc được nhận giải thưởng Tự lực văn đoàn và từ năm 1938 báo Ngày nay bắt đầu giới thiệu Những ngày thơ ấu. Mối quan hệ giữa Nguyên Hồng với Thạch Lam bắt đầu từ những ngày đó.

Thời kỳ Mặt trận Dân chủ, Nguyên Hồng đã bắt đầu liên lạc với chính trị phạm ở Sơn La, Côn Lôn trở về như Vũ Thiện Chân, Bùi Vũ Trụ và ở trụ sở chi nhánh báo Thời thế ở đường Cát Dài, Hải Phòng, Nguyên Hồng đã có cơ hội tìm đọc Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Vấn đề dân cày của Qua Ninh, Vân Đình, Ngục Kon Tum của Lê Văn Hiến và những tiểu thuyết của Marxime Gorki... Năm 1938, Nguyên Hồng gặp Như Phong, sinh hoạt trong Đoàn Thanh niên Dân chủ và viết trên các báo Thế giới, Người mới và Mới cùng với Như Phong, Nguyễn Thường Khanh, Trần Minh Tước, Lưu Quý Kỳ (Thanh Vệ) và Lê Hy (Lã Vĩnh Lợi). Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, ngày 29-9-1939, Nguyên Hồng bị mật thám Pháp bắt bỏ tù ở Hải Phòng về tội tàng trữ và truyền bá sách báo cộng sản. Trong nhà tù Hải Phòng, Nguyên Hồng đã được gặp Tô Hiệu, Bùi Đình Đống, Ngô Minh Loan và tham dự lớp huấn luyện theo Đề cương cách mạng tư sản dân quyền do Bí thư thành ủy Tô Hiệu hướng dẫn. Những vốn sống quý báu đó đã tạo điều kiện cho Nguyên Hồng viết về những chiến sĩ cách mạng trong Lưới sắt, Lò lửa, Sóng gầm...

Năm 1940, Nguên Hồng lại bị bắt giam và bị giải lên trại tập trung Bắc Mê, Hà Giang, đi làm cỏ vê, gánh đá cùng với Xuân Thủy, Đinh Nhu, Trần Các... Tiểu thuyết Xóm Cháy (phác thảo đầu tiên của Sóng gầm) viết được 300 trang thì bị bọn mật thám tịch thu, ông chuyển sang viết những mẩu ngăn ngắn giả làm nhật ký thư (Cuộc sống).

Cuối mùa hè năm 1943, Nguyên Hồng tham gia tổ chức Văn hóa Cứu quốc bí mật (trong Mặt trận Việt minh) cùng với Như Phong, Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng... Chính trong tổ chức này, Nguyên Hồng được đọc Đề cương Văn hóa 1943 của Đảng và những phương châm của Đề cương đã có ảnh hưởng rõ rệt đến những tác phẩm như Hơi thở tàn, Hai dòng sữa, Ngọn lửa, Buổi chiều xám..., những tác phẩm được viết trong thời kỳ Tiền khởi nghĩa.

Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyên Hồng tham gia khởi nghĩa ở Hà Nội, là biên tập viên tạp chí Tiên phong, cơ quan vận động văn hóa mới của Đảng. Sau đợt Nam tiến vào mặt trận Nha Trang, khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, năm 1947, Nguyên Hồng cùng gia đình lên Việt Bắc, sống ở ấp Cầu Đen, Yên Thế cùng với một số văn nghệ sĩ như Ngô Tất Tố, Kim Lân, Nguyễn Huy Tưởng... Nguyên Hồng tham gia hoạt động trong Hội Văn nghệ Việt Nam, là biên tập viên tạp chí Văn nghệ của Hội và phụ trách trường Văn nghệ nhân dân Trung ương. Năm 1948, Nguyên Hồng cùng với Nam Cao được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).

Hòa bình lập lại năm 1954, Nguyên Hồng cùng gia đình về Hà Nội, công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam. Tháng 4 - 1957, Hội Nhà văn Việt Nam thành lập, ông tham gia Ban Chấp hành, làm Thư ký tòa soạn tuần báo Văn của Hội. Năm 1958, Nguyên Hồng về tham gia lao động ở nhà máy Xi măng Hải Phòng, chính thời gian này ông bắt đầu thai nghén tiểu thuyết Cửa biển, bộ tiểu thuyết - sử thi bốn tập đầu tiên ở nước ta. Từ năm 1962, Nguyên Hồng cùng gia đình trở lại ấp Cầu Đen, Yên Thế (nay là xã Quang Tiến, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang). Tháng 1 -1963, tại Đại hội Nhà văn lần thứ II, Nguyên Hồng được bầu vào Ban Chấp hành và năm 1964 được cử làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Hải Phòng. Sau Hải Phòng, Yên Thế đã trở thành quê hương thứ hai của Nguyên Hồng, là nơi ông sống lâu nhất và cũng là nơi ông đang xây dựng một bộ tiểu thuyết lịch sử ba tập: Hoàng Hoa Thám và Núi rừng Yên Thế. Tập hai đang hoàn thành thì ông đột ngột từ trần ngày 2-5-1982.

Nhà văn Nguyên Hồng được Chính phủ truy tặng Huân chương Độc lập hạng Ba và giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt đầu tiên (1996). Nguyên Hồng là một nhà văn xuôi lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, đồng thời cũng là người thầy trực tiếp dìu dắt nhiều thế hệ nhà văn trẻ đi vào con đường sáng tác văn học.

TÁC PHẨM NGUYÊN HỒNG

· Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938)

· Bảy Hựu (tập truyện ngắn, 1940)

· Những ngày thơ ấu (hồi ký, 1940)

· Cuộc sống (tiểu thuyết, 1942)

· Qua những màn tối (truyện vừa, 1942)

· Quán Nải (tiểu thuyết, 1942)

· Hai dòng sữa (tập truyện ngắn, 1943)

· Hơi thở tàn (tiểu thuyết, 1944)

· Vực thẳm (truyện vừa, 1944)

· Ngọn lửa (truyện vừa, 1944)

· Miếng bánh (tập truyện ngắn, 1945)

· Địa ngục và Lò lửa (tập truyện ngắn, 1946)

· Đất nước yêu dấu (ký, 1949)

· Đêm giải phóng (truyện vừa, 1952)

· Giữ thóc (tập truyện ngắn, 1956)

· Trời xanh (thơ, 1960)

· Sóng gầm (trong bộ tiểu thuyết Cửa biển, 1961)

· Sức sống của ngòi bút (tạp văn, 1964)

· Cơn bão đã đến (trong bộ tiểu thuyết Cửa biển, 1965)

· Bước đường viết văn (hồi ký, 1971)

· Thời kỳ đen tối (trong bộ tiểu thuyết Cửa biển, 1973)

· Một tuổi thơ văn (hồi ký, 1973)

· Sông núi quê hương (thơ, 1973)

· Khi đứa con ra đời (trong bộ tiểu thuyết Cửa biển, 1975)

· Những nhân vật ấy đã sống với tôi (hồi ký, 1978)

· Thù nhà nợ nước (tiểu thuyết lịch sử, 1981)

· Tuyển tập Nguyên Hồng (1983 - 1985)

DI CẢO

· Núi rừng Yên Thế (tập I trong bộ tiểu thuyết lịch sử Hoàng Hoa Thám và Núi rừng Yên Thế, 1993)

· Người con gái họ Dương (Dương Hậu) (kịch)

· Hoa trái đất (thơ)

NIÊN BIỂU NGUYÊN HỒNG

id="_x0000_s1028" style='position:absolute;left:0;text-align:left;

Tên khai sinh: Nguyễn Nguyên Hồng.

Ngày sinh: 5-11-1918

Nơi sinh: Phố Hàng Cau - Thành phố Nam Định.

Ngày mất: 2-5-1982.

Nơi mất: Ấp Cầu Đen - huyện Yên Thế - tỉnh Bắc Giang.

1930: Bố mất, mẹ đi bước nữa. Ở với bà nội nhưng gần như phải tự lập để ăn học.

1935: Cùng gia đình ra Hải Phòng, lưu trú tại xóm Cấm, lén dạy tư để kiếm sống. Gặp Thế Lữ ở ngõ Nghè, quyết theo nghề văn.

1936: Đăng truyện ngắn đầu tay Linh hồn trên Tiểu thuyết thứ Bảy.

1937: Bỉ vỏ (tiểu thuyết) được đăng tải trên các báo và được trao giải thưởng của Tự lực văn đoàn.

1938: - Bỉ vỏ được in thành sách.

- Gặp Như Phong ở Hà Nội. Tham gia Cách mạng, mở đầu bằng việc dự mít tinh 1-5 tại Đấu Xảo. Vào Mặt trận Dân chủ ở Hải Phòng.

- Viết cho các báo: Ngày nay, Tiểu thuyết thứ Bảy, Thế giới, Người mới ở Hà Nội; Mới, Đông Phương ở Sài Gòn.

- Hồi ký Những ngày thơ ấu được đăng nhiều kỳ trên Ngày nay từ số 134 (ra ngày 29-10-1938).

1939: - Bị chính quyền Pháp bắt giam ở Hải Phòng, kết án tù 6 tháng.

- In truyện ngắn Người đàn bà Tàu (sau đổi là Một người mẹ Trung Quốc) và một số truyện ngắn.

- Gặp Tô Hiệu (Bí thư Thành ủy Hải Phòng). Tiếp xúc trực tiếp với những người Cộng sản.

1940: Bị đưa đi trại tập trung ở Bắc Mê (Hà Giang). In Những ngày thơ ấu (NXB. Đời nay). Viết Xóm Cháy nhưng bị mất bản thảo.

1941: In Bảy Hựu (tập truyện ngắn).

- Tháng 11, rời Bắc Mê, bị quản thúc tại Nam Định.

1942: Về Hà Nội. In Qua những màn tối (truyện vừa). Tháng 6, lập gia đình. In Cuộc sống (tiểu thuyết - NXB. Tân Dân).

1943: - Tham gia Hội văn hóa Cứu quốc bí mật cùng Tô Hoài, Như Phong, Vũ Quốc Uy, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao...

- In Hai dòng sữa (truyện ngắn), Quán Nải (tiểu thuyết), Đàn chim non (tiểu thuyết).

1944: In Vực thẳm (truyện vừa), Hơi thở tàn (tiểu thuyết)..., chịu ảnh hưởng rõ rệt của Đề cương Văn hóa 1943.

1945: - Tham gia Tổng khởi nghĩa tháng Tám ở Hà Nội.

- Là một trong những người sáng lập tạp chí Tiên phong.

- In Ngọn lửa (truyện vừa), Miếng bánh (truyện ngắn).

1946: Viết Địa ngục và Lò lửa (tập truyện ngắn), trong đó có một số truyện đã in trên Tiên phong. Tham gia Nam tiến đến mặt trận Nha Trang. Năm sau cùng một số gia đình văn nghệ sĩ lên khai phá ấp Kỳ Nhân (tức ấp Cầu Đen - Yên Thế). Tham gia Hội Văn nghệ Việt Nam (đến 1957).

1948: Kết nạp Đảng tại chiến khu Việt Bắc.

1949: In Đất nước yêu dấu (ký).

1952: Viết Đêm giải phóng (truyện vừa). Phụ trách Trường văn nghệ nhân dân Trung ương, Ban Văn hóa công nhân, được gọi thân mật là "ông đốc Hồng".

1955: Hải Phòng giải phóng. Về làm báo tại thành phố cảng. In lại Đất nước yêu dấu. In Giữ thóc (truyện ngắn).

1956: Trở thành biên tập viên của báo Văn nghệ. In lại Địa ngục và Lò lửa. In Giọt máu (truyện ngắn).

1957: Tham gia Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam vừa thành lập, phụ trách báo Văn. In lại Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu.

1958: Về Yên Thế, hình thành ý tưởng viết bộ tiểu thuyết Cửa biển.

1959: Viết Sóng gầm. In Trời xanh (thơ). In lại Địa ngục và Lò lửa.

1961: In Sóng gầm.

1963: Tham gia Ban vận động thành lập Chi hội văn nghệ Hải Phòng. In Sức sống của ngòi bút (tạp văn). In lại Những ngày thơ ấu. Gặp Pierre Abraham, chủ nhiệm tạp chí Châu Âu tại Hà Nội.

1964: Được bầu làm chủ tịch Chi hội văn nghệ Hải Phòng (mới thành lập) cho đến lúc mất.

1965: Về thăm quê.

1966: Đọc tham luận tại Hội nghị trí thức Việt Nam chống Mỹ cứu nước.

1967: In Cơn bão đã đến (trong Cửa biển).

1971: In Bước đường viết văn của tôi (hồi ký). Viết xong Thời kỳ đen tối (trong Cửa biển). In lại Bỉ vỏ.

1972: In Cháu gái người mãi võ họ Hoa (truyện thiếu nhi).

1973: In Thời kỳ đen tối, Một tuổi thơ văn (hồi ký), Sông núi quê hương (thơ).

1976: In Khi đứa con ra đời (tập cuối), hoàn thành Cửa biển (hơn 2000 trang).

1978: In Những nhân vật ấy đã sống với tôi (hồi ký). Xuất bản Tuyển tập Nguyên Hồng tại Liên Xô (Nguyễn Tuân đề tựa).

1981: In Thù nhà nợ nước (tập I, bộ tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế).

1982: Sau khi Nguyên Hồng mất, NXB. Văn học in Tuyển tập Nguyên Hồng (tập I: 1983; tập II: 1984; tập III: 1985).

(Dựa theo Niên biểu Nguyên Hồng của Mai Hải Oanhbtrong Nguyên Hồng - Cát bụi và ánh sáng - NXB. Hội nhà văn 1992, có bổ sung)

DI CẢO:

- Núi rừng Yên Thế (tiểu thuyết, tập II - xuất bản 1993).

- Người con gái họ Dương (Dương Hậu) (kịch, 1978)

- Hoa trái đất (thơ, 1960)

GIẢI THƯỞNG:

- Giải văn chương của Tự lực văn đoàn trao cho Bỉ vỏ (1937)

- Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (Đợt I, 1996).

Tiểu Sử Nguyên Hồng (1918-1982)

Tiến >>


Nguồn: TVE 4U
Được bạn: Mot Sach đưa lên
vào ngày: 24 tháng 2 năm 2025