Paris, Những Mảnh Đời

đỗ bình

H ồi chuông của ngôi giáo đường trong khu phố cổ vang lên thánh thót chất chứa niền vui, sự yên lành.Tiếng ngân hòa theo gió nhập vào cây cỏ, rồi loãng dần trong không gian nhưng dư âm vẫn đọng lại trong hồn người một chút cảm giác lâng lâng thánh thiện.

Cạnh khu phố cổ trầm mặc là thành phố mới được xây dựng những năm gần đây rất sinh động, tấp nập người qua lại. Khu trung tâm gồm toà thị chính, những trường đại học danh tiếng, thư viện, kịch viện, nhạc viện, đại học Mỹ thuật, hồ bơi… Dọc, ngang những con đường nhỏ là hàng trăm những cửa hiệu sang trọng lộng lẫy được trang trí rực rỡ ánh điện màu, cùng với những quán cà phê, nhà hàng lúc nào cũng đầy khách ngồi vừa thưởng thức vừa ngắm người qua lại.Khu trung tâm thành phố chỉ dành cho người đi bộ nên lúc nào cũng đông người.

Tôi về thành phố nầy đã hơn mười năm, ngay từ lúc người ta mới khởi công xây cất. Thưở ấy nhà cửa còn rải rác đa số là biệt thự xưa, chung quanh là những cánh rừng xanh. Con đường lát đá xanh dẫn vào trung tâm phố đã mòn và ngả màu vì thời gian. Ở đây có ngôi giáo đưòng cổ kính từ thời trung cổ đầu thế kỷ 12 và hoàn tất vào thế kỷ 13 nên kiến trúc pha lẫn Roman, Gothic và Phục hưng. Lối kiến trúc của các phong cách cổ đại là Byzantine và La Mã, kết hợp giữa sự lộng lẫy cổ điển với các kỹ thuật đổi mới để tạo ra một phong cách độc đáo. Những bức tường quanh của nhà thờ dày dáng vẻ như một lâu đài cổ trên đó có những cửa sổ hẹp và ít màu, cũng như mái vòm phía đông của chân tháp chuông đều theo phong cách của Roman, nhưng tháp chuông vòm mái nhọn có gân theo phong cách Gothic. Nhà thờ nằm ngay quảng trường phố chính trông rất đẹp. Ngày xưa dân cư trong làng rất ít, do đó họ chẳng cần phải mở mang thêm đường sá. Họ thường đi bộ, chỉ vào những ngày lễ hội họ mới dùng xe ngựa. Có lẽ do thói quen nên người ta muốn giữ lại truyền thống và những di tích cũ. Dọc theo con lộ về Paris là những cánh đồng vàng rực hoa Hướng Dương trông như tấm thảm bạt ngàn, thỉnh thoảng có những đồi cây xanh đầy hoa cỏ dại. Ngày nay mảnh đất ấy đã thay đổi thành một đô thị mới chia làm hai tầng, khu tầng duới dành cho nhà ga, xe điện ngầm, xe buýt và xe hơi; khu tầng trên là thành phố nổi, dành cho khách bộ hành. Thành phố hôm nay đã hoàn toàn thay đổi, nếu ai không phải là ngưười của địa phương lâu năm khó mà biết được những cảnh sắc hoang sơ của thiên nhiên đầy thơ mộng ban đầu, nó như một bức tranh phong cảnh giữa trời xanh mây trắng với những cánh đồng hoa vàng bạt ngàn.

Căn nhà tôi nằm ven rừng, cạnh con sông L'Oise có dòng nước chảy lặng lờ ven theo khu phố cổ, nay đã biến thành nơi bến cảng của du thuyền. Ở đây, ngày tháng qua rất nhanh, tôi đã cảm nhận được sự mầu nhiệm của thiên nhiên với bốn mùa thay đổi. Khi hoa xuân vừa chớm nụ khách yêu hoa chưa kịp thưởng lãm đã thấy hạ sang, nắng hồng mới ấm ngọn lá thì gió thu chợt đến mang những chiếc lá vàng đi trên cành chỉ còn lại những chùm tuyết mùa đông. Thời gian quả vô tình như chiếc bóng lặng lẽ trôi, tôi đã thấm trọn nỗi buồn trong xương tủy của kẻ xa xứ nên rung cảm những sáng tác của nghệ sĩ. Chỉ có họ mới cảm nhận được cái bóng của thời gian chắp cánh bay, có lẽ họ đã sống và hòa nhịp thở của mình với từng khoảng thời gian nên níu được những hình ảnh của quá khứ. Họ đã giữ cho dòng thời gian không bị đứt đoạn, cũng như tan biến, nên đã minh họa lại những khoảng thòi gian đó qua những áng văn, vần thơ, điệu nhạc, tranh, ảnh để hoài niệm một thời xa khuất. Đôi khi trong ý tưởng của tác phẩm đã vượt trước cả thời đại để vọng lên tâm khúc của tác giả bằng thứ ngôn ngữ riêng biệt, mà người đương thời còn ngỡ ngàng, chưa hòa điệu!

Công ty tôi làm việc nằm trong khu thương mại, một trong những khu sầm uất nhất Paris. Vì cư ngụ ở ngoại ô nên vào Paris tôi phải mất hơn nửa giờ, chưa kể thời gian đợi tàu lửa rất lâu. Tôi lại có thói quen thích ngồi quán cà phê ngắm thiên hạ qua lại sau đó mới đến sở. Cái thói quen ấy có từ thuở còn đi học ở Sai Gòn mà tôi tưởng qua bên đây sẽ mất đi vì phải bận rộn công việc mưu sinh. Để sống lại với cái thú khi xưa tôi phải lấy chuyến xe lửa khởi hành đi Paris sớm hơn một chuyến. Cũng may giờ làm việc của sở tôi có trễ hơn những công sở hành chánh khác. Từ khi có tuyến xe điện ngầm nối liền khu tôi ở với Paris làm khoảng cách và thời gian được thu ngắn lại, nhờ đó mà đỡ vất vả cho những nguời đi làm xa. Quanh khu tôi ở là vùng kỹ nghệ và khu đại học nên tuyến đường xe điện ngầm từ Paris vào nơi tôi là tuyến rất đông người, nhất là vào những giờ cao điểm lúc sáng sớm hay lúc xế chiều. Trong giờ cao điểm, khách sẽ khó tìm được chỗ ngồi, nhiều người phải đứng từ lúc lên cho đến khi xuống. Nhưng người Paris đã quá quen cảnh chen lấn nhau như cá hộp, vì họ chỉ mong có chỗ đứng trong xe để được đến đúng giờ.

Mỗi sáng cũng vào giờ thường lệ tôi đợi xe đi Paris, và ngồi toa hạng nhì, đây là toa dành cho những người không hút thuốc. Đối với những người ít đi xe lửa họ có thể lầm đó là toa hạng nhất nên chẳng ai muốn lầm để bị phạt oan, do đó chỉ có những người đi quen mới biết mà chọn toa nầy. Nhờ ảnh hưởng của toa hạng nhất mà nó ít ồn ào nên rất thích hợp cho những người muốn yên tĩnh hay muốn đọc sách.

Những người khách đi thường xuyên trong toa này ăn mặc rất lịch sự, đa số là những người làm việc văn phòng. Dù đã biết nhau nhiều năm nên quen mặt nhưng họ chỉ chào nhau mà ít nói chuyện, do đó không khí ở trong toa rất tĩnh lặng. Trong khoảng không gian chung thu hẹp ấy mỗi người một cõi riêng.

Tôi bước lên tàu khẽ chào mọi người, vẫn những khuôn mặt quen ấy họ khẽ chào lại rồi chú ý đọc sách. Tôi biến nhanh vào chỗ ngồi cũ và lấy sách ra đọc tiếp đoạn văn của tác giả người Pháp nói về tấm lòng người mẹ. Có lẽ dù bất cứ giống người nào sống trên thế giới thì tình mẫu tử đều diệu vợi và cao đẹp như nhau. Có nhiều đoạn trong sách làm tôi bùi ngùi xúc động! Tôi ngừng đọc nhìn ra khung cửa xe nơi những rừng cây phong đầy lá thu vàng rất thơ mộng dọc theo đường rầy, rồi nhắm mắt suy tư. Tôi hồi ttưởng lại những đoạn văn mình đã từng viết về nhnữg tấm lòng hy sinh của những người Mẹ đăng trên nhiều tạp chí văn học ở Mỹ:

«Mẹ là tiếng gọi đầu đời của trẻ thơ, là dòng sữa ngọt nuôi nấng con thơ lúc chào đời, dạy con bắt đầu học nói. Mẹ hát ru ngủ, chăm sóc lúc con thức, và tập cho con những bước đi đầu tiên. Tình mẹ diệu vợi luôn luôn nồng ấm hòa nhập với mạch sống của con, lòng mẹ hân hoan sung sướng khi thấy con khôn lớn, hạnh phúc, thành đạt trong xã hội, và sãn sàng chia sẻ những muộn phiền lo âu khi con gặp những thất bại trên đường đời. Không có bút mực nào tả hết được tình cảm thiêng liêng về tấm lòng cao cả của người mẹ, dù rằng trong các bộ môn văn học nghệ thuật đã được người nghệ sĩ đem tim óc diễn tả về khối tình tuyệt vời đó qua thi văn, âm nhạc, hội họa, điện ảnh, sân khấu..vv.., nhưng nào ai có thể diễn tả được hết tình mẹ bao la sâu thẳm đó? Hình ảnh người mẹ trong lãnh vực tôn giáo: Phật Giáo có đức Quán Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức Mẹ. Thiên Chúa Giáo có đức Mẹ, Thánh nữ đồng trinh Maria. Trong kho tàng văn hóa Việt Nam những truyện cổ tích, ca dao, tranh họa, cải lương, kịch..…viết về mẹ không nhiều, nhưng lại thắm tình dân gian nên lưu truyền đến ngày nay. Có người ví: «Trái tim của người mẹ là một kỳ quan tuyệt hảo nhất trong số những kỳ quan trong vũ trụ, và cũng là trường học cho đứa con ».

Nói về tình mẹ và đức tính hy sinh thì trên thế gian quả chẳng có bút mực nào kể hết. Từ thuở hồng hoang đến nay có nhiều sự thay đổi theo tiến trình thời gian, kể cả có những thứ đã mất đi, nhưng tình mẹ thương con vẫn không hề biến dạng hay thay đổi từ khi con người xuất hiện trên trái đất đến nay...».

Tay tôi vẫn cầm sách nhưng đầu lại miên man suy tưởng về những khúc phim dĩ vãng của đời mình được ráp nối chẳng đầu đuôi cứ chợp chờn. Tôi nhớ thời thơ ấu bên mái ấm gia đình ở Hà Nội, thuở mà tiếng súng chống thực dân chỉ nổ trong vùng xa xăm bưng biền chiến khu chưa rộn hồn tôi, rồi nhớ những ngày di cư vào Nam chúng tôi được hưởng không khí tự do thanh bình, gia đình tôi có một cuộc sống sung túc trong hạnh phúc. Tôi lại nhớ đến Tết Mậu Thân chiến tranh đã vào thành phố nhà của tôi bị cháy, sản nghiệp của mẹ tôi xây dựng từ khi bỏ xứ Bắc vào Nam bỗng một ngày tiêu tan! Những thành phố như Huế, Sai Gòn và một số thành phố Khác khói lửa đạn bom giăng mù mịt khiến nhà cháy, tường xiêu, gạch đổ nát. Khắp nơi là những xác người lính của hai phía, của người dân nằm phơi trên đường phố, trên vỉa hè! Cũng vì chiến tranh mà biết bao người bạn của tôi bị chết trên chiến trường! Ngày tôi bị động viên vào lính là ngày xác của thằng bạn thân học cùng lớp với tôi thời ở Đại học từ chiến trường mới đưa về, mẹ nó chết ngất trước cỗ quan tài con! Còn mẹ tôi cũng đầy nước mắt tiễn con lên đường đi lính! Tôi vẫn ghi khắc nét lo âu tiều tụy trên khuôn mặt mẹ, nhất là đôi mắt buồn. Cả một đời bà ước mơ và chờ đợi nhưng chẳng bao giờ toại nguyện. "Mẹ tôi lùc còn chiến tranh hằng cầu nguyện quê hương sớm thanh bình để con mình khỏi chết trận. Sau khi hết chiến tranh lại cầu nguyện con thoát lao tù.Giờ đây lại cầu nguyện cho quê hương được tự do dân chủ". Nghĩ đến đây, dòng lệ trong tôi tự trào!»

Khi đoàn tàu chui vào hầm trong lòng phố Paris, đèn điện trong toa bỗng sáng hơn, tôi cất cuốn sách trong cặp, liếc sang những người phía hàng ghế bên, tôi bỗng thấy khuôn mặt của họ trắng nhợt ra, đến khúc đường cong ánh đèn trong xe lung linh trông mặt họ càng tái hơn như những người chết. Tôi chợt nghĩ: "Đâu phải chỉ có người chết mới có độc qưyền ngự trị trong lòng đất mà những người sống ở kỷ nguyên mới này cũng đang di chuyển hàng ngày trong cõi chết".

Đến trạm N.P vắng hoe, tàu dừng lại vài phút. Có ít người khách từ các toa khác xuống. Tàu gần chuyển bánh bỗng có người thiếu phụ trang phục theo lối Đông Âu, trên tay bế đứa con nhỏ vội vã bước lên tàu. Bà ta hơi ngập ngừng do dự, trong tư thế nửa muốn kiếm chỗ ngồi, nửa muốn đổi toa khác. Cuối cùng bà ấy tiến về hàng ghế tôi vì còn chỗ trống đối diện, có lẽ chỉ có tôi là người ngoại quốc duy nhất trong toa nầy. Tôi nép vào phía trong nhường khoảng trống chính diện cho mẹ con bà. Đứa bé bỗng ré lên khóc gây sự chú ý cho mọi người làm tôi có dịp quan sát cháu bé và bà kỹ hơn. Thiếu phụ trước mặt tôi là người đàn bà trẻ đẹp, mặt sáng như trăng nhưng do bụi đường chấm phá làm ủ rủ nét thanh tao. Nàng còn trẻ lắm, cái tuổi còn cắp sách đến trường thế mà cuộc đời lại phải phiêu bạt! Cũng là những người Tây phương, đất nước có một nền văn minh lâu đời, đất đai, quặng mỏ lại trù phú nhưng xứ sở bị tàn phá bởi chiến tranh nên nghèo đói, do đó bà mới trôi giạt đến một phương trời xa lạ để tìm tự do và mưu cầu đời sống!

Nước Pháp là một trong những quốc gia giàu nhất thế giới. Paris, thủ đô ánh sáng, cái nôi nhân quyền và là một trong những kho tàng văn hóa của nhân loại với nhũng công trình kiến trúc cổ như lâu đài thành quách, giáo đường..vv.. Nhìn toàn cảnh Paris như một bức tranh ấn tượng đầy màu sắc, và khi về đêm lcàng lộng lẫy, rực rỡ hơn. Đứng từ xa hướng về phiá Bắc Paris đã trông thấy ngôi Thánh đường Sacré Cœoeur trên đồi Montmatre nổi bật giữa nền trời xanh trong, ngôi đền ngoài sự linh hiển còn là một công trình nghệ thuật. Chỉ nhìn vào màu khối đá trắng toát ta cũng cảm thấy sự uy nghiêm hùng vĩ của ngôi Thánh đường. Nằm bên sườn đồi là khu phố nghệ sĩ, nơi đây đã từng là tụ điểm của nhiều danh họa nổi tiếng của Pháp và thế giới như Auguste Renoir, Henri Matisse, Paul Gauguin, Paul Cézanne, Van Gogh, Picasso, Modigliani...Ngày nay vẫn còn là nơi quy tụ nhiều họa sĩ đến vẽ tranh, trưng bày những bức tranh sắc màu thuộc nhiều trường phái. Đây là những điểm gặp gỡ của những tâm hồn nghệ sĩ và du khách cùng hướng về cái đẹp. Dọc theo những con đường hẹp đan nhau, đó, đây là những họa sĩ đang miệt mài trong cảm hứng sáng tạo. Cách đó không xa, vài nhóm nhạc sĩ đang hòa nhạc, họ thả hồn trong những bản giao hưởng mà từ đằng xa đã nghe âm thanh réo rắc.

Từ đồi Montmartre xuống khu phố sang trọng Champs Elysées, đại lộ được mệnh danh đẹp nhất thế giới, rồi ngang nhà thờ Notre Dame để đến vườn Luxembuorg qua khu phố Latin vào những con đường cổ trải đá, những ngôi nhà xưa mái tháp, mặt tiền được điêu khắc trạm trổ như trong những câu chuyện thần thoại cổ tích. Mạch sống của Paris là những con đường ngoằn ngoèo, nhỏ hẹp, chằng chịt san sát nhà hàng, cửa hiệu, quán café, nơi ấy lúc nào cũng đông khách và vỉa hè luôn rộn rã bước chân người. Nhưng Paris quyến rũ hơn khi bước vào thu, những con đường ngập lá vàng, hàng cây dọc bên bờ sông Seine vi vu trong gió. Chiếc cầu bắc ngang sông soi mình trong bóng nước. Dòng sông thơ mộng ấy là nguồn cảm hứng của biết bao nghệ sĩ, họ dệt cho đời những thiên tình sử còn ghi lại trong văn học nghệ thuật.

Nếu Paris thơ mộng, đẹp như bức tranh cổ cho những tâm hồn thơ mộng, thì nơi ấy vẫn có những mảnh đời vụn vỡ! Giới thượng lưu sống trong nhung lụa, tháp ngà của thời đại mới, còn giới bụi đời sống lây lất ở các vỉa hè, góc kẹt cầu và hầm Métro. Ở Paris trước năm 2000 nền kinh tế của nước Pháp tăng trưởng mạnh nên tình trạng người xin ăn rất ít. Trong giới sống lang thang nầy ngoài những kẻ chây lười không thích lao động, không phải ai trước đó cũng là những người nghèo khó hành khất. Họ gồm đủ hạng người, từ những người truớc kia từng làm chủ một công ty, giám đốc một xí nghiệp hay thuộc giới trí thức khoa bảng vì bị một chuyện buồn nào đó đã làm tan vỡ hnạh phúc gia đình nên thất rí mà sa cơ. Do nhiều hoàn cảnh khác nhau đã xô đẩy họ phiêu bạt giang hồ, không nhà không cửa rơi vào cuộc sống buông thả! Một số ít do cái thú thích kiếp sống lãng tử, có người xin vừa đủ tiền mua một rượu đỏ và một ổ bánh mì để ăn no uống say quên đời. Có những người lại không muốn xin tiền, chỉ đi đến các siêu thị lượm đồ ăn hết hạn bị bỏ trong các thùng rác. Cũng có một số ít người không phải là giới lang thang, họ đã có nhà cửa và việc làm ổn định, nhưng vì muốn tiết kiệm tiền mua thực phẩm nên đã quên sĩ diện, vẫn đến các thùng rác của siêu thị để lượm đồ ăn hết hạn bị bỏ đi.

Ở Pháp có một qũy xã hội để trợ cấp cho những người nầy, chính phủ đã giúp họ chỗ ăn, chỗ ở. Nhất là, cứ vào mỗi tối ở trong thành phố Paris mỗi có những xe chở đầy thực phẩm nấu chín đến phân phát cho từng người ở nhiều tụ điểm khác nhau. Vào mùa đông thành phố đem xe đi đón những người ngủ ngoài trời, trên các vỉa hè, nhưng mang tính cưỡng ép. Tất cả những người lang thang này đều được đưa vào những khách sạn trung bình để họ cư trú, nhưng nhiều người vẫn không chịu ở, họ thích sống tự do nên chỉ được vài ngày họ lại bỏ đi.

Nạn ăn xin ở Paris hôm nay ngày càng nhiều, họ là những người chạy trốn chiến tranh và sự đói kém của một số nước Cộng Sản Đông Âu. Chính sự đói kém và lạc hậu của chế độ Cộng sản đã xô đẩy biết bao con người phải phiêu bạt vào nơi gió bụi! Sau khi Liên Bang Xô Viết bị sập đổ, các quốc gia này trở thành các nước không Cộng sản, nên nền kinh tế dần dần được phục hồi thành những nước phát triển có mưức thu nhập khá. Tuy nhiên đối với một số người còn đang sống lang thang ở Paris, họ thích lối sống tự do không bị ai ràng buộc nên không muốn hồi hương. Hơn nữa nghề hành khất ở Paris trở nên chuyên nghiệp vì hàng ngày họ xin được nhiều tiền mà không bị đóng thuế, tiền thuê nhà, so với những người làm là công chức, hay tư chức thu nhập của họ hàng tháng cao hơn. Trong số đó có ít người còn mua nhà, xây biệt thự nơi quê nhà vì đồng tiền Euros cao so với giá nhà đất nơi đó còn quá rẻ, do đó họ đã không chịu bỏ nghề hành khất. Tuy nhiên trong số đó cũng còn nhiều người rất nghèo vì số thời gian đi xin trong ngày quá ít.

Tôi còn nhớ có một lần tan sở trên đường về, tôi gặp một người lang thang chận lại xin, hôm đó vào ngày đầu tháng tôi vừa mới lãnh phiếu lương, và một tập chi phiếu ăn nhà hàng mỗi háng do chủ công ty tặng nhân viên. Tôi nhìn người hành khất già yếu chợt chạnh lòng muốn cho vài đồng nhưng lại đổi ý định xé một tấm chi phiếu ăn để ông có thể dùng một bữa theo ý mình, nhưng không hiểu sao tôi lại tặng ông luôn cả tập. Mắt của ông sáng lên nói lời cảm ơn, và cầuThượng đế ban phước cho tôi. Trên đường, tôi ghé vào một hiệu sách mua tờ báo, sau đó chui xunống hầm métro chờ xe về nhà. Khi bước xuống hết bậc cầu thang, tôi nhìn thấy người hành khất lúc nãy ông đang cầm xấp chi phiếu ăn mà tôi tặng phát cho mấy người bạn hành khất khác. Tôi vô cùng xúc động, và nghĩ: «Đây mới là tấm lòng bác ái muốn chia sẻ lẫn nhau giữa những người cùng khổ!»

Tiếng khóc của em bé kéo tôi về thực tại. Tiếng ré phá tan không gian yên tĩnh trong toa gây sự chú ý của bao cặp mắt. Bà mẹ trẻ cố dỗ con nhưng cháu bé lại càng khóc lớn. Tôi cảm thấy bối rối vì không giúp được gì! Một bà khách lớn tuổi ngồi hàng ghế kế bên lên tiếng: "Cháu sao khóc thế?". Bà nói tiếp: "Thời tiết mấy hôm nay bỗng trở lạnh, bà nên mặc quần áo thật ấm cho cháu!".

Người mẹ trẻ lúng túng, quay sang trả lời:"Cám ơn Bà cháu mặc rất ấm. Cháu khóc chắc là đã đói!".

-"Cháu có ăn được chocolat?",một bà khách khác hỏi.

-Cảm ơn Bà, cháu còn quá bé, chưa dùng chocolat được! ".

Bà mẹ trẻ vừa quay lại trả lời vừa cởi áo khoác, rồi vạch áo trong để lộ một bên vú trắng ngần, căng đầy sữa trước bao cặp măt mở lớn tròn xoe. Quả thật họ ngạc nhiên là phải, họ ngạc nhiên không phải nhìn thấy cái ngực trần, vì đối với người Âu Mỹ, nhất là phụ nữ Pháp, họ thích khoe thân hình có bộ ngực đẹp vào những buổi hè ở bãi biển. Còn trường hợp nầy, giữa thủ đô Paris đầy tráng lệ lại có người phụ nữ trẻ đẹp vạch vú cho con bú trước công chúng, thay vì nó chỉ được thực hiện ở miền quê hay nhà riêng. Hình ảnh người mẹ âu yếm con thật đẹp, đầy cảm động như bức tranh sơn dầu "Tình mẫu tử" của danh họa người Mỹ Mary Cassatt cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, thuộc trường phái ấn tượng. Đứa bé thấy vú mẹ chúi vào bú ngấu nghiến. Tôi thấy vài cặp mắt đều loáng ánh reo vui như chia những khoảng khắc của niềm hạnh phúc với cháu bé. Riêng tôi cũng cảm thấy bồi hồi và reo vui nhìn cháu bé đang hưởng một hạnh phúc tuyệt vời, đó là tình mẹ. Tôi lại miên man hồi tưởng thời thơ ấu.

Xe ngừng trạm sau, ở những toa khác có rất nhiều hành khách lên xuống, nhưng toa tôi ngồi chỉ có một người khách lên tàu, đó là một bé trai, tuổi độ lên tám, mái tóc vàng dợn sóng dài lỏa xỏa trên gương mặt hốc hác, xanh xao, trông càng lem luốc! Em mặc ở trong một chiếc áo sơ mi, ngoài là chiếc len cũ màu xanh rêu. Chiếc quần vải xám đậm đã sờn gối. Nếu được chăm sóc kỹ trông em chắc sẽ khác, và khuôn mặt đầy nét thông minh sẽ kháu khỉnh hơn. Thương thay chiến tranh đã cướp đi tương lai, hạnh phúc và tuổi thơ ngây của em!

Tàu chưa kịp đóng cửa khởi hành thì em đã nghêu ngao hát một bài ca của xứ sở. Tôi không hiểu gì về lời ca, nhưng biết chắc em chưa biết nhiều về âm nhạc. Em cố hát to cốt gây chú ý hành khách để xin tiền. Tiếng hát nghe não lòng, có lẽ em đã khóc trong tiếng hát, cho thân phận làm người! Nhưng lời ca đó đã loãng trong sự hững hờ, vì hành khách ngày nào cũng gặp giới lang thang và nghe quá nhiều những ca khúc để xin tiền nên đã nhàm! Hơn nữa trên các tuyến đường xe điện ngầm của Paris đầy rẫy những nghệ sĩ hát dạo, kẻ bụi đời và hành khất. Mặc dù hát dạo nhưng những nghệ sĩ nầy chơi nhạc rất điêu luyện, họ trình tấu rất hay những nhạc phẩm thời trang đang thịnh hành, hoặc nhiều bài giao hưởng. Sau khi chơi xong một hay hai bản nhạc, họ thường được hành khách tặng cho ít tiền lẻ. Thỉnh thoảng cũng có những nghệ sĩ chuyên nghiệp trình bày những buổi hòa nhạc giao hưởng trong hầm métro cho khách bộ hành thưởng lãm.

Em bé hát xong, cầm chiếc lon đi dọc theo hai dẫy ghế xin tiền nhưng hành khách vẫn mải mê trên trang sách, hình như họ tảng lờ tiếng kêu thống thiết của em! Riêng tôi cũng muốn tặng em ít tiền nhưng bản tánh Á Đông khiến tôi do dự! Sự tế nhị không cho phép tôi móc tiền ra bố thí cho kẻ khác, khi mà mẹ có cháu bé người ngồi đối diện tôi cũng thuộc diện cậu bé đang là một hành khách. Tôi không thể xúc phạm đến tự ái của bà, dù bà chẳng để ý đến những suy nghĩ của tôi. Để tránh bối rối, tôi giả đò nhắm mắt ngủ khi em bé đến hàng ghế chúng tôi. Điều đó làm tôi cảm thấy thẹn lương tâm khi khước từ lời van xin của em bé! Tôi bỗng lạnh toát vì dĩ vãng lại chợt về: "Tôi đã từng bị tù sau ngày chính quyền Miền Nam sập đổ, đã từng uống nước lã cầm hơi, nhai những loài cây dại để đỡ đói, và cũng từng thèm những hạt cơm, mẩu đường, miếng tóp mỡ. Nghĩ đến mà tôi rùng mình về những ngày khốn khổ ấy, và xấu hổ về hành động làm ngơ của mình trước người khốn khổ!".

Tiếng loảng xoảng những đồng bạc cắc rơi không đều nhau trong lon thiếc nghe ròn rã như pha lê vỡ. Tôi mở bừng mắt thấy người thiếu phụ trẻ đang nhoẻn miệng cười, còn em bé cúi đầu, mồm nói tiếng cảm ơn. Tôi liếc sang những hàng ghế bên thấy mọi cặp mắt đều tròn xoe và mở lớn đổ về phía bà. Thời gian hình như bị chậm lại, và yên lặng. Họ quay lại nhìn nhau trong im lặng, nhưng chắc hẳn trong tâm tư mỗi người đều có chút bâng khuâng vì không thể ngờ tiếng van xin của em bé lại được một người hành khất khác chia sẻ.

Ôi! Quả thật chỉ có những kẻ khốn cùng mới thông cảm và thương nhau! Lá rách đùm lá nát!

Đến trạm kế tiếp, người thiếu phụ ẵm con xuống xe, dáng mẹ con bà khuất sau phía cầu thang. Còn em bé hát rong cũng đổi sang toa khác tiếp tục hát bản nhạc quen thuộc. Tôi xuống xe lửa bước lên khỏi hầm métro cảm thấy thoải mái dưới ánh mặt trời chan hòa trong nắng thu. Tôi hít đầy không khí vào lồng ngực rồi đi lang thang trên vài con đường trong khu phố đầu miên man về hình ảnh những người khốn khổ ấy. Tôi bỗng thở dài cho thân phận làm người và nhận ra giá trị đích thực của cuộc đời là Tình Người. Đến sở tôi mới chợt nhớ mình đã bỏ quên thói quen ngồi café! -/.

ĐỖ BÌNH


Nguồn: https://vietvanmoi.fr/
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 1 tháng 3 năm 2025