THỜI NIÊN THIẾU CỦA SHERLOCK HOLMES TẬP 3 Băng Đen
thời niên thiếu của sherlock holmes tập 3
CHƯƠNG 1
Ánh nắng lấp lánh trên mặt nước, hất những tia sáng dội thẳng vào mắt Sherlock khiến cậu phải nháy mắt liên hồi, và nheo lại để tránh bớt cái nắng chói chang.
Chiếc thuyền con bập bềnh giữa hồ. Xung quanh hồ, từ ngay mé nước, cỏ mọc tứ tung, che lấp cả các bụi rậm và cây thưa thớt. Chiếc ghe như thể nằm trong một cái bát màu xanh lá, với cái nắp là bầu trời trong xanh không một gợn mây ở trên.
Sherlock ngồi ở phía mũi, mặt quay về hướng đuôi ghe. Amyus Crowe ngồi ở phần lái, sức nặng của ông làm cho phần đuôi ghe bị ấn sâu xuống nước đẩy phần mũi tàu nơi Sherlock đang ngồi vênh lên cao. Crowe giữ chiếc cần câu trên mặt nước hồ. Một đoạn dây câu mảnh khảnh nối chóp chiếc cần câu với một túm lông đang nổi lềnh bềnh trên mặt nước: đó là mồi nhử để con cá nào đói bụng tưởng đấy là con ruồi.
Dưới chân họ, trên đáy ghe, là một chiếc giỏ đan bằng cọng liễu gai đang nằm chỏng chơ rỗng không.
Sherlock hỏi, giọng càu nhàu, “Sao chú mang theo chỉ mỗi một chiếc cần câu vậy?”
“Bữa nay đâu phải là ngày đi câu,” Crowe từ tốn trả lời, mắt đăm đăm nhìn vào chiếc mồi nhử bồng bềnh, “chỉ giả dạng thôi. À không, thực ra đây là một bài học về các kĩ năng sống.”
“Đáng lẽ cháu nên đoán ra từ trước.” Sherlock làu bàu.
“Tuy nhiên đây cũng là cách để kiếm vài con cá để chú và Virginia ăn tối nay.” Crowe thú thực. “À, và luôn như thế, nếu có thể, cố gắng thu xếp một công đôi ba việc.”
“Vậy cháu chỉ ngồi đây xem chú kiếm cá để nấu bữa chiều thôi sao?” Sherlock nói.
“Điều này thì còn tùy theo mức độ.” Crowe cười.
“Có lâu không?”
“Ồ, cũng còn tùy.”
“Tùy vào cái gì ạ?”
“Tùy việc ta có phải là người câu cá giỏi hay không.”
“Làm sao thì chú mới trở thành người câu giỏi được?” Sherlock lên tiếng hỏi, biết rằng mình đang bị Crowe dẫn dắt nhưng cậu không dừng lại được.
Thay vì trả lời, Crowe quay cuộn dây câu có tay nắm bằng xương ở phần đuôi chiếc cần, khéo léo thu dây câu về. Chiếc mồi nhử bằng lông nhảy bổng khỏi mặt nước, rồi lơ lửng trong không khí, khiến mấy giọt nước lấp lánh rơi xuống, khuấy động nhẹ mặt hồ. Ông giật ngược chiếc cần. Dây câu vụt ngang qua đầu, miếng mồi nhử loe ra khi bay theo. Crowe lại vụt mạnh chiếc cần, miếng mồi nhử lại vẽ hình số 8 trên nền trời xanh biếc khi bay qua đầu ông và rơi tõm nhẹ xuống phía khác của hồ. Ông mỉm cười khi nhìn miếng mồi nhử trôi vật vờ.
“Người thợ câu giỏi nào cũng biết,” Crowe lên tiếng, “là các loại cá sẽ có phản ứng khác nhau tùy theo nhiệt độ và theo từng mùa trong năm. Chẳng hạn, cá không bao giờ đớp câu lúc tảng sáng mùa xuân. Dòng nước còn rất lạnh và ánh nắng chỉ sượt trên mặt nước chưa đủ sưởi ấm vì lúc này mặt trời chưa lên cao, khiến lũ cá đờ đẫn. Máu của chúng chảy rất chậm vì trời còn lạnh và bị ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh. Chờ đến nửa buổi sáng hoặc gần trưa, khi mọi thứ bắt đầu rục rịch thay đổi. Lũ cá sẽ trở nên linh hoạt hơn, lâu lâu sẽ đớp một lần, vì lúc này mặt trời đang chiếu thẳng xuống mặt nước, làm cho nước ấm lên. Đương nhiên lúc này có gió làm chao động lớp nước ấm bề mặt, kể cả lũ côn trùng tí teo và những thứ thức ăn của bọn chúng, và là một người câu cá, cháu phải chú ý và di chuyển theo những chuyển động thay đổi đó. Không ích gì khi câu trong làn nước lạnh, hoặc khi cá không có đồ ăn xung quanh. Những thứ này đều thay đổi tùy theo mùa trong năm.”
“Liệu cháu có phải ghi lại không?” Sherlock hỏi.
“Hãy dùng cái đầu nằm trên vai cháu ấy. Nên ghi nhớ sự kiện”. Ông khịt mũi rồi tiếp: “ví dụ, vào mùa đông, nước sẽ lạnh, thậm chí còn đóng băng nữa, cá bơi lờ đờ. Chúng sống được là nhờ đến phần dự trữ có được từ hồi mùa thu, đại loại như vậy. Chẳng ích lợi gì khi đi câu vào mùa đông. Nào, nãy giờ cháu đã học được những gì?”
“Để xem nào.” Sherlock lẹ làng soát lại những gì có trong đầu. “Vào mùa xuân tốt nhất nên chơi vào sáng sớm hoặc buổi xế chiều, còn mùa đông thì tốt hơn nên đi ra chợ để mua thứ gì đó từ mấy bà bán hàng rong.”
Ông Crowe phá lên cười. “Tóm tắt sự kiện thế là tốt, nhưng nên nghĩ thêm về những điều nằm sau sự kiện đó. Giải thích các sự kiện theo qui luật nào?”
Sherlock trầm ngâm một lúc. “Điều quan trọng là nhiệt độ của nước và yếu tố quyết định nhiệt độ của nước là sức nóng của mặt trời, khi chiếu thẳng hay chiếu nghiêng xuống nước. Phải xem vị trí của mặt trời đang ở đâu, kiếm xem chỗ nào nước chỉ ấm nhưng không quá nóng, đó là nơi mà ta sẽ tìm được lũ cá”.
“Khá chính xác”
Chiếc mồi nhử giật nhẹ, ông Crowe chồm ra trước, mở to đôi mắt xanh dưới hàng mày rậm ri, nhìn không chớp.
“Mỗi loài cá ưa một nhiệt độ khác nhau,” ông khẽ khàng nói tiếp. “Người câu cá giỏi là người biết kết hợp kiến thức về nhiệt độ nào mà lũ cá ưa với kiến thức về các mùa trong năm, thời khắc trong ngày và các điều kiện xáo chuyển nước trong hồ để đoán ra loài cá nào sẽ lui tới khúc nào trong hồ vào một thời điểm nào đó trong năm.”
“Tất cả thật thú vị,” Sherlock đáp thận trọng, “nhưng cháu không ưa môn câu cá mấy. Tức là mình phải bỏ quá nhiều thời gian chỉ để ngồi chờ đợi một cái gì đó sắp xảy ra. Nếu phải ngồi lâu như thế, chẳng thà cháu cầm quyển sách còn hơn chiếc cần câu”.
Ông Crowe đáp trả một cách kiên nhẫn, “Theo ý kiến quê kệch, mộc mạc của chú thì nếu muốn tóm cái gì đó, ta cần phải làm một cách bài bản. Ta cần phải hiểu về các thói quen của con mồi, cần phải biết những thói quen này thay đổi tùy theo hoàn cảnh và môi trường xung quanh. Bài học này áp dụng cho cả cá lẫn cho người. Người cũng có những sở thích, những nơi ưa lui tới, vào các thời điểm khác nhau trong ngày, những sở thích này có thể thay đổi tùy theo lúc nắng hay mưa, lúc họ đói, khi họ no. Rồi sau đó, ta có thể đưa ra một mồi nhử - giống như túm lông mà ta buộc lại bằng sợi chỉ - một thứ gì đó mà đối tượng của ta cứ muốn đớp lấy.”
“Cháu hiểu rồi.” Sherlock lên tiếng. “Mình về được chưa ạ?”
“Chưa đâu. Chú vẫn chưa kiếm xong bữa chiều.” Crowe đảo mắt nhìn quanh mặt hồ, tìm kiếm cái gì đó. “Một khi ta hiểu được con mồi và các thói quen của nó, ta sẽ đi tìm dấu hiệu xem nó có quanh quẩn ở đó hay không. Nó không ngoi đầu lên để tự giới thiệu đâu. Không hề, nó chỉ lòng vòng xung quanh, cẩn trọng lắm, còn ta thì phải tìm những dấu hiệu phảng phất cho biết chú chàng đang ở đó.” Mắt ông dán vào một mảng nước ở cách con thuyền chừng bốn thước. “Này, nhìn về đằng kia kìa,” ông hất đầu nói. “Cháu thấy gì không?”
Sherlock nhìn theo. “Nước phải không?”
“Còn gì nữa không?”
Sherlock nheo mắt nhìn, cố gắng tìm xem Crowe đã thấy những gì. Bỗng chốc, một khoảnh nước dường như dúm nhẹ xuống, kiểu như một con sóng lật ngược. Nhưng ngay sau đó, mặt nước trở lại bình thường. Và khi biết mình đang tìm cái gì, Sherlock lại thấy thêm nhiều điểm hõm xuống, bất chợt và chỉ thoáng qua trong khi mặt nước trong hồ chỉ hơi gợn nhẹ. “Đó là cái gì?”
“Cái đó gọi là “hớp”,” Crowe trả lời. “Nó xảy ra khi con cá - trong trường hợp này là một loại cá hồi - hếch mũi sát mặt nước, chờ có con côn trùng non nào bay qua hay không. Khi thấy con mồi, chú cá sẽ há miệng ra hút ngụm nước và táp cả con mồi đi theo. Những gì mà chúng ta thấy qua các chỗ lõm nhỏ trên mặt nước đó là chỗ nước bị hút kéo xuống, kéo theo con côn trùng non. Qua đó sẽ cho biết con cá hồi nằm chỗ nào, anh bạn ạ.”
Ông Crowe giữ chặt chiếc cần câu để cho miếng mồi trôi bồng bềnh trên mặt nước đến chỗ mà Sherlock thấy chú cá hồi đang hút nước để kéo con côn trùng non xuống. Mọi thứ vẫn im lìm, rồi chiếc mồi nhử đột nhiên bị kéo giật xuống dưới mặt nước. Crowe ngay lập tức lôi mạnh cần câu, vừa cố hết sức quay nhanh cuộn dây câu. Mặt nước tung tóe những giọt nước lấp lánh, ở giữa là một con cá đang vùng vẫy. Miệng cá mắc vào chiếc lưỡi câu nằm sâu trong mồi nhử, những chiếc vảy lốm đốm nâu. Crowe đánh vụt chiếc cần lên cao một cách thành thạo và con cá hầu như bay thẳng vào trong thuyền, giãy đành đạch. Một tay giữ chặt cần câu, ông Crowe vòng tay kia ra sau rút một chiếc chày gỗ dưới chỗ ngồi. Một nhát đập mạnh và thế là con cá hết cựa quậy.
“Thế thì hôm nay chúng ta đã học được những gì nào?” Ông Crowe gỡ cái lưỡi câu ra khỏi miệng con cá hồi, vừa từ tốn hỏi. “Biết được thói quen của con mồi, biết được thứ mồi mà nó thích và biết được các dấu hiệu báo cho biết nó đang quanh quẩn đâu đây. Thực hiện tất cả các bước đó, cơ hội tóm được con mồi sẽ là tối đa.”
“Nhưng không biết đến khi nào cháu mới có thể săn tìm ai đó hoặc cái gì đó nhỉ?” Sherlock hỏi, bởi cậu hiểu hết những điều cơ bản của bài học nhưng không biết làm thế nào để áp dụng vào mình. “Cháu biết chú đã từng là thợ săn tiền thưởng lúc còn ở bên Mỹ, nhưng cháu không chắc mình có làm nghề này được hay không. Nhiều khả năng là cháu sẽ làm việc trong ngân hàng hay là một việc gì đó.” Khi nói những lời này tim cậu gần như chùng xuống. Công việc cuối cùng trên thế giới mà cậu muốn gắn chặt đời mình vào là một việc bàn giấy chán ngấy, nhưng cậu cũng không chắc là có gì khác phù hợp với mình.
“Ồ, cuộc đời có biết bao nhiêu thứ mà ta muốn với tới,” ông Crowe nói, ném con cá vào giỏ và đậy nắp lại. “Cháu có thể muốn vơ vét hết tiền của mấy nhà đầu tư cho những kế hoạch hái ra tiền mà cháu ấp ủ. Hay cháu có thể nghĩ đến việc kiếm một cô vợ vào một lúc nào đó. Cháu có thể truy bắt kẻ nợ tiền của mình. Có hàng tá các lý do mà một người muốn săn tìm một ai đó. Và các nguyên tắc cơ bản đều như nhau.” Đảo cặp mắt dưới hàng lông mày rậm ri liếc nhìn Sherloch, ông Crow nói thêm: “Theo kinh nghiệm ta đã trải qua, thì bao giờ cũng có những tay giết người và tội phạm mà cháu sẽ gặp trong đời.” Ông giữ chặt chiếc cần câu và đánh vụt cái mồi nhử bay vòng qua đầu thành hình số 8 rơi xuống nước. “Rồi, sau khi mọi việc đã đâu vào đó xong, thì sẽ đến chuyện xả hơi với hươu, lợn rừng, và cá.”
Sau khi bắt được thêm hai con nữa, gỡ ra và ném vào giỏ, ông Amyus Crowe đặt chiếc cần xuống mũi ghe và vươn vai. “Chú nghĩ đến lúc đi về rồi, trừ khi cháu muốn tự tay làm thử?”
“Cháu biết làm gì với con cá bây giờ?” Sherlock hỏi lại. “Nhà chú và thím của cháu có một đầu bếp. Chẳng cần đến cháu phải lo cũng có người dọn cho ba buổi ăn sáng trưa chiều rồi.”
“Phải có ai đó bắt thú thì mới có cái dọn ra mâm được chứ.” Ông Crowe đáp. “Rồi sẽ có cái ngày mà cháu tự hỏi không biết lấy đâu ra bữa ăn tiếp theo.” Ông ta cười. “Hoặc cháu cũng có thể làm cho bà Eglantine đáng yêu kia phải ngạc nhiên khi mang về một con cá hồi béo đẫy để làm bữa tối đó.”
“Cháu sẽ nhét nó vào giường bà ấy,” Sherlock thầm thì. “Việc đó thế nào nhỉ?”
“Có lý đấy,” ông Crowe cười lớn, “nhưng mà thôi.”
Ông nắm lấy mái chèo và đưa con thuyền quay vào bờ. Sau khi buộc thuyền vào chiếc cọc đóng trên mặt đất, ông cùng Sherlock quay về ngôi nhà nhỏ của mình.
Con đường mòn dẫn họ lên một sườn dốc bao quanh hồ nước. Crowe cắm cúi đi trước, tay mang chiếc giỏ kết bằng liễu. Thân người đồ sộ của ông bước đi khẽ khàng một cách đáng ngạc nhiên. Sherlock theo sau, vừa mệt vừa chán.
Khi đến bờ rìa ở đỉnh dốc, phía trước trở nên bằng phẳng, không còn dốc đứng như đằng sau, Crowe ngừng lại để cho Sherlock bắt kịp.
“Một điểm nữa cần lưu ý,” ông Crowe vừa nói vừa vung tay chỉ xuống mặt hồ xanh biếc. “Nếu đi săn, thì đừng bao giờ có ý định dừng chân tại một chỗ như thế này, dù để ngắm cảnh hoặc để tìm chỗ nhìn cho rõ địa thế xung quanh. Cứ nghĩ chúng ta như bất cứ con thú nào trong rừng mà đứng chênh vênh trên rìa. Xa hàng dặm cũng còn bị thấy đấy.”
Trước khi Sherlock thốt ra được tiếng nào thì ông Crowe đã tiếp tục rảo bước, vừa đi vừa gạt đám bụi cây thấp. Sherlock thầm nghĩ không biết làm sao người đàn ông này thạo đường mà chẳng cần đến la bàn. Cậu muốn hỏi, nhưng lại thôi và tìm cách tự giải thích. Ông Crowe đi được là nhờ quan sát những thứ xung quanh. Mặt trời mọc đằng đông, lặn đằng tây, nhưng điều đó cũng không ích gì vì mặt trời giữa trưa đang rọi ngay trên đỉnh đầu. Nhưng mà có thực như thế không? Nghĩ một thoáng, Sherlock nhận ra rằng mặt trời chỉ thực sự rọi thẳng trên đầu vào giữa trưa tại một số nơi nào đó tại vùng xích đạo. Đối với một xứ ở bắc bán cầu như nước Anh, điểm gần nhất trên đường xích đạo sẽ nằm ở phía nam, cho nên vào giữa trưa mặt trời sẽ ở về phía nam của một điểm chiếu thẳng từ đỉnh đầu. Có lẽ đây là cách thức mà ông Crowe tính toán.
“Rêu thường mọc rậm ở hướng bắc của cây,” ông Crowe quay đầu lại nói. “Phía này râm mát hơn, cho nên cũng ẩm hơn.”
“Sao chú làm được như thế?” Sherlock kêu lên.
“Làm cái gì?”
“Nói được điều mà người khác đang suy nghĩ, rồi ngắt lời họ vào đúng thời điểm?”
“À,” ông Crowe cười lớn. “Có mẹo cả đấy, lúc khác ta sẽ giải thích.”
Sherlock quên bẵng thời gian khi họ đi xuyên qua rừng, nhưng rồi Crowe ngừng bước, cúi mình và đặt chiếc giỏ xuống.
“Chú thấy gì à?” cậu lên tiếng hỏi.
Sherlock cúi xuống bên cạnh Crowe. Trên nền đất mềm dưới một cái cây, cậu thấy một dấu móng nhỏ có hình trái tim.
“Có một con hươu qua lối này?” Sherlock thăm dò, cố nhảy sang suy diễn ngay dựa trên những gì mình thấy.
“Đúng vậy, nhưng nó đi theo hướng nào, nó già non ra sao?”
Sherlock nhìn kĩ dấu chân, cố mường tượng ra chiếc móng của con hươu nhưng đành chịu.
“Lối này?” vừa nói cậu vừa chỉ vào hướng có phần hình tròn của dấu chân thú.
“Hướng khác.” Ông Crowe chỉnh ngay. “Cháu đang nghĩ đến chiếc móng ngựa mà phần tròn của hàm thiết nằm ở phía trước. Còn phần nhọn của móng hươu thì luôn chỉ theo hướng nó đi tới. Con hươu này còn non. Cháu cứ dựa theo những hình xoang nhỏ nằm đằng sau dấu chân. Đó là do mấy cái móng huyền để lại.”
Ông nhìn quanh. “Nhìn đằng kia kìa,” ông nói, nghiêng đầu sang một bên. “Cháu có nhìn ra một con đường mòn nhỏ chạy xuyên qua các lùm cây và bụi cỏ không?”
Sherlock nhìn theo, ông Crowe nói đúng - có một đường mòn, rất mờ, những bụi cây nhỏ và cỏ bị đẩy dạt ra hai bên.
Cậu đoán nó chỉ rộng chừng hơn một thước.
“Mấy con hươu di chuyển cả ngày từ chỗ chúng rải ổ đến chỗ uống nước yêu thích, để tìm thức ăn,” ông Crowe nói, người vẫn còn cúi xuống. “Một khi chúng tìm được con đường an toàn là chúng cứ giữ mãi cho đến khi nào có cái gì đó làm cho chúng hoảng sợ. Nhưng theo cháu thì điều này có ý nghĩa gì?”
“Nếu không bị quấy rầy thì con mồi cứ làm theo thói quen chăng?” Sherlock thận trọng trả lời.
“Khá đúng. Hãy ghi nhớ điều này. Nếu cháu đang tìm kiếm một người ưa rượu chè, thì hãy đến kiểm tra các quán rượu. Nếu truy tìm người thích cá cược, hãy đến trường đua. Nếu có ai cần đi đâu đó, thì ta nên gặp tài xế hoặc nhân viên soát vé - hỏi xem họ có nhớ được người mà ta muốn tìm hay không.”
Ông Crowe đứng dậy, quơ lấy chiếc giỏ và cất bước đi xuyên qua các hàng cây. Sherlock đi theo, đưa mắt nhìn xung quanh. Nhờ ông Crowe vạch những điểm cần chú ý, cậu mới nhận ra một loạt các dấu chân khác nhau trên mặt đất: một vài dấu của hươu, kích cỡ khác nhau, một số khác chắc hẳn là của loài khác – có thể là lợn lòi, hay con lửng, cũng có thể là chồn. Cậu cũng thấy được những lối mòn chạy qua các bụi cây, có dấu các cây bụi và cỏ bị một thứ gì đó đẩy dạt sang hai bên khi di chuyển. Những gì trước đây hầu như vô hình bỗng chốc trở thành rõ ràng dưới mắt cậu. Giờ thì cũng cảnh đó nhưng lại có nhiều thứ hơn khi nhìn đến.
Phải mất đến nửa giờ họ mới tới được cổng trang viên nhà Holmes.
“Chú phải tạm biệt cháu ở đây thôi,” ông Crowe nói. “Sẽ tiếp tục vào ngày mai. Chú sẽ tìm thêm mấy thứ để chỉ về cách theo dấu và săn tìm.”
“Chú ghé vào chơi một lúc đi?” Sherlock mời mọc. “Cháu sẽ bảo chị bếp dọn trà, và nhờ người làm ruột mấy con cá cho chú.”
“Cháu quả là tử tế,” ông Crowe cười ồ lên. “Còn chú thì nhận lời ngay.”
Họ cùng rảo bước trên lối đi rải sỏi dẫn đến mặt tiền đồ sộ của trang viên nhà Holmes. Lần này Sherlock đi trước.
Cậu đẩy mạnh cửa trước vào nhà mà không gõ cửa.
“Bà Eglantine!” Sherlock gọi to.
Một dáng hình mặc đồ đen lướt ra khỏi bóng tối từ dưới chân cầu thang.
“Chào cậu chủ Sherlock,” bà quản gia trả lời, giọng khô như ngói. “Hình như cậu xem đây chỉ là quán trọ chứ không phải là nhà của chính gia đình mình.”
“Còn bà thì xem mình như bà chủ chứ không phải là người giúp việc,” Sherlock cự lại, giọng lạnh tanh nhưng trong bụng thì run. “Ông Crowe đây sẽ dùng trà buổi chiều với tôi. Bà lo chuẩn bị đi.” Cậu đứng chờ, không biết bà ta có làm theo lệnh của mình hay cộc lốc từ chối. Cậu có cảm giác là chính bà ta cũng không biết mình sẽ làm gì, nhưng sau một lúc, bà quản gia quay đi, hướng về phía nhà bếp, không nói không rằng.
Đột nhiên cậu cảm thấy không dằn được cái ý nghĩ táo bạo, muốn chọc tức người đàn bà đã gây đủ thứ khó chịu cho mình trong năm rồi.
“Ồ,” cậu nói thêm, tay chỉ về phía chiếc giỏ gai dưới chân ông Crowe, “và ông Crowe có câu được mấy con cá. Bà làm ơn bảo ai đó làm cá giùm cho ông ấy nhé.”
Bà Eglantine quay lại, với vẻ mặt có thể làm cho sữa đông lại và cừu thì sợ hãi đến mức phải đẻ non. Miệng bà ta mím lại như thể phải dằn cái điều đang muốn thốt ra. “Dĩ nhiên rồi,” cuối cùng bà nói, giọng rít qua kẽ răng. “Tôi sẽ cho người mang chiếc giỏ xuống dưới nhà. Tốt hơn hết có lẽ cậu cứ để nó ở đây và lên phòng khách đi.”
Bà ta dường như lỉnh ngay vào trong bóng tối.
“Cậu nên coi chừng người đàn bà này,” ông Crowe nói khẽ khàng. “Cứ nhìn thấy cậu là ánh mắt mụ ta xộc lên hung tợn.”
“Không biết vì lẽ gì mà chú thím cháu cứ chịu đựng mãi bà ta nữa.” Sherlock đáp lại. “Không hẳn vì bà ta là quản gia tốt. Gia nhân trong nhà khiếp sợ bà ấy đến mức làm cái gì cũng lóng cóng. Còn mấy cô phụ bếp hễ thấy bà ta là tay run lẩy bẩy, chén bát tuột khỏi tay ngay.”
“Đối tượng này đáng được điều tra thêm,” ông Crowe trầm ngâm. “Nếu, như cháu nói, mụ ta chẳng phải là quản gia giỏi thì phải có một lý do đặc biệt khác để giữ mụ ta lại, dù tính tình có quá quắt. Có lẽ chú thím cậu mắc nợ mụ ta hoặc gia đình mụ cái gì đó, nên phải trả nợ. Hoặc có lẽ mụ ta biết được chuyện gì đó mà gia đình cậu muốn giấu kín, thành ra mụ lên mặt và tự cho mình lên đời.”
“Cháu nghĩ là anh Mycroft biết,” Sherlock nói, nhớ lại lá thư anh trai gởi mình lúc mới đến trang viên Holmes. “Cháu nghĩ anh cháu đã cảnh báo cho cháu biết về bà này.”
“Anh cậu thì biết khối chuyện,” ông Crowe mỉm cười nói. “Còn thứ mà cậu ta không biết thì nói chung cũng không đáng phải biết.”
“Chú đã từng dạy cho anh ấy phải không?” Sherlock hỏi.
Ông Crowe gật đầu.
“Vậy chú cũng dẫn anh ấy đi câu à?”
Ông Crowe phá lên cười, xóa tan vẻ điềm tĩnh vốn có. “Chỉ có một lần,” ông thừa nhận, cố nén tiếng cười. “Anh của cậu không hợp với khung cảnh ngoài trời. Quả là lần độc nhất vô nhị ta mới thấy một kẻ đi bắt cá bằng cách lùa cá về hang của nó.”
“Anh cháu lặn xuống để theo bắt con cá à?” Sherlock vừa nói vừa cố mường tượng.
“Cậu ta nhảy xuống nước, cố chụp con cá. Khi ta kéo cậu chàng lên, cậu ta nói rằng sẽ không bao giờ nhấc chân ra khỏi mặt đất khô ráo, và nếu mặt đất khô ráo là mặt đường lát đá thì càng tốt hơn nữa.” Crowe ngừng một lúc. “Nhưng nếu cháu hỏi thì cậu ta vẫn dư sức nói cho cháu nghe về cách ăn mồi và cách bơi của mọi loài cá ở châu Âu. Cậu ta có thể kém về hoạt động thể chất, nhưng đầu óc thì sắc bén như túi kim của thợ may vậy.”
Sherlock cười to. “Chúng ta vào phòng khách đi,” cậu nói. “Trà có lẽ xong rồi.”
Phòng khách nằm sát sảnh chính, ngay phía trước tòa nhà. Sherlock gieo mình xuống chiếc ghế êm ái, còn ông Crowe thì chọn chiếc trường kỷ lớn tương xứng với cái thân thể đồ sộ của mình. Sức nặng của ông làm chiếc ghế kêu rắc rắc. Sherlock ước đoán ông Amyus Crowe có lẽ cũng nặng bằng Mycroft Holmes, nhưng xương và cơ săn chắc hơn.
Có tiếng gõ cửa nhẹ báo hiệu của cô hầu gái đang bưng đến một chiếc khay bạc. Trên khay là bình trà, hai chiếc cốc và đĩa, một bình nhỏ đựng sữa và một đĩa bánh. Có lẽ hôm nay bà Eglantine trở nên hào phóng khác thường hoặc một gia nhân nào đó muốn làm cho khách vui lòng.
Có thêm một phong bì nhỏ, màu trắng kèm theo.
“Ngài có một lá thư,” cô hầu nói nhưng mắt lại tránh nhìn Sherlock. Cô ta đặt chiếc khay xuống bàn. “Ngài có cần thêm gì khác không?”
“Không, cám ơn cô.”
Cô hầu gái vừa đi ra, Sherlock đã nôn nóng cầm lấy ngay chiếc phong bì. Chẳng mấy khi cậu có thư từ khi về trang viên Holmes, và khi có thư, thì hầu như đều từ…
“Mycroft!”
“Đó là thực tế hay suy diễn?” Ông Crowe hỏi.
Sherlock vẫy chiếc phong bì về phía ông Crowe. “Cháu nhận ra tuồng chữ và dấu bưu điện tại Westminster, gần văn phòng, nhà trọ và câu lạc bộ của anh cháu.”
Cậu bóc mở chiếc phong bì, gỡ phần nắp bị cục xi gắn dính.
“Chú nhìn này,” Sherlock giơ tờ giấy lên cao. “Giấy viết thư có tiêu đề của Câu lạc bộ Diogenes.”
“Kiểm tra xem dấu bưu điện đóng trên phong bì. Đóng lúc nào?” Crowe nói nhỏ.
“Lúc 3.30 chiều ngày hôm qua,” Sherlock trả lời, hơi hoang mang. “Sao ạ?”
Crowe chăm chú nhìn Sherlock. “Buổi xế của ngày làm việc mà anh cậu lại ngồi viết thư tại câu lạc bộ thay vì tại văn phòng? Cậu không thấy có gì bất thường về hành vi của anh cậu à?”
Sherlock suy nghĩ trong chốc lát. “Có lần anh ấy bảo là nhiều khi anh đi qua bên câu lạc bộ để ăn trưa. Chắc là anh ấy vừa dùng bữa trưa vừa viết thư, rồi nhờ hầu bàn đi gởi giúp. Bên bưu điện họ gom thư vào đầu buổi chiều, thư đến văn phòng lựa thư khoảng 3 giờ, sau đó được đóng dấu nửa tiếng sau đó. Điều đó đâu có gì đáng ngờ, phải không?”
Crowe cười. “Chẳng có gì đâu. Ta chỉ muốn chứng minh rằng có lô lốc các sự kiện mà ta có thể suy diễn từ một lá thư thông thường. Nếu dấu bưu điện là Salisbury thay vì Westminster, thì đây là điều bất thường, cần phải đặt thêm nhiều câu hỏi. Nếu cháu biết rằng anh mình không bao giờ ra khỏi bàn giấy trong ngày, thậm chí để ăn trưa – theo ta là chuyện khó có – nhưng giấy viết thư lại có tiêu đề của câu lạc bộ thì quả đúng là điều bất thường. Trong tình huống nay, cháu có thể ngờ rằng cậu ta vừa mất việc, hoặc bị vướng chuyện gì đó đến nỗi không đi làm việc được, hoặc ra về sớm.”
“Hoặc anh ấy chỉ lấy một ít văn phòng phẩm của Câu lạc bộ Diogenes để viết tại phòng làm việc,” Sherlock gợi ý.
Ông Crowe trông có vẻ bối rối. “Ta đoán rằng bao giờ cũng có câu giải thích phòng hờ.”
Sherlock lướt qua lá thư, càng đọc cậu càng muốn phát sốt với sự phấn khích đang tăng cao.
Sherlock của anh,
Anh viết vội cho em trong khi chờ người dọn món thịt nướng kèm với bồ dục hầm. Anh muốn làm cho xong trước khi quay lại văn phòng.
Anh tin rằng em vẫn khỏe, mấy vết sẹo từ những chuyến phiêu lưu mới đây của em sớm lành. Anh cũng mong rằng chú thím cũng khỏe, còn bà Eglantine quí hóa cũng đừng cau có quá mức.
Em sẽ vui khi nghe việc này, anh chắc thế, là mọi việc đã sắp xếp ổn thỏa để em có thể tiếp tục việc học hành tại trang viên nhà Holmes. Anh đoán rằng em cũng chẳng mấy bất ngờ khi được tin là không phải quay lại trường Deepdene nữa.
Ngài Amyus Crowe sẽ tiếp tục hướng dẫn em về cuộc sống thực tế cùng các hoạt động mang tính thể thao. Còn chú Sherrinford thì đồng ý lo dạy dỗ cho em về vấn đề tôn giáo và văn học, như vậy chỉ còn thiếu có môn toán. Anh sẽ cân nhắc việc này, và sẽ báo cho em biết khi anh có quyết định. Dĩ nhiên cái đích cuối cùng là để chuẩn bị cho em vào đại học trong vài năm tới. Sau đó chúng ta sẽ bàn việc em thích trường nào Oxford hoặc Cambridge.
Nhân tiện, sáng nay anh mới nhận được thư của cha. Chắc hẳn cha đã gởi thư này từ Ấn Độ ngay khi đến nơi, vì cha kể tóm tắt mọi thứ đã xảy ra trong suốt chuyến đi. Anh chắc rằng em muốn tự mình đọc thư của cha thay vì nghe anh kể. Nên anh mời em cùng dùng bữa với anh, đương nhiên, tại câu lạc bộ vào tối mai.
Nhờ em chuyển giúp anh lời mời đến ngài Crowe: anh muốn bàn với ông ta một số chi tiết về việc học hành của em. Chuyến tàu 9.30 sáng tại Farnham sẽ chở em đến Waterloo đúng 12 giờ.
Anh chờ gặp em ngày mai để nghe em kể mọi thứ từ khi anh em ta gặp nhau lần sau cùng.
Anh của em,
Mycroft.
“Có gì thú vị không?” Ông Amyus Crowe hỏi.
“Chúng ta sẽ đi London ngày mai.” Sherlock đáp, nhe răng cười.
CHƯƠNG 1
Tiến >>
Nguồn: TVE 4U
Được bạn: Mot Sach đưa lên
vào ngày: 13 tháng 2 năm 2025