- PHẦN MỘT
CHƯƠNG 1 - CHƯƠNG 2
- CHƯƠNG 3
- CHƯƠNG 4
- CHƯƠNG 5
- CHƯƠNG 6
- CHƯƠNG 7
- PHẦN HAI
CHƯƠNG 8 - CHƯƠNG 9
- CHƯƠNG 10
- CHƯƠNG 11
- CHƯƠNG 12
- PHẦN BA
CHƯƠNG 13 - CHƯƠNG 14
- CHƯƠNG 15
- CHƯƠNG 16
- CHƯƠNG 17
- CHƯƠNG 18
- CHƯƠNG 19
- CHƯƠNG 20
- CHƯƠNG 21
- CHƯƠNG 22
- CHƯƠNG 23
- CHƯƠNG 24
- CHƯƠNG 25
- PHẦN BỐN
CHƯƠNG 26 - CHƯƠNG 27
- CHƯƠNG 28
- CHƯƠNG 29
- CHƯƠNG 30
- CHƯƠNG 31
- PHẦN NĂM
CHƯƠNG 32 - CHƯƠNG 33
- CHƯƠNG 34
- CHƯƠNG 35
- CHƯƠNG 36
- CHƯƠNG 37
- CHƯƠNG 38
- CHƯƠNG 39
- CHƯƠNG 40
- CHƯƠNG 41
- CHƯƠNG 42
- CHƯƠNG 43
- CHƯƠNG 44
- CHÚ THÍCH
Ngôi nhà được xây dựng vào năm 1898 trên nền đất sét và kể từ đó đến nay, mé nhà phía Tây đã lún xuống đôi chút, khiến nước mưa cứ thế chảy qua ngưỡng cửa gỗ nơi cánh cửa vẫn đang còn ngự trị. Nước chảy ngang qua phòng ngủ, để lại một vệt ướt trên mặt sàn gỗ sồi, hướng về phía Tây. Nó chững lại một giây ở chỗ sàn trũng trước khi bị dòng nước phía sau xô đi và, hệt như một con chuột hoảng hốt, cun cút chạy về phía len tường. Từ đây, nước rẽ sang hai hướng, lần mò rồi chẳng hiểu thế nào lại luồn qua dưới len tường cho tới khi tìm thấy khe hở giữa đầu ván ốp sàn bằng gỗ và bức tường. Nằm lọt trong khe hở ấy là một đồng xu năm krone khắc họa chân dung bán diện của Vua Olav cùng con số 1987, năm trước khi đồng xu rơi ra khỏi túi của người thợ mộc. Giai đoạn đó đang là thời kỳ hoàng kim, nhu cầu xây dựng những căn hộ áp mái nhiều không xuể ập xuống đầu khiến người thợ mộc không buồn nhặt nó lại.
Chẳng mấy chốc dòng nước đã tìm được đường đi xuyên qua sàn nhà bên dưới lớp ván gỗ. Ngoài cái lần bị dột vào năm 1968 - cũng là năm mái nhà được lợp lại - ván sàn bằng gỗ vẫn vẹn nguyên như cũ, khô lại và co ngót đến nỗi khe hở giữa hai tấm ván gỗ thông trong cùng giờ đã rộng ra đến gần nửa xentimet. Nước rỏ xuống thanh xà bên dưới khe hở rồi tiếp tục chảy theo hướng Tây tới bức tường bên ngoài. Tại đó, nó ngấm vào lớp thạch cao và lớp vữa được nhào trộn từ một trăm năm trước, cũng là giữa mùa hè như thế này, dưới bàn tay của Jacob Andersen, người thợ hồ lành nghề và là bố của năm đứa con. Giống như bao thợ hồ ở Oslo thời ấy, Andersen đã tự tạo ra hỗn hợp vữa và thạch cao trát tường của riêng mình. Không chỉ có cách trộn vôi, cát và nước theo công thức độc đáo mà ông ta còn sử dụng hai nguyên liệu hết sức đặc biệt: lông ngựa và máu lợn. Jacob Andersen cho rằng lông và máu sẽ gắn kết thạch cao, giúp chúng thêm kiên cố. Trước những cái lắc đầu ngán ngẩm của đồng nghiệp trong nghề khi nghe kể về công thức ấy, Andersen phân bua rằng cách này không phải do mình tự nghĩ ra mà chính bố và ông nội ông ta ở Scotland ngày xưa cũng đã từng dùng lông và máu cừu để trộn. Dẫu không còn mang họ gốc Scotland mà thay bằng tên giao dịch, ông ta vẫn chẳng thấy có lý do gì để quay lưng lại với bí quyết được lưu truyền suốt sáu trăm năm qua của tổ tiên mình. Một số người trong nghề coi đó là việc làm vô đạo đức, số khác lại cho rằng Andersen đã liên minh với quỷ dữ, song phần lớn chỉ xem ông ta là trò cười. Có lẽ chính một trong những kẻ thuộc loại thứ ba ấy đã truyền đi câu chuyện bắt nguồn từ trong lòng thành phố Kristiania đang lớn lên từng ngày.
Có một người xà ích sống ở Grünerløkka kết hôn với cô em họ quê ở Värmland, sau đó hai vợ chồng chuyển đến căn hộ một phòng ngủ kèm phòng bếp trong một khu nhà tập thể ở Seilduksgata, công trình Andersen đã tham gia thi công. Bất hạnh thay, đứa con đầu lòng của hai người lại chào đời với mái tóc xoăn sẫm màu cùng cặp mắt nâu. Do cả hai vợ chồng đều tóc vàng, mắt xanh - và ông chồng trời sinh lại sẵn tính hay ghen - nên một đêm khuya nọ, ông ta đã trói chặt hai tay vợ sau lưng, lôi cô ta xuống hầm và dùng gạch chặn lối thoát. Tiếng kêu gào của cô vợ hoàn toàn bị nhấn chìm bởi những bức tường dày cộp quây kín lấy người phụ nữ bị trói, đứng đó ép chặt giữa hai mặt tường gạch. Có lẽ ông chồng cứ tưởng rằng cô ta rồi sẽ thiếu dưỡng khí mà chết, nhưng những người thợ hồ vẫn để lại lỗ hổng thông gió. Rốt cuộc, người đàn bà tội nghiệp đã dùng chính hàm răng của mình để phá tường. Cách này có thể đúng là hiệu quả thật, bởi lẽ người thợ hồ gốc Scotland kia đã dùng máu và lông, nghĩ rằng mình có thể tiết kiệm nguyên liệu vôi đắt đỏ trong hỗn hợp vữa, kết quả thu được chính là một bức tường rỗ tổ ong và chẳng mấy chốc đã sụp đổ dưới sức mạnh của hàm răng Värmland chắc khỏe. Thế nhưng tiếc thay, khát vọng sống mãnh liệt lại thôi thúc người đàn bà không ngừng cắn gặm những miệng đầy gạch vữa. Cuối cùng, cô ta không thể nhai, nuốt hoặc nhổ ra được nữa và rồi cát, sỏi cùng những mảnh đất sét rơi vào đã làm tắc khí quản của cô ta. Mặt cô ta tím tái, tim đập chậm dần, rồi cô ta ngừng thở.
Nói theo cách thông thường là cô ta đã chết.
Vậy nhưng truyền thuyết kể lại rằng, vị máu lợn còn vương trong miệng khiến người đàn bà bất hạnh ấy tin rằng mình vẫn còn đang sống. Sau đó cô ta lập tức giật đứt những sợi thừng đang trói chặt lấy mình, lao qua tường và lại bắt đầu bước đi như xưa. Trong số những cụ già sống ở Grünerløkka có vài người vẫn còn nhớ câu chuyện từ thuở ấu thơ kể về người đàn bà có cái đầu lợn đi lang thang với con dao trong tay để lấy đầu những đứa trẻ nào dám ra khỏi nhà lúc đêm khuya. Cô ta nhất định phải nếm thấy vị máu trong miệng mình để khỏi tan biến vào hư không. Hồi ấy chẳng mấy ai biết được tên người thợ hồ kia, còn Andersen thì vẫn ngày qua ngày miệt mài tạo nên hỗn hợp vữa đặc biệt của riêng mình. Ba năm sau, trong khi xây dựng tòa nhà mà lúc này dòng nước bị rỉ đang không ngừng tuôn chảy, Andersen đã sảy chân ngã từ trên giàn giáo xuống - để lại một gia tài vỏn vẹn có hai trăm krone và một cây đàn guitar. Mãi đến một trăm năm sau đó, những người thợ hồ mới bắt đầu sử dụng loại sợi nhân tạo giống như lông để trộn thêm vào hỗn hợp xi măng và các kỹ thuật viên tại một phòng thí nghiệm ở thành phố Milan mới phát hiện ra rằng những bức tường thành Jericho đã được gia cố cho thêm phần vững chãi bằng máu và lông lạc đà.
Tuy nhiên, phần lớn nước chảy ra đều không dồn về phía bức tường, mà lại chảy xuống dưới, vì nước, cũng giống như thói hèn nhát và tà dục, luôn tìm đến những nơi hạ đẳng nhất để trú ngụ. Mới đầu, nó bị hút trọn bởi tầng cách nhiệt gợn sóng chia thành từng mảng nhỏ chèn giữa các thanh dầm, nhưng nước không ngừng đổ về và chẳng mấy chốc, tầng cách nhiệt cũng ướt sũng. Nước rỉ qua đúng chỗ đó và thấm ướt tờ báo ra ngày 11 tháng Bảy năm 1898 với nhận định cho rằng giai đoạn nở rộ của ngành xây dựng có lẽ đã đạt tới đỉnh điểm, giới đầu cơ nhà đất bất chính chắc chắn sẽ phải đối mặt với thời kỳ khó khăn sắp tới. Bài viết trên trang ba nói rằng cảnh sát vẫn chưa thu thập được manh mối nào trong vụ án xảy ra vào tuần trước, một nữ y tá trẻ được tìm thấy đã chết trong phòng tắm do bị đâm nhiều nhát. Hồi tháng Năm, thi thể một cô gái khác bị sát hại theo thủ pháp tương tự cũng được phát hiện ở gần sông Akerselva, nhưng cảnh sát không cho biết giữa hai vụ án có mối liên hệ nào hay không.
Nước tràn qua tờ báo, len lỏi giữa những mảnh ván sàn và chảy men theo mặt trong của tấm vải sơn phủ trần phòng bên dưới. Vì tấm vải này vốn đã bị hư hại trong thời gian sửa nhà sau trận dột năm 1968, nên nước rỉ qua những lỗ thủng, tụ lại thành từng giọt lơ lửng cho tới khi trọng lượng của giọt nước khiến sức căng bề mặt không sao thắng nổi lực hấp dẫn nữa, và rồi chúng buông rơi từ độ cao 3,08 mét. Ở đó những giọt nước đáp xuống và kết thúc chặng đường quăng mình vào không trung. Hòa vào cùng những giọt nước khác.
Vibeke Knutsen rít mạnh điếu thuốc lá rồi phả khói qua ô cửa sổ để ngỏ trên tầng bốn của ngôi nhà tập thể. Đó là một buổi chiều ấm áp, không khí bốc lên từ lớp nhựa đường được mặt trời hun nóng ở sân sau, đưa làn khói tỏa về phía mặt tiền ngôi nhà sơn màu xanh lơ cho tới khi tan biến vào không trung. Phía bên kia mái nhà có tiếng ô tô chạy qua con phố Ullevålsveien vốn thường náo nhiệt. Nhưng giờ người ta đã kéo nhau đi nghỉ hết, khiến cả khu phố gần như vắng lặng hẳn. Một con ruồi đang nằm phơi bụng trên bậu cửa sổ, sáu chân nó giơ cả trong không khí. Nó nào đủ khôn ngoan để biết đi tránh nóng cơ chứ. Đầu kia căn hộ trông ra phố Ullevålsveien mát hơn ở bên này, nhưng Vibeke không thích quang cảnh nhìn từ bên ấy. Nghĩa trang Our Saviour. Chốn tụ hội của những người nổi tiếng. Nổi tiếng và đã chết. Ở tầng trệt có cửa hiệu bán “bia tưởng niệm”, giống như biển quảng cáo có viết, hay nói cách khác là bia mộ. Đây đích thị là “nhất cự ly, nhì tốc độ”.
Vibeke tựa trán lên ô kính cửa sổ mát rượi.
Cô đã từng vui mừng khi tiết trời chuyển ấm, nhưng niềm vui ngắn chẳng tày gang. Lúc này đây cô chỉ mong đến những đêm mát mẻ hơn bây giờ và phố xá cũng đông đúc trở lại. Từ sáng đến trưa hôm nay có đúng năm khách ghé thăm phòng tranh và sau giờ ăn trưa cũng chỉ thêm được mỗi ba người. Cô đã hút hết một bao rưỡi thuốc để giải sầu. Tim cô đập nhanh, họng đau rát, thực tế là Vibeke còn gần như mất giọng lúc sếp cô gọi điện hỏi han tình hình công việc. Ấy thế mà cô vừa về đến nhà và bỏ khoai tây vào nồi thì cơn thèm thuốc đã lại nhộn nhạo nơi dạ dày.
Vibeke cai thuốc lá từ hồi quen Anders hai năm trước. Anh ta không bắt cô làm thế. Ngược lại là đằng khác. Trong lần đầu gặp gỡ ở Gran Canaria, thậm chí anh ta còn hỏi xin cô một điếu. Để cho vui. Ngày hai người dọn về sống chung, chỉ một tháng sau khi trở lại Oslo, một trong những điều đầu tiên anh ta nói với cô là mối quan hệ này có lẽ sẽ chịu được việc phải hít chút khói thuốc thụ động, và rằng các chuyên gia nghiên cứu ung thư chắc chắn đã phóng đại nguy cơ mắc bệnh. Chẳng mấy chốc anh ta chắc sẽ quen với mùi khói thuốc ám trên quần áo họ. Và buổi sáng kế tiếp, cô đã đưa ra quyết định. Mấy ngày sau đó, trong lúc ăn trưa, khi anh ta bảo đã lâu rồi không thấy cô đụng đến thuốc lá, cô đáp rằng thực ra xưa nay mình cũng không quen hút thuốc. Anders mỉm cười rướn người qua bàn và vuốt má cô.
“Em biết sao không, Vibeke? Anh cũng luôn cho là thế đấy.”
Cô nghe thấy chiếc nồi sau lưng sôi sùng sục và đưa mắt nhìn điếu thuốc. Còn ba lần rít nữa. Cô rít hơi thứ nhất. Chẳng có vị gì cả.
Vibeke hầu như không thể nào nhớ nổi mình bắt đầu tái nghiện từ khi nào. Chắc là từ năm ngoái, khoảng thời gian anh ta bắt đầu xa nhà để đi công tác dài ngày. Hay là hồi bước sang năm mới nhỉ, khi cô bắt đầu phải làm thêm giờ hầu hết các buổi tối? Phải chăng cô hút để quên đi nỗi buồn? Cô có buồn không nhỉ? Họ chẳng bao giờ cãi cọ cả. Chuyện chăn gối gần như cũng bằng không, nhưng là vì Anders đã làm việc quá sức, anh ta nói với cô như thế, đặt dấu chấm hết cho bất kỳ cuộc đối thoại nào xoay quanh đề tài này. Nhưng cũng không hẳn là cô nhung nhớ gì chuyện ấy. Trong những lần hiếm hoi hai người cố quan hệ một cách đầy hời hợt, anh ta dường như thật sự chẳng để tâm. Vậy là cô hiểu ra mình cũng không cần thật sự để tâm làm gì.
Nhưng thực tế, họ không hề cãi nhau. Anders không thích to tiếng.
Vibeke nhìn đồng hồ: năm giờ mười lăm phút. Có chuyện gì với anh ta thế nhỉ? Thường thì những hôm nào phải về muộn, anh ta đều sẽ báo với cô. Cô dụi điếu thuốc, vứt ra ngoài sân sau rồi đi kiểm tra nồi khoai tây trên bếp. Cô lấy dĩa xiên vào củ to nhất. Sắp chín rồi. Có mấy mẩu nhỏ màu đen cứ bập bềnh chìm nổi trong nồi nước sôi sùng sục. Lạ thật. Thứ này là từ khoai tây hay từ nồi ra nhỉ?
Cô đang vắt óc cố nhớ xem lần gần đây nhất mình dùng cái nồi này để nấu món gì thì bỗng có tiếng cửa trước mở. Từ ngoài hành lang vọng vào tiếng ai đó thở hổn hển cùng tiếng hất giày ra khỏi chân. Anders đi vào bếp và mở tủ lạnh.
“Tối ăn gì?” anh ta hỏi.
“Rissole.”
“OK…?” Anh ta lên giọng ở cuối câu nghe như là chất vấn. Cô lờ mờ hiểu ra được ý anh ta muốn nói. Lại thịt nữa ư? Ăn cá thường xuyên hơn một chút không được sao?
“Thôi được,” anh ta nói bằng giọng đều đều, nghiêng người ngó cái nồi.
“Anh đã làm gì vậy hả? Người mồ hôi mồ kê nhễ nhại hết rồi kìa.”
“Tối nay không có buổi tập, nên anh đã đạp xe tới Sognsvann rồi vòng về. Trong nồi có cục gì thế này? ”
“Em không biết,” Vibeke đáp. “Em cũng chỉ vừa phát hiện ra thôi.”
“Em không biết ư? Chẳng phải ngày xưa em từng làm đầu bếp hay gì sao?”
Bằng một động tác nhanh nhẹn, anh ta nhón lấy một mẩu và bỏ vào miệng. Cô nhìn xoáy vào sau đầu anh ta. Nhìn mái tóc nâu thưa thớt từng quyến rũ biết mấy trong mắt cô. Nó được cắt tỉa rất gọn gàng với độ dài vừa phải. Cùng một đường rẽ ngôi. Ngày ấy trông anh ta mới bảnh bao làm sao. Giống diện mạo của một người đàn ông có tiền đồ. Tiền đồ đủ cho cả hai.
“Vị thế nào?” cô hỏi.
“Chẳng thế nào cả,” anh ta nói, vẫn cúi người phía trên cái nồi. “Vị trứng.”
“Trứng ư? Nhưng em đã rửa nồi…”
Cô đột ngột im bặt.
Anders ngoái lại nhìn. “Sao thế?”
“Có… một giọt nước vừa rơi.” Cô chỉ vào đầu anh ta.
Anh ta cau mày, đưa tay lên sờ phía sau đầu mình. Rồi cả hai đồng loạt ngả người, ngửa cổ nhìn lên trần. Có hai giọt nước nhỏ đang đọng lại lơ lửng trên tấm vải trắng trên đó. Vốn bị cận nhẹ nên Vibeke chẳng thể nhìn ra hai giọt nước ấy có long lanh hay không. Nhưng thực tế chúng không hề như vậy.
“Chắc là phòng Camilla bị ngập rồi,” Anders nói. “Em lên trên đó gọi cô ta đi, để anh báo với người quản lý nhà.”
Vibeke căng mắt nhìn lên trần. Rồi lại cúi nhìn những mẩu nhỏ trong nồi.
“Lạy Chúa tôi,” cô khẽ thì thào, cảm thấy tim mình lại đang đập dồn trong lồng ngực.
“Giờ là gì nữa thế?” Anders hỏi.
“Anh đi gọi quản lý đến đây rồi cùng ông ta lên phòng Camilla đi. Em sẽ báo cảnh sát.”
PHẦN MỘT
CHƯƠNG 1
Tiến >>
Nguồn: TVE 4U
Được bạn: Mot Sach đưa lên
vào ngày: 19 tháng 3 năm 2025