- MỞ ĐẦU
- PHẦN MỘT – BETH - Chương 1
- Chương 2
- Chương 3
- Chương 4
- Chương 5
- Chương 6
- Chương 7
- Chương 8
- Chương 9
- Chương 10
- Chương 11
- Chương 12
- Chương 13
- Chương 14
- Chương 15
- Chương 16
- Chương 17
- Chương 18
- PHẦN HAI - BETH - Chương 19
- Chương 20
- Chương 21
- Chương 22
- Chương 23
- Chương 24
- Chương 25
- Chương 26
- Chương 27
- Chương 28
- Chương 29
- Chương 30
- Chương 30 (tt)
- Chương 31
- Chương 32
- Chương 33
- Chương 34
Trong Sâu Thẳm Tâm Hồn
dịch giả: nguyễn thị tuyết nga
MỞ ĐẦU
nguyên tác: the deep end of the ocean
Một câu chuyện xúc động với cảm giác hồi hộp của một cuốn tiểu thuyết ly kỳ, chạm đến nơi lắng sâu nhất của tình gia đình thiêng liêng gắn bó.
- Tạp chí People
MỞ ĐẦU
Tháng Mười Một, 1995
Tất cả là mười năm, mười năm tròn, từ buổi sáng tháng Tám nóng như thiêu đó khi Beth bỏ cái phong bì đầy những hình vào ngăn kéo cho đến buổi chiều thu lành lạnh khi cô lấy nó ra đặt từng tấm một trên bàn làm việc của mình.
Thật vậy, mười năm và biết bao thay đổi. Mùa hè vừa qua đã đánh dấu một năm tròn kể từ khi Beth biết những gì đã xảy ra cho Ben, con trai cô. Và nếu cô tính cả chập chùng những hình ảnh của tất cả các diễn biến sau đó thì thật ra phải là gần mười một năm. Chỉ mới cách đây vài tuần thôi, vào tháng Mười, một câu truyện với cái tít “Phần kết cho Ben” đã xuất hiện trên trang nhất tờ USA Today - một nỗ lực trễ tràng cả “một năm sau” dựa trên vài lời trích đã xưa lắc xưa lơ từ vài người ít ỏi vẫn muốn trả lời cho báo giới. Nhưng đó không phải là câu chuyện gợi cho Beth nhớ đến mấy bức hình.
Chỉ đơn giản là một sáng nọ cô thức giấc và biết. Cô muốn nhìn thấy chúng.
Ngày hôm đó trời mưa suốt, một ngày tháng Mười Một u ám lạnh lẽo. Đã nhiều năm nay mưa vẫn làm Beth sợ, khiến cô phải tập trung vào một loạt những công việc quen thuộc hằng ngày. Nhưng hôm đó thậm chí mưa cũng không ngăn cản cô được. Có thể nói là cô đang vội, như thể việc nhìn vào mấy tấm hình đó sẽ đặt một dấu chấm hết vào cuối một câu đã được viết thật dài trên trang giấy.
Beth đặt mấy tấm hình xuống, chỉ có mười sáu tấm - một cuộn phim ngắn, vì Pat đã dùng cái máy chụp ảnh Instamatic nhỏ nhắn rẻ tiền đó, cái máy ảnh luôn làm Beth xấu hổ. Cô úp chúng xuống, giống như một phụ nữ già ngồi chơi xếp bài một mình nơi cửa sổ.
Rồi cô nhắm mắt lại và sờ vào từng tấm một.
Nó không rung lên. Không có chút điện áp nào. Cô chỉ cảm nhận được đó là giấy Kodak, thật láng với một lớp bụi mỏng. Chẳng có gì huyền bí. Beth thở phào nhẹ nhõm. Tất cả những năm tháng đó. Dấu niêm phong vẫn còn nguyên, giống như những mép giấy vẫn dính vào nhau, với dấu mực đã hoen mờ hiển thị ngày tháng trên đó, một lời tiên tri thật đáng kinh ngạc. Ngày mùng ba tháng Sáu, và cái năm. Mùng ba tháng Sáu, một ngày thứ Bảy, vì Pat đã bỏ cuộn phim ở tiệm rửa ảnh vào đúng ngày cô đi dự buổi họp lớp. Khi anh nhớ ra để đi lấy ảnh thì đã là cuối mùa hè đầu tiên, Pat vừa đi vào nhà vừa khóc nức nở và đưa chúng cho Beth, như thể anh mong cô sẽ ôm lấy anh, an ủi anh bằng một cách nào đó để có thể chịu đựng được cái chứng tích ấy.
Thay vì thế, cô chỉ ép cái phong bì đựng ảnh thật chặt giữa hai bàn tay rồi đem chúng đến bàn làm việc của mình. Beth chưa hề biết chính xác tại sao, nhưng cứ như thể việc cô luôn biết vị trí của những bức ảnh đó là điều quan trọng lắm, dù đôi khi nó cũng làm cô rất khó chịu. Ví dụ có những lần Beth thoáng thấy chiếc phong bì khi cô mở ngăn kéo ra để lấy mấy cái kẹp giấy hay mấy tờ nhãn có địa chỉ của cô. Beth làm việc đó thật nhanh, như ngày xưa cô luôn phải hít một hơi thật sâu trước khi chạy qua bức tranh của Goya vẽ Kronos đang trệu trạo nhai một đứa bé mà không hiểu vì sao bà ngoại Kerry của cô cứ treo mãi trên tường cầu thang. Lần nào cô cũng có chính xác cái cảm giác ngộp thở đó khi cô đóng ngăn kéo lại để không nghĩ đến cái hình ảnh gớm guốc kia nữa.
Nhưng đôi khi cô vẫn nhìn cái phong bì, và vài lần cô còn thật sự lấy mấy ngón tay phủi bụi cho nó nữa. Và khi họ đã chuẩn bị hành lý xong xuôi để đi Chicago thì Beth còn cố ý bước đến ngăn kéo như thể cô sẽ lấy những bức ảnh đó ra ngắm.
Nhưng cô đã không làm thế. Lúc đó cô thấy còn quá sớm.
Quá sớm để ngắm, quá sớm để vứt chúng đi.
Và còn những vật dụng khác của Ben nữa, những thứ mà Beth đã dần dà thu thập đủ can đảm để vứt đi hay gói lại đem cất. Vào những ngày mưa, những ngày ngột ngạt, cô thậm chí đã đập vỡ tan tành vài món trong những vật dụng đó - một hộp nhạc, một khung đựng hình bằng gốm được trang trí với những khối gỗ xinh xinh dành cho trẻ nhỏ.
Cô chưa từng nghĩ mình sẽ làm thế với những tấm ảnh.
Xét cho cùng thì Beth là một nhiếp ảnh gia; đối với cô những bức ảnh là những lá bùa. Nhưng cô cũng có cảm giác rằng đến một lúc nào đó cô sẽ yêu quý những bức ảnh, đặc biệt là bức cuối cùng trong cuộn phim, với cái hàng hiên nhà cô. Bước chân đơn giản của thời gian, hay tôn giáo, hay sự nhẫn nhục, sẽ biến nó thành niềm vui ngọt ngào lẫn đắng cay của cô, một bức ảnh của Ben lần cuối cùng cô thấy thằng bé - à, cũng không phải lần cuối cô thấy nó, mà là lần cuối cô thấy nó đúng với bản chất của nó, thằng con trai đơn giản, đang hớn hở tươi cười, đứa con không bao giờ xuất hiện trong những giấc mơ của cô, dù cô thường vừa khóc vừa cầu xin để được thấy nó, với ý nghĩ rằng ít nhất thì cô cũng không phải sợ nó trong giấc ngủ của mình. Và vì thế, một ngày nào đó, có lẽ khi cô gần đất xa trời và biết chắc rằng mình sẽ nhanh chóng bị lãng quên, sẽ không phải kéo lê cuộc đời thêm nữa, cô mới muốn ngắm những bức ảnh đó thường xuyên, có lẽ là hằng ngày.
Vì thế cô đã muốn giữ chúng luôn bên mình. Nếu không cô sẽ mất chúng. Chỉ vài tuần sau buổi họp lớp, cô nhận ra ngay rằng mình bắt đầu đánh mất mọi thứ rất dễ dàng, chìa khóa, ngân phiếu, tiền nong cứ tuột khỏi tay cô như thể chúng có cuộc sống sinh học riêng vậy. Trong bếp, khi mở túi đựng thực phẩm ra hay khi xếp quần áo để đem bỏ giặt, Beth thường đứng đờ ra mà không thể nào nhớ được túi nào là bột ngũ cốc hay cái nào là khăn trải giường. Cô dần phải chấp nhận đó là một dị tật suốt đời sau một tai nạn.
Chỉ khi nhìn lại tiến trình của nó thì Beth mới có thể thấy sự khiếm khuyết của mình là một chọn lựa chủ tâm, không phải một màn sương tạm thời sẽ mau tan biến khi cô hồi phục trở lại và nhìn mọi việc rõ ràng hơn. Sự khiếm khuyết đó là do cô tự tạo ra, từng bước từng bước một. Cô buộc mình phải nhớ lại những lề thói học đường đã phôi pha, và chỉ cần một kỷ niệm về Ben, hay về ngày hôm đó, cũng có thể phá tung được những vỏ bọc bên ngoài.
Beth biết mình không thể chịu đựng được những suy nghĩ đó; và không thể hồi phục như xưa mà không nhớ về chúng. Vì thế giờ đây khi nhìn lại, dường như cô đã chọn lựa để không hồi phục. Thay vào đó, cô cố sống trong tình trạng hiện tại quanh cái miệng núi lửa mỏng manh, di chuyển thật nhẹ nhàng và tránh những điều đối với cô chẳng khác gì một trận tuyết lở.
Beth đã cố giải thích với chồng cái trận tuyết lở đó và nhu cầu phải xua tan nó đi nhưng anh vẫn không hiểu được.
Cô đã gắng hết sức và càng cố thì càng giống như một kẻ ngốc khi nói cho anh biết về những người mắc bệnh đó - hội chứng Korsakov - căn bệnh chia nhỏ trí nhớ ra thành nhiều khoảng thời gian. Những bệnh nhân như thế, phần lớn là những người nghiện rượu, có thể đi gặp bác sĩ hay một nhân viên công tác xã hội và, trong nhiều phút, nói chuyện rất thông minh về thời tiết, về sức khỏe của họ, những câu chuyện trên trang nhất của một tờ báo đang trải ra trên bàn làm việc. Nhưng nếu vị bác sĩ hay người nhân viên nọ rời khỏi phòng, thậm chí chỉ một phút thôi, thì những nạn nhân của hội chứng Korsakov sẽ không nhớ họ đã từng gặp một người nào như thế cả. Và quá trình tự giới thiệu sẽ phải lặp đi lặp lại nhiều lần.
Beth nói với chồng rằng điều đó gần giống cái cung cách cô cảm nhận - thật ra là cung cách mà cô ao ước được cảm nhận. Một phụ nữ trông gần như bình thường với bất cứ ai không thể thấy chiếc công tắc sau lưng cô. Nhưng Pat, người đã chứng kiến việc cô thành một người vợ và người mẹ rôbô, lại cho rằng nỗi đau buồn của cô là phi lý. Pat đau lòng về Ben như bất cứ một người bình thường nào, như thể họ mất đứa con trai nhỏ vì bị bệnh ung thư hay vì sự lây lan nhanh chóng của một căn bệnh xưa như trái đất nào đó, bệnh bại liệt hay bệnh bạch hầu. Theo thời gian, Pat trải qua những “giai đoạn” đau buồn, gần như theo cách được mô tả trong những cuốn cẩm nang của các nhóm trị liệu tâm lý.
Beth không thể làm như thế được. Đối với cô nó cũng giống như tiến trình bất khả thi khi cắt xoẹt mái tóc suôn thẳng của mình đi rồi chờ đợi nó sẽ mọc ra loăn xoăn.
Beth cố giải thích với Pat rằng so sánh cảm nhận của cô về Ben với cái kiểu đau buồn đó thì cũng giống như so sánh một máy bay hai tầng cánh với một con chuồn chuồn.
Đau buồn, Beth biết chứ. Khi Beth mười tám tuổi, mẹ cô mất vì một loạt các bộ phận trong cơ thể bà không hoạt động được nữa, và khi bà có một u nang trong thận thì một loạt các tai biến bắt đầu xuất hiện làm mẹ cô tiến dần đến cái chết với một tốc độ phi mã để rồi chấm dứt vào ngày bà được xe cứu thương đưa về nhà sau bữa điểm tâm, và lại phải ra đi bằng xe tang sau bữa ăn tối. Thật quá khủng khiếp, giống như một cú lật tàu, một đòn thô bạo vào cuộc đời Beth.
Nhưng đó không phải là lỗi của cô.
Beth đã cố làm hết sức mình để chiến đấu với khối u độc hại đó trong quả thận của mẹ cô.
Mất mẹ đã là một nỗi đau rất thường trực, rất thân quen, không phải một chuyến đi đến gần với trận tuyết lở. Nếu cô dám đối diện với những xúc cảm thật của cô về việc bị mất Ben, nếu cô dám đối diện với những xuẩn ngốc, thiếu sót và sự thật rằng mọi thứ quan trọng trong cuộc đời đều được quyết định thật chóng vánh và không thể xoay chuyển được thì Beth biết một điều gì đó sẽ xảy đến với cô. Và chính nỗi đau lớn lao không thể chịu đựng nổi đó, chính việc khép chặt tâm hồn vẫn mong chờ được sản sinh ra trật tự và kế hoạch, luôn làm cô sợ hãi.
Cô không thích điều đó chút nào, những chuyển động nho nhỏ của đá làm cô giật mình, khiến cô đi từ phòng này sang phòng khác, đau đớn, hoảng sợ át mất niềm khát khao. Hình ảnh của thằng bé trong cái hộp, hay trong nhà mồ. Tim cô quặn thắt khi tên nó xuất hiện trong trí cô. Cái tên Ben gọn lỏn của nó.
Và rồi, trừ khi một người nào có sức thuyết phục như Ellen hay Candy chẳng hạn ở đó để định hướng lại cho cô, không thì Beth sẽ bắt đầu luống cuống viết lại toàn bộ ngày hôm đó, kết nối những lối vào với ngõ ra, và toàn bộ các yếu tố của câu chuyện, chắp vá lại cuộc đối thoại như thể cô là một nhà văn có thể điền đầy đủ vào những lời thoại còn thiếu trong các truyện tranh. Cùng lúc đó, phía trên cô là tiếng ầm ầm báo điềm xấu, là những tảng băng trượt nghiêng. Beth sẽ lê bước nhanh hơn, và không thể nào cưỡng lại được cố gắng tưởng tượng ra một cách để van xin được lùi lại mười phút, có lẽ bốn phút, đủ lâu để đi trở lại chiếc xe đẩy hành lý, nơi Vincent đang đứng, rên rỉ và cựa quậy, để đưa Ben về lại quầy đăng ký khách sạn với mình. Hay thậm chí cứ để cho những khoảnh khắc trượt sâu hốt hoảng đó xảy ra, nếu cần phải thế, vì sự ăn năn, nhưng cũng cho cuộn băng đó quay ngược lại thật nhanh để thấy Ben đang đi ngược về phía cô, từ giá để báo hay từ cái cửa xoay, hay bất cứ nơi nào nó đến trước tiên - các giả thuyết thì luôn thay đổi. Đi trở ngược lại về phía cô, lao vào vòng tay cô, cái bụng phệ của nó chạm vào hai bàn tay cô, tim nó đập thình thịch như khi nó sợ hay hoảng hốt - đập mạnh để cô có cảm giác như đang chạm được vào nó giống như tim của Road Runner trong phim hoạt họa sau khi nó đã khôn ngoan qua mặt được con chó sói - một Ben, thơm mùi nước dâu và mùi xà bông Irish Spring, và nếu nó nóng thì nó có mùi như cái bọc tay lái bằng cao su của chiếc xe đạp vì nó còn quá nhỏ chưa thật sự có các hoóc - môn. Cô thường cảm thấy mình “đét đít” nó; cô đã từng đánh nó, trong những lần tảng đá đó trượt xuống cô vẫn tự nhận với mình như thế, chỉ một lần thôi, thật mạnh, và đã cảm nhận được cái quần soọc bằng vải jean mòn xơ xác nó thích nhất dưới tay cô. Cảm nhận được cái mông tròn nho nhỏ, chắc nụi như thể được bơm nước vào dưới da của nó.
Được cảm nhận Ben. Một cu Ben an toàn.
Chính cái cảm giác hiện hữu rõ ràng đó - luôn hiện hữu cùng lúc với sự thiếu vắng, như nóng đối chọi với lạnh - đe dọa sẽ phá tan toàn bộ mọi thứ. Và đến những lúc như thế thì Beth phải oằn mình lên để ngăn cái cảm giác ấy lại.
Đối với những biên tập viên đồng nghiệp của cô, đôi khi thậm chí đối với gia đình Beth nữa, kết quả của tất cả những điều đó trông như một thời kỳ dũng cảm chịu đựng nghịch cảnh. Và quả đúng như vậy, Beth rất cảm kích rằng sự khiếm khuyết của cô, như lòng can đảm chẳng hạn, là một ơn huệ. Nhưng chỉ một mình cô hiểu được những bất lợi. Cô biết rằng trong một khoảng thời gian dài cô không thật sự “thương” hai đứa trẻ, dù cô rất cẩn thận đối xử tử tế với chúng và đôi khi cũng chú ý đến chúng nữa. Cô chắc rằng đặc biệt là Kerry, đứa con nhỏ không biết gì về câu chuyện quá khứ của
Beth, chẳng thấy có gì khác biệt nơi cô.
Nhưng Vincent thì có. Đặc biệt vào những tối khi Beth đến trường để đón nó, cô thường quên mình đang ở đâu và tại sao lại phải ở đó. Rốt cuộc, khi cô đến nơi, người đầm đìa mồ hôi thì Vincent đang đứng chờ sẵn ngoài cổng trường, tay đang nhồi quả bóng trong đêm tối dần buông, và nhìn cô khinh bỉ ra mặt đến nỗi cô không còn biết làm gì khác ngoài nổi khùng lên.
Tuy nhiên, nói chung thì mọi việc vẫn ổn. Rốt cuộc thì cô đã từ bỏ những gì để bảo vệ chính bản thân mình và hai đứa con còn lại của cô không bị hành hạ hay tệ hơn nữa chứ? Vài năm ít ỏi kỳ lạ của một cuộc đời bị soi mói ư?
Một vụ trao đổi quá công bằng.
Vì thế, khi cô lật bức ảnh đầu tiên lên - dù lúc ấy Beth nhận thức rất rõ rằng những hình ảnh đó không còn làm cô sợ hãi được nữa - cô vẫn cảm thấy cơn chấn động nhỏ ấy, và cả sự thôi thúc được chạy thoát khỏi trận đất lở.
Khi dằn được cơn thôi thúc ấy xuống, Beth chợt nhận thấy những gì bấy lâu nay cô tìm kiếm từ các bức ảnh, đặc biệt là bức cuối cùng, được chụp ngay trước khi cô lên đường đi dự cuộc họp lớp. Cái lý do thực sự cô đã không muốn vứt chúng đi.
Cô nhận ra mình đang tìm kiếm điều gì, và cô thấy rằng nó không hề hiện diện.
Chẳng có ở bất cứ bức ảnh nào trong số đó - trong bức ảnh Vincent đang câu cá tại Terriadne, hay trong bức Ben đang cầm bình sữa cho Kerry bú. Đặc biệt trong bức chụp trước hiên nhà, bức xấu nhất của cuộn phim, thật ra chỉ được dự định để chụp mấy bụi tử đinh hương Pat đã trồng, còn cô và lũ trẻ chỉ là những yếu tố tô điểm cho cái chiến thắng về nghề làm vườn của Pat mà thôi. Tuy nhiên, nó đã trở thành bất tử. Beth còn nhớ lời chồng cô đã mắng Vincent vì cứ cựa quậy mãi.
Nhưng thật ra, bây giờ Beth thấy chính Ben mới là đứa không chịu đứng yên.
Nếu gặp chắc cô đã không nhận ra nó được. Cô đã không còn nhìn thấy cái hình ảnh xưa cũ ấy của đứa con trai ba tuổi kể từ thời điểm đó, và thật ra nó là hình ảnh của một đứa bé mà cô chưa từng thật sự hiểu. Không phải cu Ben của cô. Mà là một cậu bé Ben cô chỉ vừa gặp.
Cô nhìn bức ảnh thật chăm chú và ước gì mình có được cái kính lúp tốt của một nhiếp ảnh gia. Có cả Jill, cô cháu họ mười chín tuổi của Pat, lúc đó đang sống với họ, vừa đi học, vừa giúp họ chăm sóc công việc nhà, đang đeo máy ảnh và túi xách của Beth. Một Jill tóc dài trông giống như một cô gái hippie nhỏ nhắn tươi cười. Có cả Kerry, một gương mặt trẻ thơ nhỏ xíu bên trên cái áo đầm xanh đỏ có chiếc thuyền vàng. Lúc đó tóc Vincent vẫn còn hoe hoe. Beth không thể nhớ được đứa con trai đã trưởng thành của cô với mái tóc nâu dày rối bù, và cứng như lông gấu, lại từng có một mái tóc hoe hoe vàng.
Nhưng gương mặt của Ben lại không rõ nét.
Cô đã chuẩn bị tinh thần để nhìn gương mặt ấy từ đáy ngăn kéo như người sắp nhận bí tích thánh thể, nhưng... cô không thấy được mấy. Cô thấy những chi tiết - hai cánh tay đầy tàn nhang, đôi chân dài và rắn chắc dù lúc đó nó vẫn chưa đến tuổi đi học. Nhưng gương mặt nó... nổi bật nhất là cái miệng hé mở của nó. Nó đang nói. Nhưng cô không thấy rõ nét mặt nó. Không có một thông điệp nào trên đó cả. Thậm chí giờ đây khi cô đã đổi thay quá nhiều về mặt sinh học cũng như đã đánh mất tất cả các đức tin, cô vẫn nhận ra rằng dù qua bao thăng trầm, cô vẫn mong đợi cái thông điệp đó.
Beth đã là một nhiếp ảnh gia báo chí kiêm biên tập ảnh hành nghề tự do từ thời đại học. Khi cô biên tập, bị ảnh hưởng bởi ý kiến của các học giả, cô thường thấy nhiều bức ảnh chụp những người sau này sẽ gặp rắc rối. Những người lính mày râu nhẵn nhụi mặc quân phục. Những gia đình nhập cư đứng nơi thành tàu, quần áo lôi thôi lếch thếch, hành lý dưới chân. Những người chăn bò. Những phi công.
Đôi khi cô nghĩ trong những hình ảnh hỗn độn đó cô thấy một dấu hiệu, một sự báo trước về một bất hạnh sắp xảy ra. Cô cho rằng vẻ mặt của những người ấy chứa đựng các manh mối. Một sự tổn thương ư? Một thông điệp về sự ra đi thể hiện trên vân ảnh ư? Để kiểm chứng cho lý thuyết của mình, cô đã từng đưa một bức hình cho Pat, một bức hình cũ của một thuyền trưởng có một nghề nghiệp rạng rỡ bị chết chìm trong một chuyến du hành tham quan thường lệ vào một ngày đẹp trời nắng ấm. Cô đã hỏi Pat: “Anh không thấy người đàn ông đó đã bị ‘kết án’ à?”.
Và Pat đã kiên nhẫn giải thích cho cô rằng cô quá điên rồ, không ai từng có một linh cảm về một bi kịch như thế cho đến sau khi nó xảy ra cả; những câu chuyện thấy trước đó chỉ là niềm ủi an cho những đầu óc nhu nhược mà thôi, những điều mà bà cô Angela thường nhắc đến nếu một đứa bé bị sinh ngược, hay điện thoại reo hai lần rồi ngưng bặt. “Thế em có thể thấy trên gương mặt của tổng thống Abraham Lincoln khi còn là một luật sư trẻ rằng ông sẽ thành tổng thống à? Rằng ông sẽ bị ám sát à?”
“Đúng thế. Em có thể thấy được,” Beth đáp.
“Em cũng thấy được gương mặt của anh chàng Eric trong bức ảnh đăng trên báo, anh chàng mà em gái anh học chung trong lớp học âm nhạc ấy, rằng anh ta sẽ bị xe tải chở hàng nghiến chết trên đường đến dự lễ tốt nghiệp à?”
“Đương nhiên rồi,” cô đáp và thắc mắc không hiểu làm thế nào Pat lại không thấy được thông điệp đó.
Tuy vậy Pat chỉ thở dài và gọi cô là “người Ai-len khổ hạnh”, một máy đo thảm họa trong nhà, sẵn sàng báo động bất cứ lúc nào.
Nhưng Beth đã từng tin tưởng những điều như thế rồi. Những dấu hiệu và các điềm báo tai họa, giống như nước chảy ngược chiều kim đồng hồ xuống một lỗ thoát nước trong bồn rửa chén trước khi trận động đất xảy ra. Năm mười bảy tuổi, cô tin rằng tránh được tất cả các đèn đỏ giữa đường Wolf và Mannheim thì đồng nghĩa với việc khi về nhà mẹ cô sẽ nói rằng Nick Palladino vừa mới gọi điện đến. Cô tin, nếu không vào Chúa thì cũng vào các thánh, những vị dù gì cũng từng là con người thật sự. Cô có cả một câu chuyện đời, một cuộc sống với những may mắn, ước mơ và các linh cảm.
Vậy mà tất cả đã đổ sụp xuống như những quân bài đôminô trong cơn gió mạnh vào cái ngày Ben biến mất.
Không hề có một cảnh báo nào. Thậm chí chẳng bao giờ có, dù nhỏ nhất.
MỞ ĐẦU
Tiến >>
Đánh máy: Ct.Ly
Nguồn: NXB TRẺ
VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 4 tháng 3 năm 2019