- CHƯƠNG MỘT
- CHƯƠNG HAI
- CHƯƠNG BA
- CHƯƠNG BỐN
- CHƯƠNG NĂM
- CHƯƠNG SÁU
- CHƯƠNG BẢY
- CHƯƠNG TÁM
- CHƯƠNG CHÍN
- CHƯƠNG MƯỜI
- CHƯƠNG MƯỜI MỘT
- CHƯƠNG MƯỜI HAI
- CHƯƠNG MƯỜI BA
- CHƯƠNG MƯỜI BỐN
- CHƯƠNG MƯỜI NĂM
- CHƯƠNG MƯỜI SÁU
- CHƯƠNG MƯỜI BẢY
- CHƯƠNG MƯỜI TÁM
- CHƯƠNG MƯỜI CHÍN
- CHƯƠNG HAI MƯƠI
- CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT
- CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI
- CHƯƠNG HAI MƯƠI BA
Trên chuyến xe đò vùn vụt theo gió ngược chiều đưa Thể Hà ra vùng duyên hải, xa nơi chôn nhau cắt rún, xa quê ngoại thân yêu biết bao nhiêu là kỷ niệm lúc thiếu thời. Cái thuở nàng còn mặc áo bà ba trắng, quần đen, đội nón vải, chơn mang đôi guốc vông vẽ chim, cò, hoa, bướm, sơn tím, sơn vàng đi lẹt đẹt, theo đám học trò tiểu học thơ ngây trên lối đi tráng xi-măng vào cổng trường.
Hôm nay Thể Hà trở ra Vũng Tàu, nàng về thăm ngôi biệt thự khiêm nhường được xây cất dưới chân đồi nhìn xuống Bãi Giữa, có người còn gọi là Bãi Dâu. Bãi biển nầy là nơi du khách đến ngắm cảnh hơn là tắm như Bãi Trước hoặc Bãi Sau. Vì Bãi Dâu triền dốc sâu, có nhiều đá ngầm và nước xoáy.
Đó là ngôi biệt thự Xuân Hà nằm trên mảnh đất trống, sau nhà có trồng dăm cây ăn trái. Vào mùa mảng cầu chi chít đầy trái, phải dùng cây nạng chống cho nó không bị gãy, bị tét nhánh, vì trái quá sai, nặng oằn, nhánh cây mãng cầu dòn không sao chịu nổi. Ở cuối vườn, bên trái có mấy bụi chuối già lúc nào cũng trổ buồng. Vừa ăn xong buồng nầy thì buồng kia tới lứa, nên nhà ít khi mua chuối già chín bán ở chợ. Góc vườn bên phải rậm rạp những bụi mía thâm dịu. Vỏ mía màu tím sậm, lóng mía dài suông đuột. Ngày xưa mấy bụi mía còi cọc, khẳng khiu, đốt nào cũng có sâu. Bởi từ ngày Thể Hà dọn về đây, gia đình nàng còn có bà Châu má chồng của nàng, và bà Hai Hân là cô ruột của nàng. Bà Hân năm nay cũng trên năm mươi tuổi, từ nhỏ cho đến bây giờ bà vẫn chưa có chồng. Bà Châu và bà Hân thân thiện, thương yêu nhau như chị em ruột. Sau ngày ba nàng là ông Hiền qua đời, bà Hân dọn về ở với gia đình vợ chồng đứa cháu gái có ba đứa con nhỏ là: Thể Dao bốn tuổi, đứa gái kế ba tuổi tên Thế Quỳnh, và thằng bé Thái Dương, con trai út nàng được một tuổi.
Ba đứa nhỏ nầy là tâm can bửu bối của hai bà già đó đa. Thử thời mà Thể Hà và chồng nàng tát nhẹ mông chúng coi, thì sẽ có chuyện ngay. Hai bà sẽ giận không ăn cơm, còn lầm bầm là sẽ ra mướn nhà ở riêng với mấy đứa nhỏ nữa để cha mẹ chúng khỏi hành hạ… Họ còn có hai người giúp việc khi mới dọn về đây ở. Đông Nhựt, chồng nàng còn bận bịu công việc làm ăn ở Sài Gòn nên thỉnh thoảng mới về thăm. Chỉ có nàng bôn ba, chạy tới chạy lui phụ chồng coi sóc việc làm ăn, ra thăm các con sống với bà nội và bà cô ở Vũng Tàu.
Giữa lúc thời cuộc căng thăng, tình trạng xứ sở đang lúc khẩn trương, Thể Hà nhận được thư của Thái Vân, người chị hờ, cũng là cô bạn thân đã theo chồng Hoa Kỳ về định cư ở Detroit thuộc tiểu bang Michigan hồi mấy năm về trước.
“Detroit, ngày…
Thể Hà ơi,
Vợ chồng tao tháng rồi có dịp đi San Francisco. Mèn ơi, thành phố này có nhiều tiệm ăn Ba Tàu quá chời đi. Có hàng chục loại mì, có hàng chục loại bánh bao, hàng trăm món ăn Tàu khác. Ở chơi đâu có hai tuần lễ, nồi đồng nồi đất ơi, tao lên cân vùng vụt hơn phi thuyền bay vào không gian, lên hơn mười cân. Khi về nhà tao phải chạy bộ quanh cái công viên mười hai vòng, mỗi vòng dài bốn trăm thước. Ngoài ra, tao phải nhịn ăn, nhịn uống gần 4 tháng trời mới lấy lại cân lạng cũ. Thật cũng tại cái miệng ham ăn nó hại tao mà.
Ờ, hôm thư trước gởi qua, mầy có hỏi tao là hiện giờ đã yêu thằng chồng dị chủng nhiều hơn hay ít hơn? Mầy vô duyên vừa vừa chớ! Trong cuộc sống của vợ chồng chung thủy với nhau, hễ tình vơi thì nghĩa đầy, tình dần đổi ra nghĩa, có vậv nền móng hạnh phúc mới bền chắc. Tao chẳng biết chồng tao có nghĩ như tao không? Tao chỉ biết thằng chả đeo tao như con sam đực đeo sam cái, như dơi con bám dơi mẹ. Đó, mầy làm ơn suy nghĩ dùm tao coi có phải thằng chả càng ngày càng lẩm lú say mê con vợ hậu duệ của bà Tiên nữ Âu Cơ không? Bởi tao hạnh phúc, nên đầu óc tao mù mịt, chẳng suy nghĩ điều gì cho thấu đáo. Tao chỉ biết thương chồng, chiều chồng, săn sóc chồng.
Nói là nói vậy thôi, chớ nghĩ đến nước nhà đang hồi ngửa nghiêng tao đau lòng lắm. Trượng phu của tao mua báo tháng để theo dõi thời cuộc ở Việt Nam. Mỗi khi nghe Việt cộng chiếm lãnh thổ miền Nam từng bước một, tao khóc mùi. Ổng cũng rưng rưng nước mắt. Có gì lạ, nhớ cho tao biết nghen.
Chúc vợ chồng mầy và lũ trẻ vui khỏe. Nhớ chuyển lời thăm bác gái và cô Hai dùm tao.
Chị Hai Néo của mầy,
Thái Vân “
Vườn sau nhà, được người lớn bón phân, tưới nước những cây cũ. Nhổ cỏ, dọn dẹp khoảng đất trống, Thể Hà cho trồng thêm cây cam mật, cây chanh, cây mận hồng đào, rau, cải… Tuy sau nầy không mướn người làm nữa, nhưng bà Châu tới ngày thì đánh lá mía, bà còn chôn quanh gốc, nào là đầu tôm, xương cá, vỏ ốc, vỏ sò… làm phân bổi, tưới nước thường xuyên. Nhờ vậy mà bụi mía nẩy mụt chi chít. Thân mía mập, có nhiều nước, mềm, lại ở vùng nước mặn nên mía ngọt lịm. Má chồng nàng đốn những cây mía ăn được. Bà róc sạch vỏ, tiện ra từng khoanh mỏng, bỏ mắc. Đem mía đựng trong thau nhôm, để vào tủ lạnh. Hai nàng công chúa Thể Dao, Thể Quỳnh và thái tử Thái Dương, ngủ trưa thức dậy. Mỗi đứa được bà nội cho một chén mía ghim ướp lạnh, thì mặt mày chúng hí hởn, tươi rói không còn mếu máo rên khóc hi hi, đã thức rồi mà vẫn còn sật sừ chưa tỉnh ngủ.
Bà Hai Hân thì chăm bón mấy liếp rau sống, gần chuồng gà. Khi ai hỏi: “Đất rộng như vầy, sao không nuôi gà thả cho nó ăn cơm đổ, ăn trùng, ăn dế, ăn cỏ? Ăn những thứ đó con gà sẽ mập và thịt dẽ khắc, ngon hơn gà nuôi chuồng”. Bà Hai Hân cười, trả lời: “Gà nuôi chuồng thịt không ngon bằng gà thả đi ăn rong ăn rổi. Nhưng thả chúng chạy loạn, ỉa tùm lum, mấy cháu nhỏ tôi đạp dơ chân. Gà ưa bươi kiếm côn trùng thì mấy bụi chuối, mía, đám rau thơm sẽ bị chúng phá teng beng hết. Chúng lại ưa mổ lá non, đọt xanh thì mấy bụi chuối, mấy liếp cải của chúng tôi chỉ một buổi thôi sẽ bị chúng ăn sạch sành sanh chỉ còn trơ mấy cái chìa. Cho nên nuôi chúng ở trong chuồng thì tiện lợi nhứt”.
Bà Hai bón bằng các loại như thức ăn của gà, gồm có cám trấu xay nhuyễn được trộn với con ruốc, gà đã ăn đổ rơi rớt xuống đất, lẫn lộn với cứt gà. Bà quét hốt đem phơi khô để làm phân bón. Và nhờ được tưới nước phủ phê, cho nên liếp rau trồng lẫn lộn nào là húng cây, húng lủi, rau răm, dấp cá, quế, ngò gai, ngò rí, hành lá, hẹ, kinh giới, tía tô… cùng liếp cải xanh, cải xà-lách lá mỏng, mập ú, xanh dờn, non nhẩn. Nên nhà rau ăn không hết, khỏi phải tốn tiền mua ở chợ
Đối diện với liếp rau là các liếp huệ trắng, nở ngài tím, vạn thọ vàng, cúc, đinh hương, trâm ổi, mồng gà… Mấy bụi bông bụp vàng, bông bụp đỏ, lá xanh lặt lìa, bóng ngời, phơi phới trong nắng. Nhứt là sau đêm mưa lớn, chẳng những rau cải hơn hớn, mà trái trong vườn cũng thẳng da, no tròn, bóng lưởng, cây cành lá xanh tươi, trông lớn hẳn ra.
Thể Hà đi đi, về về, Sài Gòn, Vũng Tàu như đi chợ. Ở Sài Gòn thì nhà cửa và cơ sở làm ăn của chồng. Nhà ở Vũng Tàu dù có má chồng nàng và bà Hai, nhưng lúc nào nàng cũng căn dặn con Bé giữ em, là phải nhớ tưới nước cho những chậu hoa hồng của nàng đặt rải rác ở sân trước nhà, và hai bên đường xe từ ngoài cổng rào vào. Thể Hà thích tất cả những loại hoa hồng và màu sắc đài trang của nó: màu vàng nghệ, màu vàng anh, màu đỏ hường tươi, màu hồng phấn, màu hồng pha những vết loang trắng trên cánh hoa, màu trắng, màu đỏ, màu cam, màu đỏ tím, màu tím… Các loại hồng nầy vốn đích thân nàng mua trong chợ hoa ở đường Nguyễn Huệ vào dịp Tết Nguyên Đán, hoặc chồng nàng mua cho. Có thứ chàng mua từ Đà-Lạt trong những chuyến chàng đi công tác. Hoặc có những thứ hồng từ nước ngoài như Đài Loan, Hồng Kông, Tân Gia Ba… do những thương gia buôn bán với chồng nàng đem qua tặng. Đa số hồng nàng trồng đều có mùi thơm. Nhứt là vào những buổi sáng tinh mơ, sương còn đọng, gió hiu hiu, tiết trời lành lạnh. Cái lạnh tươi mát của gió biển và mùa xuân ở Vũng Tàu làm cho cho những hoa hồng tỏa hương thơm dìu dịu, nhè nhẹ, man mác, lâng lâng. Thật là dễ chịu làm sao!
Nếu không ảnh hưởng bởi chiến tranh của quê hương mình, thì Vũng Tàu là một trong những bãi biển chẳng những đẹp thu hút nhiều du khách mà còn cho nhiều hải sản, cá tôm quý nhứt nhì trong vùng Đông Nam Á.
Nhưng Vũng Tàu hôm nay, không còn thơ mộng như xưa, mặc dù cảnh sắc không mấy đổi thay. Nhưng lòng người xao xác trong cơn lốc chiến tranh. Quân Mỹ tham chiến chống Cộng lần lượt trở về cố quốc. Việc buôn bán, làm ăn ở Vũng Tàu không còn rộn rịp, năng động phồn thịnh như xưa. Trước kia, nhiều người ở các nơi xa đổ xô đến Vũng Tàu làm ăn, vì vùng Đất Hứa nầy có nhiều cơ quan hành chánh, và quân đội Mỹ. Họ đến đây để làm những dịch vụ như là thầu giặt ủi áo quần, mở nhà hàng, khách sạn… Bây giờ họ cũng đã thu gọn lại, hoặc dời đi nơi khác. Cho nên Vũng Tàu ngày xưa trẻ trung, nhộn nhàng, phồn thịnh không còn nữa. Vũng Tàu hôm nay mang bộ mặt uể oải, chậm chạp, buồn chán.
Bờ biển gần biệt thự Xuân Hà thưa vắng du khách. Trên bầu trời chiều, bóng tà dương rọi vào đám mây xung quanh trở thành ráng đỏ ở phương Tây, ánh sáng chói chang, nhuộm mây thành những màu sắc rực rỡ, phản chiếu xuống mặt biển xanh dập dồn sóng vỗ, trải rộng, dài ngút ngàn trên mặt biển. Trời trong vắt, cao vời vợi, những con hải âu bay lượn, gọi đàn kêu oang oác trên không. Ghe chài, ghe lưới thuận buồm xuôi về bến. Thật là một cảnh sắc thiên nhiên diễm tuyệt tạo thành một bức tranh khổng lồ linh động, chói chang.
Nhưng biển Vũng Tàu ngày nay đã bị lơ là. Bởi biển không còn đậm ý tình, vì thiếu du khách, thiếu hình bóng những cặp tình nhân dạo trên bãi cát. Thiếu bóng dáng tà áo dài trắng của nữ sinh cuốn quyện theo màu áo hoa rừng, màu áo lính, của những chàng chiến binh về phép.
Bỗng giọng hát của nam ca sĩ Hùng Cường réo rắt, từ chiếc quán buồn lưa thưa khách vọng đến “Một trăm, em ơi, chiều nav một trăm phần trăm. Một trăm em ơi… chiều nay đã cấm trại rồi…”. Cơn buồn chợt đến, Thể Hà thở dài, tiếc nuối, như vừa mất mát một thứ gì đó! Nàng giật mình, nghĩ thầm: “Trời đất! Đang lúc tình hình đất nước rối ren như vầy, sao mình còn lòng dạ để hồn đi hoang? Thật là vô tâm mà. Sự lãng mạn vô duyên nầy đã chiếm cứ hồn mình từ bao giờ vậy?”
o O o
Sài Gòn trong nửa tháng gần đây có bộ mặt khác thường. Không ai bảo ai, nhưng gần như mọi người đều thấy và biết rằng Sài Gòn vẫn rộn rịp nhưng không còn đài các trang nhã như xưa. Trên mặt người dân Sài Gòn bây giờ hằn nét xác xao, âu lo, sợ hãi.
Những ngày cận cuối tháng 2, tháng 3 năm 1975. Tình hình chiến sự sôi nổi ở khắp nơi, nhứt là miền Trung. Có nhiều phòng tuyến được lịnh rút quân. Nhiều thành phố bị bỏ ngõ.
Theo chỉ thị của chồng, hôm nay ngày 23 tháng 4, Thể Hà phải trở ra Vũng Tàu ngay, để báo cho má chồng và cô nàng biết mà chuẩn bị mọi thứ, rủi có chuyện gì bất trắc chàng về thì gia đình nàng sẵn sàng ra khơi ngay!
Việc đầu tiên của Thể Hà làm khi về đến nhà là cho bà người làm và con Bé nghỉ việc. Nàng trả tiền công cho mỗi người tròn một tháng, mặc dù họ chỉ làm mới có mười tám ngày. Nàng còn cho họ thêm nửa tháng lương. Lý do nàng cho biết là việc làm ăn ở Sài Gòn không khá, sẽ dời hãng xưởng về miền Tây, khi nào mọi việc ổn định, nàng sẽ cho hay, nếu ai còn muốn giúp gia đình nàng nữa thì trở lại làm. Tội nghiệp nhứt là con Bé, nó bịn rịn lắm, nhưng khi nghe được về thăm nhà nghỉ một thời gian với ba má và các em thì nó quên hết nỗi buồn khi xa hai bà, cậu mợ chủ trẻ và nhứt là mấy đứa con của chủ mà nó mến tay mến chân ẵm bồng từ hồi còn nhỏ.
Những ngày cuối tháng tư, nặng nề quá! Ban đêm tiếng súng rền vọng xa xa. Hỏa châu rơi vàng úa cả một góc trời vùng rừng núi ven đô. Màu hỏa châu hắt hiu nhợt nhạt, úa vàng, chờn vờn ma quái, dưới trời đêm cao thăm thẳm và tối đen như nhuộm mực. Những rặng cây tạp nhạp, cây thấp cây cao chen chúc mọc trên đồi, trên núi, tạo thành những cụm đen to lớn, bất động sừng sững, mập mờ trên triền dốc núi đồi xa xa. Những núi đồi chập chùng ở thành phố nầy tạo thành một trường thành màu đen huyền hoặc nằm chắn ngang các nẻo đường, và bao quanh như một con quái long khổng lồ. Cảnh núi rừng hòa với màu sắc của hỏa châu làm cho người ta có cảm tưởng đó là những ngọn đèn le lói của Tử Thần soi đường dẫn những oan hồn mới vừa lìa khỏi xác chập choạng bước đi trong đêm tối.
Người dân Vũng Tàu dụm năm, dụm ba xù xì, bàn tán… Bà Châu, cô Hai và nàng, không ai bảo ai mà cả ba đứng ngồi không yên, bởi Đông Nhựt vẫn biệt vô âm tín. Nàng muốn trở vào Sài Gòn thì hai bà không cho. Họ sợ nàng bị kẹt dọc đường, rồi Đông Nhựt về đây lại phải đi tìm nàng nữa. Vả lại hiện tình của đất nước rối ren như thế nầy, thì chẳng phải là rắc rối và nguy hiểm lắm sao?
Thể Hà lo lắng muốn đứng tim, bồn chồn héo hon gan ruột. Nàng chợt nhớ đến những đứa nhỏ xấu nết trong xóm ở chợ quận Sùng Hiếu thuở xưa. Hễ mẹ chúng đi chợ về trễ là chúng dẫy đành đạch như cá lóc, cá trê bị đập đầu. Nàng từ bé thơ vốn tốt nết. Vú và ba nàng đi đâu về trễ, nàng trốn vào chỗ tối, chỗ vắng người khóc rấm rức một mình. Giờ đây, nàng cũng chỉ khóc thầm than trộm. Nàng nghĩ dại rồi sợ tê, sợ điếng khi nghĩ đến chồng mình bỏ mạng trong lúc địch quân tấn công vào Sài Gòn. Bom đạn vốn vô tình, vốn không có tròng con mắt. Biết đâu vì mạng yểu, vận rủi, Đông Nhựt làm mồi cho bom đạn. Trời ơi, nếu nàng có thể khóc rống lên được, hoặc nhào lăn, hoặc tru tréo thì có lẽ não cân nàng sẽ đỡ căng thẳng hơn. Nàng đợi chồng về trong nỗi lo sợ, xót xa, đau khổ vô cùng. Nàng muốn bồng con lên núi rồi hóa đá, biến thành hòn vọng phu theo gương nàng Tô Thị!
Nhưng dù gì đi nữa, nàng phải trấn tĩnh để cả nhà khỏi bấn loạn tâm thần. Sự chịu đựng dồn nén làm nàng muốn nổ tung như trái lựu đạn sau khi rút chốt an toàn, như chiếc pháo thăng thiên vừa châm ngòi.
Những người bạn làm ăn của chồng nàng ở Vũng Tàu, đã lần lượt ra đi. Trước khi đi, họ còn cho biết những nhân vật quan trọng trong chánh quyền ở địa phương đã bôn đào hết rồi… Những người nầy đã từng hứa chờ chồng nàng cùng đi chung, nhưng tình hình khẩn trương không thể chờ đợi được nữa. Họ có bảo nàng đem con và mấy người trong nhà cùng đi với họ, chồng nàng sẽ đi ở những chuyến tàu sau, và gia đình sẽ gặp nhau ở bên kia bờ đại dương. Thể Hà nhứt quyết ở lại chờ chồng. Bà Châu làm sao bỏ con mình đi trước được, nên họ cùng ở lại chờ Đông Nhựt.
CHƯƠNG MỘT
Tiến >>
Đánh máy: Lê Thy
Nguồn: https://baovecovang2012.wordpress.com
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 17 tháng 6 năm 2021