Văn với tay kéo chiếc mành mành mầu trắng với những thanh ngang nhỏ đều tăm tắp nằm ôm ngoài ô cửa sổ lên cao để ánh sáng lùa vào phòng. Những cử động quen thuộc của chàng đã thành một thói quen nhất định và đều đặn từ bao năm nay. Chỉ có mầu ánh sáng bên ngoài hắt vào là không bao giờ giống nhau tùy theo thời tiết và tùy theo mùa trong năm. Như ngày hôm nay, cũng vẫn là một buổi sáng như mọi buổi sáng đã qua đi nhưng Văn hơi rùng mình thấy lạnh và bên ngoài khung cửa sổ không gian chợt quang đãng hẳn ra. Ánh sáng dịu từ một vòm trời trắng xám tỏa xuống những tia nắng loãng không hơi ấm và không rọi suốt vào hết căn phòng ngủ của Văn. Cái ánh sáng nhợt nhạt và yếu đuối như không đủ sức làm bừng lên sinh khí của một ngày, ngày mới. Và Văn biết mùa Đông đã thật sự trở về.
Sáng nào chàng cũng ngồi trước cửa sổ và để tâm hồn bay bổng ra bên ngoài, nhập vào cuộc sống ngoài kia bằng một chuyến đi tưởng tượng. Chiếc cửa sổ nhỏ giới hạn tầm mắt của Văn. Chàng chỉ trông thấy 3 căn nhà đối diện và hơn chút nữa là những người hàng xóm của nhà hai bên. Phía bên trái đối diện là nhà của một cặp vợ chồng trung niên, chồng Mỹ còn người vợ Á Đông, không biết là người Tầu, Phi, Việt Nam, Thái Lan hay người thuộc quốc gia nào khác. Gia đình này có 3 đứa con nhỏ. Căn giữa đổi chủ luôn luôn, căn nhà bên phải nhỏ hơn chỉ có cặp vợ chồng ông bà Mỹ già. Nhà bên cạnh ít khi Văn thấy vì họ đi làm sớm và về cũng khuya.
Con đường trước mặt tuy thuộc khu nhà ở yên tĩnh nhưng sáng sớm xe cộ qua lại cũng không phải là ít. Có chiếc chạy vụt qua, có những chiếc từ từ nối đuôi sau xe bus màu vàng nghệ đưa đón học trò. Và cứ nhìn những làn khói xe là Văn có thể đoán được hôm nay trời lạnh nhiều hay ít. Chàng cũng đã từng ngồi trong những chiếc xe bus vàng loại đặc biệt chở những học trò tàn tật đến trường.. Chàng có thể ngồi trước hiên nhà và nhìn bao quát cả một không gian rộng lớn hơn nhưng Văn không muốn. Trong căn phòng riêng tư này Văn thấy thoải mái hơn, chàng không muốn ai nhìn thấy mình. Sau ô cửa số chàng là một người bình thường, chàng như tất cả những người khác ngoài kia. Và dĩ nhiên trong thế giới này mẹ Văn sẽ để chàng yên.
Nghĩ đến mẹ, Văn thấy sợ hãi. Ngay từ nhỏ chàng đã trốn tránh ánh mắt nghiêm khắc, lúc nào cũng như muốn xục xạo tận đáy tâm hồn chàng để moi tìm những nhen nhúm xấu chợt muốn bùng dậy. Mẹ chàng rất ít khi cười, bà rất ít nói. Bà săn sóc Văn từng li từng tí và chẳng bao giờ kêu ca hay phiền trách. Nhưng rất hiếm khi mẹ chàng tỏ sự yêu thương trìu mến mà Văn trông đợi ở người mẹ. Từ bé Văn đã nghĩ mình là một gánh nặng cho cha mẹ vì sự tàn tật của chàng. Văn bị liệt đôi chân từ nhỏ. Chàng cũng đi học như những trẻ khác, không xuất sắc nhưng cũng không kém. Bố Văn đã dạy chàng những bản nhạc vỡ lòng đầu tiên. Ông đã cho chàng chiếc đàn vĩ cầm xinh xắn vào sinh nhật thứ 5 của Văn. Chàng rất yêu bố và chỉ thấy thoải mái tự nhiên khi ở bên cạnh bố. Khi Văn được 16 tuổi, bố chàng qua đời vì một tai nạn xe. Mình mẹ chàng lo lắng và nuôi Văn với số lương bán hàng khiêm tốn của bà.
Tuổi thơ của Văn đã bị tách rời khỏi những hồn nhiên của những bạn cùng lứa nhưng đồng thời cũng không được ấp ủ bằng những trìu mến, dịu dàng của mẹ. Mẹ đã muốn tôi luyện để cho Văn tự phấn đấu, vượt qua những khiếm khuyết trên cơ thể của chàng, vượt qua những mặc cảm thông thường. Mẹ muốn đứa con duy nhất của bà cứng cỏi như bà, có lẽ còn muốn Văn thành một.. thiên tài. Nhưng chàng chỉ có thể là chàng, tinh thần và thể chất Văn đều yếu đuối. Có khi nào mẹ hối tiếc đã sinh ra mình không nhỉ? Câu hỏi này thỉnh thoảng lại hiện ra trong trí Văn. Và cũng có đôi lúc chàng chợt oán giận sự có mặt của mình trên cõi đời này. Sự thất vọng, sự oán trách, sự thiếu thốn tình cảm trìu mến và cả sự yếu đuối trong Văn, tất cả chỉ âm thầm bùng lên rồi lại tắt ngấm trước sự nghiêm khắc đến ngột ngạt của mẹ.
Văn sờ vào mặt kính và thấy cái lạnh thấm vào đầu ngón tay. Bên kia đường, một chiếc xe U-haul ngừng trước cửa nhà hay đổi chủ trước mặt. Lại một chủ mới, Văn nghĩ thầm. Chàng tò mò muốn xem mặt những người mới dọn đến. Văn tìm trong ngăn kéo bàn viết chiếc ống nhòm. Qua chiếc ống nhòm chàng quan sát. Hai vợ chồng và 2 đứa con. Họ đều là người Á Đông. Việt Nam chăng? Người đàn ông vào khoảng ngoài 50, vóc người to lớn, một phần vì chiếc áo lạnh trùm bên ngoài. Bà vợ nhỏ bé, da trắng nuốt, mái tóc cắt ngắn cho một vẻ trẻ trung đặc biệt. Bà ta chỉ khoảng chừng 40 là cùng. Bà nhanh nhẹn, bưng đồ, dọn đồ nhanh thoăn thoắt, Cậu bé con mập tròn lăng xăng phụ mẹ. Còn cô gái lớn, Văn chỉ nhìn thấy sau lưng mỗi một lần vì cô ta vào nhà và không thấy trở ra nữa. Văn thấy mái tóc dài đen như mun nổi bật trên lưng chiếc áo choàng đỏ. Màu đỏ sáng rỡ làm lu mờ cả trời đất chung quanh. Màu đỏ như một một chớp sáng trong đêm tối rồi mất hút. Văn chờ đợi.
Chàng như một thợ săn kiên nhẫn rình mồi. Không lẽ cô gái không giúp cha mẹ dọn đồ hay sao? Sẽ có lúc. Màu đỏ mà Văn chờ đợi nay đã đổi thành màu xanh lá non, xanh biếc như đọt lá cây Pecan trước nhà vào lúc chớm xuân. Cô gái từ trong nhà đi ra trong chiếc áo xanh. Cô ta trắng như mẹ nhưng cao lớn như ông bố. Khuôn mặt không đẹp nhưng có một vẻ gì bắt mắt. Có lẽ từ chiếc cằm hơi vuông. Xa quá, Văn chỉ có thể có một cái nhìn tổng quát. Chàng ước gì có thể nhìn gần vào đôi mắt cô gái xem đây là một đôi mắt mơ màng hay dữ dội, cởi mở hay lạnh lùng, khép kín.. như mẹ chàng?
Văn mở hé cửa sổ. Hơi lạnh ở ngoài len vào buốt giá. Cái lạnh và khô làm da chàng se lại. Chàng đã nhìn và bây giờ muốn nghe. Loáng thoáng tiếng cậu bé gọi chị:
“Thảo thấy thùng đồ chơi của em đâu không?”
Họ đúng là người Việt Nam. Khám phá ra điều này Văn thấy thích thú. Cô gái tên Thảo không trả lời mà chỉ lắc đầu. Đồ đạc nặng không thấy mang vào nhà, có lẽ họ chờ người khác giúp.
Ông bố đứng trong cửa gọi con gái:
“Thảo! Thảo! Vào đây bố chỉ cái này. Mấy thứ đó con cứ để ngoài xe. Chốc nữa chú Lãng sẽ giúp mình”
Thảo! Tên của cô gái được nhắc đến nhiều lần. Và Văn bỗng dưng thấy quen thuộc như hôm nay không phải là ngày đầu tiên thấy Thảo.
Khoảng không gian trước mặt Văn trở lại sự yên tĩnh lúc đầu. Chàng đợi rất lâu mà không thấy gì khác. Thế là quá đủ cho một ngày, Văn tự nhủ.
Từ hôm đó Văn luôn luôn để cửa sổ phòng chàng hé mở vì không những Văn muốn nhìn thấy Thảo mà chàng còn muốn nghe tất cả những tiếng động bên ngoài. Chàng không biết tên bố mẹ Thảo. Nhưng chú bé tên Lịch rất nghịch ngợm. Chiều nào Văn cũng thấy Lịch ngoài sân chơi đùa một mình cho dù nhiều hôm trời rất lạnh. Trong chiếc áo lạnh dầy cộm, Lịch như một trái banh tròn di động không ngừng. Đã có lúc Văn ao ước được ra ngoài kia nô đùa với chú bé. Và đó cũng chỉ là một giấc mơ như muôn ngàn giấc mơ khác.
Những sinh hoạt đó đã trở thành một phần trong đời sống Văn. Chàng không còn để ý đến những nhà khác nữa.
Không những vậy Văn không kéo hẳn mành mành ở khung cửa sổ lên nữa mà chàng chỉ xoay cho sáng căn phòng mà bên ngoài không nhìn thấu rõ bên trong phòng chàng được. Văn “gặp” cô hàng xóm trước mặt mỗi ngày. Sự “gặp gỡ” đó bị ngăn trở bởi một khoảng cách khá xa nhưng Văn thấy hài lòng và cho thế là đủ. Cuộc đời chàng bỗng dưng có ý nghĩa hơn. Bắt đầu một ngày của Văn với bóng dáng Thảo thấp thoáng ngoài kia là một nỗi xao xuyến chàng chưa bao giờ biết đến. Nó rộn rã như tiếng gót giầy của nàng gõ nhẹ trên lề đường. Và nỗi xao xuyến đó đã len qua khe cửa số được nâng lên không quá 2 đến 3 inches để theo từng gót chân Thảo ngoài kia. Và rồi như những giọt sương mai đọng ngoài khung cửa sổ phòng Văn cứ tan dần và biến mất, mất tăm ở những chốn mà mẹ chàng không thể hiểu được.
Văn chơi vĩ cầm nhiều hơn. Chàng mang nỗi rung động tuyệt vời đó vào với âm nhạc. Những tiếng nhạc réo rắt và tha thiết như một tiếng nói thứ hai của Văn. Tiếng nói không bị ngăn chặn bởi bất cứ một cái gì: niềm sợ hãi đối với sự mạnh mẽ, cứng rắn và khắc nghiệt của mẹ, nỗi tủi nhục của một kẻ thua thiệt trước sự thương hại của những kẻ may mắn hơn chàng và ngay đến cả sự lẻ loi, mặc cảm của chính Văn nữa. Văn đã nói bằng âm nhạc, chàng đối thoại với những tiếng động làm thành những âm giai, cởi mở, buông thả, tự tin, không vướng mắc với bất cứ một hệ lụy nào của cuộc đời.
Ngay trong căn phòng riêng Văn cũng không có cảm giác yên ổn. Chàng bị dằn vặt bời ánh mắt nghiêm khắc nhưng buồn bã của mẹ. Chỉ có âm nhạc là cho Văn hoàn toàn tự do. Mẹ chàng có thể ngắt lời Văn nhưng không bao giờ bà làm Văn phải ngưng ngang khi đang chơi nhạc. Chàng hiểu tại sao.
Co những điều xảy ra làm Văn nhớ mãi dù lúc đó chàng mới lên 5. Với trí óc non nớt, Văn không hiểu tại sao cha mẹ chàng cãi vã và xung đột nhưng đứa bé lên 5 đã thấy mẹ nó cầm chiếc đàn vĩ cầm mà bố yêu thích đập tan tành. Văn còn nhớ những dây đàn đứt tung, run rẩy nằm trơ trẽn dưới đất làm thành những âm thanh không phải như những âm thanh lúc bố nó chơi đàn. Nó đã trông thấy cơn giận dữ điên cuồng của mẹ nó và bố nó cũng xấu xí như chiếc đàn bị vỡ nằm dưới đất. Thằng bé lên 5 đã thấy hình ảnh người lớn là những người khổng lồ với sức mạnh vô song. Nó đã thấy khuôn mặt nhợt nhạt của bố nó, một khuôn mặt kỳ dị như mấy hình trong tranh ảnh, trông hệt như hình vẽ, cứng nhắc và hết cả sự sống. Đôi mắt trũng xuống như hai hố sâu. Rồi mẹ nó bỏ vào phòng riêng, để lại những ngổn ngang, đổ vỡ. Thằng bé vẫn núp ở một góc nhìn bố run rẩy cầm chiếc đàn vĩ cầm đã méo mó hình dạng mà áp vào ngực, chẳng khác gì những lúc bố ôm nó âu yếm. Bố nó đi thu dọn và mọi sự trở lại bình thường như những điều xảy ra chỉ có thật trong một giấc mơ nào đó. Lúc đó nó không hiểu tại sao mẹ nó ghét chiếc đàn xinh xắn đến thế. Vật vô tri đó dưới bàn tay tài tình của bố Văn đã tạo nên những âm thanh du dương và êm tai. Dưới mắt cậu bé 5 tuổi, hình ảnh dữ tợn của mẹ nó đã để lại một ấn tượng sâu đậm để sau này Văn thường tránh không chơi nhạc trước mặt mẹ. Sau đó không bao giờ còn chuyện đáng tiếc như vậy xảy ra nữa. Mẹ có hối tiếc vì hành động đó không, Văn đã tự hỏi và chàng tự tìm câu trả lời là chiếc đàn mà bố yêu thích đã vỡ và người bố mà chàng yêu mến cũng chẳng còn trên cõi đời này thì niềm tiếc nuối nào dù có thiết tha đến đâu cũng chẳng có thể làm thay đổi những điều đó. Và có lẽ điều hay nhất là hãy cố đẩy những điều mình không muốn nhớ đến ra khỏi tâm hồn, và cứ thế biết đâu đến một hôm chính mình sẽ bị mắc lừa và sẽ quên thật..
… Tiếng đàn và những bài hát ở nhà bên kia đường đã trở thành quen thuộc với Thảo. Mỗi lần nghe tiếng đàn nàng đều tò mò muốn biết người kéo vĩ cầm là ai trong căn nhà đối diện. Thảo đã từng đi ngang qua căn nhà đối diện và tiếng đàn rõ ràng từ đó thoát ra ngoài. Nàng cũng để ý nhưng chỉ nhìn thấy một phụ nữ lớn tuổi ra vào căn nhà, ngoài ra không thấy khách khứa hay một ai khác. Nàng không tin tiếng đàn đó từ người phụ nữ có khuôn mặt khắc khổ, không mấy tươi vui, đi ra vào căn nhà như một cái bóng cô đơn. Căn nhà đó cũng khác hẳn những căn nhà trong khu này. Sân trước trống không, chỉ có hai cây pecan lớn già cỗi bao phủ cả mảng sân cỏ mà mùa này chỉ thấy cỏ dại mọc lốm đốm. Mặt tiền căn nhà sơn màu nâu đậm trông tối tăm và u buồn chẳng khác gì chủ nhân của nó. Kiểu nhà cũng khác lạ. Nhà một tầng nhưng không vuông vắn mà một bên mái thoai thoải, còn một bên cao vút lên. Sự lệch lạc này không đem lại vẻ mỹ quan cho ngôi nhà mà chỉ gây sự chú ý vì bề ngoài khác thường của nó. Những lớp lá khô tụ lại một góc trên mái nhà và chỉ chờ vài cơn gió nhẹ là lại đổi chỗ, bay sang sân nhà khác. Mặc dù những lớp sơn bên ngoài vẫn còn khá nguyên vẹn nhưng Thảo vẫn nhìn thấy ở đó một vẻ điêu tàn, hiu quạnh thế nào! Chẳng khác gì cái bóng đổ dài của người đàn bà đứng tuổi kia.
Mỗi lần ra ngoài chợt nghe tiếng đàn là Thảo lại nhìn về phía căn nhà ấy. Tiếng đàn như một sinh lực thầm kín tiềm ẩn sau những bức vách cũ kỹ vô hồn kia. Có những đêm khuya tiếng đàn thê thiết làm Thảo phải mở hé cửa sổ lắng nghe. Tiếng đàn có những lúc lên cao và run rẩy như muốn bứt ra khỏi căn nhà. Nhưng ngay sau đó nàng lại tự chế riễu mình là đã để óc tưởng tượng đi quá xa.
Đêm nay nàng trằn trọc mãi không ngủ được. Thảo mở cuốn nhật ký mà nàng dấu kín dưới nệm giường để viết tiếp về ngày hôm nay. Nụ hôn của chú Lãng hồi chiều vẫn còn làm Thảo rùng mình ngây ngất và đỏ mặt khi nhớ đến. Những cảm giác kỳ diệu được khơi dậy trong trí nhớ làm nàng không ghi được chữ nào trong tập nhật ký. Thảo đã thấy được sự thèm muốn mãnh liệt của chú Lãng qua làn môi nóng bỏng và vòng tay xiết chặt Thảo như muốn nàng tan thành từng mảnh nhỏ, như muốn chiếm đoạt Thảo cho riêng chú. Và ngay lúc đó cảm giác ngây ngất đã bị thay thế bởi sự sợ hãi. Chú Lãng không còn dịu dàng như bình thường. Chính sự thay đổi đó làm Thảo hoảng sợ tuy nàng vẫn yêu chú. Người nàng như cứng lại. Và chú Lãng đã ngừng lại. Chú hôn nhẹ lên mi mắt Thảo. Nàng đã thấy tình yêu, sống trong hạnh phúc của nó mà quên đi hết mọi chướng ngại nào khác.
Cả hai đã không thay đổi cách xưng hô mả mặc nhiên chấp nhận tình yêu giữa chú Lãng và cháu Thảo là một điều tự nhiên, không thể tránh được. Nhưng điều đó chỉ giữa hai kẻ yêu nhau. Bên ngoài chú Lãng vẫn là bạn chí thiết của bố Thảo, và như một người thân trong gia đình. Còn Thảo vẫn là cô cháu hờ ngoan ngoãn. Nàng hơi mỉm cười khi nghĩ đến điều này. Trong những xôn xao đó Thảo chẳng còn để ý gì đến tiếng đàn ngoài kia và nỗi bí ẩn của nó..
Chiều hôm đó là ngày cuối tuần. Một ngày thứ bẩy cũng bình thường như mọi ngày thứ bẩy khác. Bà Hân (những người bạn Mỹ trong chỗ làm đã phát âm tên bà thành “Hen” và đôi lúc đã đùa nhau với tên của bà, nhưng chỉ để vui thôi chứ không làm bà giận bao giờ) đi chợ về như mọi cuối tuần. Hôm nay bà mua hơi nhiều đồ nên chất đầy thùng xe sau. Bà không lái xe vào ga-ra như thường lệ mà lại đậu xe trước sân. Đang lúc bà lúi húi khuân đồ một mình, Thảo từ bên kia đường tiến sang làm quen. Nàng nói bằng tiếng Mỹ, rất ngọt ngào:
“Do you need help?”
Bà Hân ngẩng lên nhìn cô gái trước mặt, cô bé Việt Nam mà con trai bà đã có lần nhắc đến. Gương mặt cô bé trông thật dễ nhìn tuy hơi cứng với chiếc cằm vuông. Nụ cười của cô ta tự nhiên và cởi mở để lộ những chiếc răng trắng và đều tăm tắp. Miệng cô bé hơi rộng nên cười thật tươi. Đôi mắt to nhìn thẳng vào mặt bà không e ấp hay ngượng ngập gì. Bà Hân nhìn cô bé với một vẻ dò xét và đáp lại bằng tiếng Việt:
“Cám ơn cô”
Nụ cười trên môi Thảo chợt tắt ngấm và thay vào đó là sự ngỡ ngàng. Nàng không ngờ bà ta là người Việt. Nàng ấp úng:
“Để.. cháu giúp bác mang vào.. Sao bác biết.. cháu đâu biết bác là người Việt Nam”
Nụ cười hơi nhếch lên làm làn môi mỏng của bà Hân như biến mất trên khuôn mặt bà, nụ cười tuy không cởi mở nhưng cũng có tác dụng làm biến đổi khuôn mặt khắc khổ và nghiêm nghị của bà Hân. Bà ta trả lời Thảo bằng giọng Bắc lơ lớ:
“Hàng xóm mà. Tôi là Hân, cô tên gì?”
Thảo trở lại nhanh nhẹn như bản tính tự nhiên của nàng:
“Cháu là Thảo ạ. Bố mẹ cháu mà biết có hàng xóm người đồng hương là thích lắm.
“Cô nói tiếng Việt giỏi lắm. Cô sang đây lâu chưa?”
“Dạ thưa bác cháu sang đây từ lúc lên 8 nhưng ở nhà bố mẹ cháu không cho nói tiếng Anh nên tụi cháu không quên tiếng Việt”
Bà Hân tỏ ý tán thưởng:
“Thế là tốt lắm. Mời cô vào nhà chơi”
Thảo vừa ôm gói đồ phụ bà Hân vừa bắt chuyện:
“Bác chơi đàn hay quá. Thỉnh thoảng cháu có được nghe”
Mặt bà Hân chợt dịu lại. Bà lắc đầu:
“Không phải tôi đâu. Con trai tôi đấy. Làm sao cô nghe được.. -không chờ Thảo trả lời bà tiếp ngay- À, chắc tiếng đàn vọng ra bên ngoài phải không cháu?”
Thảo thích thú vì nỗi tò mò của mình lâu nay đã được giải tỏa nên nàng không để ý là bà Hân đã thay đổi cách xưng hô. Nàng mau mắn trả lời:
“Vâng! Bên ngoài nghe rõ lắm, nhất là đêm khuya.. Con trai bác kéo vĩ cầm hay lắm..”
Vừa vào đến phòng khách Thảo thấy ngay một thanh niên đang ngồi trên xe lăn. Chiếc xe lăn đập vào mắt Thảo như một quả bóng dội vào tường và bật ngược trở lại, khô khan! Phản ứng của nàng chắc chắn đã lộ trên mặt. Thảo không biết mình nên nhìn thẳng vào người thanh niên hay nhìn đi chỗ khác. Nàng cảm thấy mất tự nhiên. Thảo luống cuống quay sang bà Hân, chờ đợi một cử chỉ hay một lời giới thiệu.
Bà Hân nhìn con trai và nói:
“Đây là Văn, con trai tôi, tác giả tiếng đàn mà cô hỏi khi nãy. Còn đây là cô Thảo, hàng xóm của mình đấy Văn”
Thảo lí nhí:
“Chào anh..”
Từ lúc cô gái bước vào phòng khách đến giờ, chỉ có vài phút ngắn ngủi mà Văn thấy như dài lắm, lê thê hơn cả những ngày tháng trong đời chàng đã trôi qua. Chưa bao giờ ước muốn được biến mất khỏi cõi đời này lại mạnh mẽ như lúc đó. Văn thấy ước mơ thầm kín của mình từ bao lâu nay chợt như một chiếc ly pha-lê mỏng manh đã bị người ta vô tình đánh rơi. Chiếc ly đã vỡ tan thành từng mảnh nhỏ, những mảnh vụn sáng loáng và sắc như kim châm làm Văn đau nhói. Ngực chàng như bị ai đè mạnh. Văn thấy đau hết toàn thân, da thịt nhức nhối. Nỗi đau không thoát ra thành những tiếng kêu mà chỉ dồn nén làm Văn ngồi ngây người trong chiếc xe lăn quen thuộc của chàng. Hai tay Văn bấu chặt vào thành xe lăn trắng bệch.
Bà Hân nhắc khẽ:
“Văn..”
Chàng cố hết sức để làm một cử động gật đầu tỏ ý đáp lại lời chào của Thảo. Miệng chàng như có ai khóa lại, cổ họng chàng cứng đờ. Và Văn đã nghĩ ngay lúc đó: “Giá mà mình có thể chết được!”
Thảo quay mặt đi chỗ khác. Nàng hơi thất vọng. Thảo tránh nhìn kỹ mặt Văn. Nàng chỉ biết đó là một thanh niên chừng 26, 27 tuổi, không có gì đặc biệt. Tóc anh ta chắc là được cắt lấy ở nhà nên trông luộm thuộm, nham nhở. Thảo không dám nhìn xuống hai chân anh ta. Nàng thấy tội nghiệp cho người thanh niên trước mặt. Tiếng đàn réo rắt mà nàng thường nghe bao lâu nay không làm cho hình ảnh người thanh niên trong chiếc xe lăn trước mặt thay đổi bao nhiêu. Thảo có cảm tưởng sự có mặt của nàng trong căn phòng này là một sự thừa thãi. Nàng lẳng lặng đặt túi đồ lên bàn rồi quay sang bà Hân, giọng nàng lại tự nhiên như lúc đầu:
“Chào bác cháu về”
Bà Hân gật đầu và đưa Thảo ra tận cửa ngoài. Câu chuyện mở đầu giữa hai người chợt nghẽn ngang mà chẳng ai tiếc nuối. Bà Hân định nói với theo Thảo một câu nhưng nghĩ sao bà lại đổi ý. Bà nhìn theo cho đến khi Thảo vào hẳn trong nhà nàng ở bên kia đường rồi bà mới đóng cửa. Quay vào bà định nói với Văn về Thảo nhưng nhìn thấy vẻ mặt Văn bà lại thôi.
Bà định mang những túi đồ xuống bếp nhưng chưa kịp làm bà đã nghe Văn gọi:
“Mẹ!”
Bà Hân quay lại nhìn Văn. Bà hơi lo lắng khi thấy mặt Văn tái xanh. Văn không chịu ra khỏi nhà. Nó cần khí trời, ánh nắng. Đã từ lâu bà không còn thuyết phục Văn về chuyện này, ngay cả những điều khuyên bảo hay khích lệ đã thành nhàm chán với Văn và với cả chính bà. Công việc đó chẳng khác gì một chiếc đĩa hát cũ cứ một nhạc điệu nhai đi nhai lại, kim cũng mòn mà người nghe chẳng muốn nghe! Bà đã để mặc con trai với thế giới riêng của nó. Thấy Văn không nói gì hơn, bà ngạc nhiên hỏi lại con:
“Sao đấy Văn?”
Văn nhìn mẹ. Người chàng run rẩy. Chàng phải lên tiếng, chỉ một lần này thôi. Nhìn cặp mắt nghiêm khắc có chút dịu lại của mẹ, Văn lại hơi ngần ngại. Nhưng trong chàng, một con người khác lên tiếng thúc dục để Văn phải mở tung những cánh cửa vẫn thường khép kín. Những xung đột ngấm ngầm làm mặt Văn như càng nhợt hẳn đi.
Bà Hân linh cảm một điều bất tường. Và lần đầu tiên bà thấy Văn có một điểm nào đó giống bà mà bà chưa tìm ra được. Bà thấy con trai tì tay vào hai thành ghế và đu người như muốn đứng lên. Hai cánh tay chịu cả sức mạnh của thân hình. Cổ Văn như rụt lại. Sắc mặt nó chuyển từ tái xanh sang đỏ ửng rồi tím lại. Bà thấy như Văn muốn đặt chân xuống sàn. Bà muốn kêu lên, không biết đó là tiếng kêu gì, thảng thốt, sợ hãi hay vui mừng?
Vẫn trong tư thế đó, Văn nói mà giọng chàng như lạc đi:
“Tại sao mẹ sinh con ra đời để làm gì?.. Để làm gì chứ..?”
Căn phòng khách chật hẹp như bị ép lại nhỏ hơn. Bà Hân thấy tai mình lùng bùng. Bà không tin vào những điều bà vừa nghe. Bà không tin rằng người thanh niên trước mặt là Văn, con trai bà. Nó không biết đến nỗi đau của bà. Bà không bao giờ tiếc hận là đã có nó bên cạnh bà. Bà chỉ biết buồn cho nó phải chịu những thiệt thòi. Có bao giờ Văn biết là bà đã từng xin Thượng Đế hãy cho bà phải chịu những thiệt thòi đó thay cho nó. Có bao giờ Văn biết đến những giọt nước mắt nhỏ thầm trong đêm khuya vì nó, không phải vì bà?
“Con biết mẹ.. mẹ không thương gì con cả.. con.. không làm mẹ hãnh diện mà còn làm mẹ xấu hổ vì.. con không giống mẹ. Mẹ mơ ước có đứa con trở thành thiên tài. Con cũng như mẹ.. con có muốn có mặt trên cõi đời này với thân xác như thế này đâu! Con không muốn được là.. gì hết, con chỉ muốn được bình thường như mọi người.. như mọi người thôi.
Bà Hân đứng trơ ra đó. Những lời nói của con trai bà như từ đâu vọng lại. Thân xác đó là Văn. Nhưng những lời cay nghiệt đó không thể nào từ nó, từ đứa bé nhút nhát, yếu đuối đến độ nhu nhược mà bà từng biết. Và con người lạ lùng kia đang lên án bà, trách móc bà. Nó biết gì về tình yêu? Những lời nói như những nụ hồng nở trên môi nào gọi đó là tình yêu? Những vỗ về, âu yếm chưa chắc đó là tình yêu. Bà đã không cho nó những thường tình mà người ta gọi là tình yêu thương. Bà đã cho nó hết cuộc đời bà, sống vì nó, đấy không gọi là yêu thương thì gọi là gì?
Những cảm nghĩ lẫn lộn làm bà Hân cứ đứng ngẩn ra. Phần Văn, cơn giận dữ dồn nén trong người chàng như lên đến tột đỉnh. Chàng nghĩ mình sẽ đặt bàn chân xuống đất, sẽ đi, sẽ chạy, như một người bình thường. Chàng sẽ cho Thảo thấy, mẹ chàng thấy, chàng như mọi người. Hai cái chân vô tri này sẽ theo mệnh lệnh của chàng. Văn sẽ đi ra khỏi bốn bức tường này, chàng sẽ đi đến những chân trời xa lạ.. Sẽ không còn những ánh mắt nhìn thương xót..
Cùng với những ý nghĩ đó, Văn đặt hai bàn chân đã teo lại và nhỏ xíu như chân trẻ con xuống sàn và chàng buông hai tay đang nắm chặt thành xe lăn ra. Văn không đứng, không đi, không chạy như chàng muốn mà chàng ngã dập xuống sàn.
Bà Hân buột miệng kêu lên một tiếng vô nghĩa và chạy lại ôm chầm lấy con. Một bên mặt Văn đỏ bừng lên vì va xuống sàn nhà. Chàng nằm đó, bất lực như một đứa trẻ sơ sinh. Bà Hân ngôi bệt xuống sàn, xốc con trai dậy và ôm vào lòng. Bà ôm chặt Văn như sợ chàng sẽ biến đi. Lần này bà để mặc những giòng nước mắt chảy dài trên má và nhỏ xuống mặt Văn. Những giọt nước mắt nhỏ chậm chạp xuống mặt Văn như những giọt nước mưa trong veo mà Văn thường nhìn thấy qua ô cửa sổ phòng chàng. Những giọt mưa ấm như bàn tay mẹ chàng đang vuốt ve, luồn trong tóc Văn. Những giọt mưa đầu mùa làm dịu đi cái nóng thiêu đốt của một mùa hè. Những giọt nước mắt của mẹ thấm vào mặt chàng rồi kéo thành từng vệt loang lổ trên mặt Văn. Có những vệt chảy vào môi chàng mằn mặn. Văn không thấy được những chân trời xa lạ như chàng mong muốn nhưng chàng thấy được những bông hoa kỳ diệu từ bàn tay mẹ, từ những giọt nước mắt thần tiên đã nhỏ ra vì chàng.
Văn đưa tay tìm tay mẹ và bóp chặt, chàng nói nhỏ:
“Con xin lỗi mẹ!”
Bà Hân không nói được tiếng nào. Những lời nói êm dịu mà bà không quen dùng, không quen nghe nay trở thành ngượng nghịu khi thốt ra từ đôi môi bà:
“Mẹ cũng vậy..”
Nhiều ngày, nhiều tháng trôi qua. Thói quen nhìn ra ngoài ô cửa sổ Văn vẫn giữ. Chàng vẫn thấy Thảo, vẫn thấy trời đất thay đồi theo từng mùa và chàng vẫn kéo vĩ cầm, những bài hát dài lê thê và miên man không dứt. Quyển lịch trên tường thỉnh thoảng được mẹ chàng vào phòng lật sang trang mới.
Ngày.. Tháng.. Năm
Chú Lãng buồn khi nghe bố kể có nhiều người muốn xem mắt mình. Đám nào bố mẹ cũng ưng. Có nhiều người theo đuổi, mình cũng thích mặc dù chỉ yêu chú Lãng. Chú kỳ ghê, không chịu hiểu gì hết! Anh chàng Hải cũng dễ thương, đẹp trai hơn chú Lãng, lại còn làm thơ tặng mình hoài mà sao mình chỉ có cảm tình chứ không yêu. Chú Lãng hay giận quá đi. Lẽ ra chú phải chiều mình chứ đâu lại bắt mình phải chiều chú?
Buổi chiều tháng 6 nắng vẫn còn gay gắt, hừng hực luồn qua cửa sổ. Văn thẫn thờ nhớ đến hình ảnh Thảo rực rỡ ở sân trước và sau đó nàng lên xe đi với người đàn ông mà nàng gọi bằng chú Lãng. Văn muốn đi theo Thảo đến mọi nơi, mọi chốn. Chàng gọi thầm tên Thảo và thấy ngây ngất như đang có Thảo trong tầm tay.. Rồi đột nhiên mảnh sân trước nhà Thảo và cả ngôi nhà của nàng biến mất. Văn chỉ thấy con đường nhỏ vòng vèo dẫn vào một khu rừng âm u. Chàng thấy Thảo! Cả người đàn ông nọ nữa! Văn thấy Thảo ngả đầu vào vai người đàn ông âu yếm. Họ hôn nhau.. Người đàn ông đẩy Thảo ngã xuống cỏ. Văn nghe thấy tiếng Thảo cười nho nhỏ, tiếng thở mạnh của người đàn ông.. Chàng thấy Thảo bỗng dưng xô người đàn ông sang một bên. Mặt nàng nhăn lại. Thảo đưa tay che ngực. Người đàn ông chồm tới, mạnh mẽ như một con thú. Y hôn tới tấp lên mặt Thảo, lên ngực nàng. Thảo la lên, nàng chống cự dữ dội. Gã đàn ông chợt gầm lên:
“Đồ phản bội!”
Thảo vừa khóc vừa gào lên:
“Chú Lãng!... Chú nói gì vậy?”
“Chỉ có cái chết mới rửa sạch được tâm hồn nhơ nhớp của em thôi Hà ơi! Em phải đổi sự sống để chúng ta mãi mãi có nhau..”
Thảo một tay ôm ngực che phần áo rách để hở cả da thịt, một tay quờ quạng phía sau. Nàng vẫn không ngừng khóc:
“Thảo của chú đây mà.. Chú nói gì vậy? Chú Lãng!”
“Tại sao em lại đổi tên hả Hà?”
Người đàn ông nhào đến xiết chặt lấy chiếc cổ trắng nõn của Thảo. Nàng dẫy dụa, cong người, tay chân đạp tứ tung một lúc rồi im bặt. Gã đàn ông buông tay. Nàng ngã xuống đất, bên cạnh bụi gai dại, nằm bất động. Người đàn ông ngồi bệt xuống cạnh nàng. Y vuốt ve đôi chân trần của Thảo, sờ soạng trên mặt nàng và kéo mái tóc nàng sang một bên. Y ngồi như thế rất lâu.. Chung quanh im và tịch mịch..
Những hình ảnh chợt nhòe đi như bị bao phủ bởi một màn sương. Văn ngồi bất động một lúc lâu. Chàng không biết mình tỉnh hay mơ? Ngoài kia nắng đã tàn, sân cỏ trước nhà Thảo lại hiện ra trước mắt chàng. Mọi sự vẫn như cũ và những điều kinh dị chàng vừa thấy như là một cơn ác mộng. Cơn mộng dữ làm Văn rùng mình. Chàng lẳng lặng lăn xe ra phòng khách và mở Ti vi để quên đi những hình ảnh hãi hùng vừa qua.
Chiều nào Văn cũng xem tin tức. Chiếc Ti vi trong phòng khách là một người bạn thân thiết của chàng. Chàng chỉ thích xem đài số 2. Qua màn ảnh nhỏ Văn thấy bên ngoài là một thế giới hỗn độn, sôi nổi và lắm tội ác. Người nữ xướng ngôn viên hôm nay mặc chiếc áo màu cam. Làn da cô ta đen dòn và duyên dáng với chiếc răng khểnh mà mỗi lần cô nở nụ cười là chiếc răng được khoe ra xinh xắn. Đột nhiên Văn thót người lại. Hình của Thảo trên màn ảnh nhỏ được phóng lớn.. Đúng là Thảo! Tuy chưa có dịp nhìn gần Thảo nhưng Văn không nghĩ là mình nhìn nhầm. Thảo mất tích! … Đó là điều mà cô xướng ngôn viên đài số 2 của địa phương đang nói. Tiếp theo đó là hàng số điện thoại chạy dài để nếu có ai biết tin gì về cô gái mất tích xin liên lạc về số trên.
Hai bàn tay Văn ướt đẫm mồ hôi. Chàng vẫn si mê người con gái đó. Chuyện gì đã xảy ra cho nàng? Thảo bỏ nhà đi? Thảo bị bắt cóc? Thảo bị.. giết? Câu hỏi thứ ba đến trong đầu Văn làm chàng hoảng sợ! Văn muốn bay ra ngoài kia để tìm Thảo nhưng chàng ngồi chết trân trên chiếc xe lăn, bất lực và khổ sở.
Văn lăn xe vào nhà bếp và gọi mẹ chàng:
“Mẹ.. Mẹ..!”
Bà Hân nghe tiếng con trai gọi có vẻ khác lạ, bà vội vã chùi tay vào tạp-dề và hốt hoảng hỏi Văn:
“Sao thế con?”
“Thảo.. mất tích mẹ à!”
Phải một lúc sau bà Hân mới nhớ ra Thảo mà Văn nói đây là ai. Bà nhíu mày hỏi con trai:
“Sao con biết?”
“Trên truyền hình.. con sợ cho cô ta quá!”
Nhìn vẻ mặt Văn bà Hân hiểu ngay. Đến bây giờ bà mới hiểu lý do nào gây nên sự giận dữ của Văn ngày nào. Bà trấn an con:
“Con gái thời nay không biết được, nhiều khi cô ta bỏ nhà đi không chừng”
Văn bào chữa cho Thảo:
“Con không nghĩ Thảo như vậy – chàng nói đến tên Thảo như một người thân thích”
Bà Hân tìm cách lảng tránh:
“Chuyện đó có gia đình họ lo, có dính líu gì đến mình đâu”
Văn không biết nói gì hơn, chàng im lặng. Văn không muốn mẹ chàng biết là Văn yêu Thảo. Sẽ không một ai biết điều đó, kể cả Thảo.
Văn không nhắc đến nữa nhưng chàng vẫn nhìn ra ngoài khung cửa sổ và mong một phép lạ xảy đến. Chàng sẽ nhìn thấy Thảo trong chiếc áo xanh hay đỏ quen thuộc, và cứ như thế cho đến ngày cả Văn và Thảo đều già lụ khụ, như trong những chuyện thần tiên.
Những hình ảnh ghê sợ hôm qua vẫn ám ảnh Văn. Chàng không hiểu sao mình lại thấy những điều đó? Đó là lần cuối cùng chàng còn trông thấy Thảo. Điều gì đã xảy đến cho nàng?
Chàng theo dõi Ti vi đề xem có tin tức gì về Thảo. Mỗi ngày qua đi chỉ làm Văn thêm lo âu nhiều hơn và chàng đã kể cho người thám tử nghe về những điều mà chàng đã “thấy” qua khung cửa. Người thám tử đã nhìn Văn bằng một cái nhìn kỳ lạ. Nhưng Văn thấy dễ chịu hơn vì đã chia sẻ bớt được nỗi ám ảnh. Chàng chẳng cần biết người thám tử có tin những lời Văn kể hay không. Nhưng sau đó người đàn ông tên Lãng đã bị điều tra và bị bắt.
Cũng một buổi chiều như buổi chiều chàng nghe tin Thảo mất tích. Văn lại nghe tin người ta tìm ra xác Thảo bị vùi dập ở một bìa rừng cách thành phố khoảng 40 dặm. Văn không thấy hoảng sợ như trước, chàng cũng không thấy buồn mà kỳ lạ thay một cảm giác thật êm đềm lại đến với chàng. Những lo âu, sợ hãi, thương nhớ từ bao lâu nay đột nhiên biến mất. Chàng thấy giấc mơ của mình với Thảo đã thành sự thật. Thảo sẽ ở trong tâm hồn chàng mãi mãi, không ai có thể cướp nàng đi được. Và chắc chắn bây giờ ở khoảng trời nào đó điều bí mật của chàng đã được Thảo biết, biết là Văn yêu nàng.
*
“Tại sao ông giết cô ta?”
“Tôi đã cho cô bé một đặc ân là được sống mãi trong tôi. Cô ta đã được tôi bảo vệ, không ai có thể làm hại cô ấy được.”
“Ông có biết là ông không có quyền cướp đi sự sống của người khác không?”
“Tôi có quyền chứ. Cô bé yêu tôi và phục tòng tôi. Mạng sống của cô ta là do tôi định đoạt. Cũng như vợ tôi ngày trước. Ông không biết à, vợ tôi đã van nài tôi để nàng chết, nàng muốn được trong sạch trong trí nhớ tôi. Không ai có thể hiểu được sự tủi nhục của vợ tôi khi bị chúng thay phiên nhau hãm hiếp. Chỉ có cái chết mới cho nàng được thanh tẩy. Và nàng đã cầu khẩn tôi vì chỉ có tôi mới tha thứ được cho vợ tôi”.
Người đàn ông tên Lãng nói như thế bằng một giọng đều đều, thản nhiên. Đây không phải là một lời thú tội. Anh ta đã kể cho người cảnh sát thẩm vấn điều tra nghe câu chuyện về mình, về vợ anh ta, về cô bé tên Thảo. Đôi mắt anh ta lạnh như băng, gương mặt không một chút xúc động. Cái chết của người đàn bà được anh ta nhắc đến một cách dửng dưng. Và khi người cảnh sát còng tay dẫn anh ta đi, người đàn ông tên Lãng chậm rãi đi theo không chút kháng cự.
Đó là đoạn tin kết thúc về vụ thiếu nữ tên Thảo bị giết cách thành phố 40 dặm mà tờ báo địa phương đã tường thuật sau khi bắt được thủ phạm.
Văn bỏ tờ báo xuống. Chàng biết chắc mình sẽ không còn mơ những giấc mơ về Thảo như chàng đã mơ. Chàng nghĩ sẽ có một ngày Văn yêu cầu mẹ đưa chàng ra thăm mộ Thảo và đặt lên mộ nàng một bông hoa cẩm chướng đỏ thắm như chiếc áo len đỏ mà chàng đã thấy lần đầu tiên qua khung cửa nhỏ.
Mặc Bích
Nguồn: Tác giả VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 22 tháng 6 năm 2021