Đất Nổi Giận

nguyễn ái lữ

Chương Một

hà nội trước những mối lo

Để tưởng nhớ em:

Trần Thị Ngọc Trâm (1939-2006)

Vạch bóng thời gian tìm chính nghĩa,

Soi gương kim cổ kiếm danh nhân.

Nguyễn Ái Lữ

Hàng cổ thụ trong khu Văn Miếu thấp thoáng ánh nắng chiều. Mỗi lần đạp xe qua đây, Bình có cảm tưởng mình được chiêm ngưỡng khu bảo tàng quốc học thời cổ còn lưu truyền trong một thành phố đã trải qua bao lớp phế hưng. Bên này đường là dãy phố rợp bóng cây bàng rất quen thuộc với con mắt chàng. Tới tiệm giặt ủi cuối phố, chàng gặp bà chị của Hiền đứng trước cửa. Chị có dáng người mảnh khảnh, nước da trắng mịn như cô em.

- Cô Hiền có nhà không chị?

- Có đấy cậu. Sao lâu nay mới thấy cậu lại chơi?

-Hồi này em bận việc, ít khi được rảnh.

Bà chị biết chàng làm báo. Hà Nội nằm trong vùng quốc gia nên báo chí hoạt đông rất sôi nổi. Chàng để xe đạp ngoài cửa tiệm, bước vào trong sân. Thấy Hiền ngồi đan áo một mình dưới bóng cây hoàng lan, chàng bông đùa hỏi:

- Cô giáo đan áo cho ai thế?

Nàng dừng tay đan, có vẻ ngỡ ngàng nhìn chàng.

- Anh vào nhà ngồi chơi.

Chàng dừng chân trước mùi ngọc lan từ góc sân thoảng ra. Một làn gió nhẹ đưa hương thơm tan loãng vào không gian buổi chiều vàng.

- Cụ có nhà không cô?

- Mẹ em ở trong nhà.

Chàng bước vào căn nhà tôn ba gian. Bà cụ đương ngồi ở tràng kỷ, cô đơn nhìn ánh nắng tà ngoài sân. Bà cụ đã hồi sức sau cơn đau. Nhà cửa thanh bạch, chỉ có hai mẹ con sớm tối bên nhau. Bà chị thì bận rộn với tiệm giặt ủi để cưu mang gia đình. Người ở thành thị vẫn tất bật với cuộc sống trong lúc chiến tranh tiếp diễn ở mạn Tây Bắc và các vùng xa Hà Nội.

- Cháu có chai mật ong biếu cụ.

Bà cụ nhìn Bình, nét mặt cảm động:

- Cậu chu đáo quá. Cậu ngồi chơi. Hiền à, con rót nước mời cậu.

Chàng xin phép bà cụ ra sân ngồi với Hiền. Nàng ôn tồn bảo:

- Em nhận đan áo cho một tiệm trên phố Hàng Bông. Nghe chừng hàng ế ẩm hay sao mà không thấy họ tới đặt hàng thêm. Em định ngưng đan nhưng ngồi buồn lại mang cuộn len ra đan để giết thì giờ.

- Tôi cứ ước mong được bình thản như cô lúc này.

Nàng khẽ mỉm cười, nụ cười có vẻ khiêm tốn như thường lệ.

Bỗng chàng lặng lẽ nói:

- Tôi báo để Hiền biết Pháp đã bắt tay với Việt Minh chia đôi đất nước. Vậy Hiền nghĩ sao, đi hay ở?

Câu hỏi đột ngột của Bình làm nàng băn khoăn suy nghĩ.

- Em phân vân quá. Nếu chỉ riêng em thì dễ quyết định, nhưng còn mẹ em. Cụ không đi đâu nổi.

Dù nàng chẳng nói ra điều này thì chàng cũng đã thông cảm hoàn cảnh éo le của nàng.

- Lúc này mỗi người trong chúng ta có một tâm trạng riêng. Nhiều người đã ra đi và còn tiếp tục đi vì họ thấy miền Nam đem lại nhiều triển vọng cho họ. Cái quý là tự do Hiền ạ.

Trong cái khoảnh khắc ưu tư bất chợt, khoảnh khắc mà cả hai người đều liên tưởng đến sự chia ly, cách biệt không thể tránh khỏi, Hiền muốn thổ lộ với Bình điều mà nàng giữ kín trong lòng là nàng yêu chàng thực nhưng lại không thể bật thành tiếng trước mặt chàng. Cơ hội bộc lộ của con tim nàng đã bị ngăn chặn bởi tác động của thời vận, cũng là sự bất hạnh của một tình yêu chớm nở.

Bình vẫn không ngờ mối tình thầm lặng ấy đã chiếm chỗ trong tâm tư chàng. Nó chỉ bắt đầu từ cái phút chàng gỡ tà áo lụa mầu hồng của nàng quấn vào bánh xe đạp, cho đến khi chàng rủ nàng đi chùa Láng vãng cảnh, nàng luôn giữ vẻ nhu mì, kín đáo, dễ thương, đó là những nét đặc trưng còn lại của thiếu nữ Hà Nội thời 1950.

Chàng nhớ hai người đạp xe từ phố Văn Miếu lên Ngã tư Sở rồi vào chùa Láng. Chùa ở giữa cánh đồng thơm mùi lúa non. Trong cảnh yên tĩnh, trầm mặc của buổi chiều, từ cổng tam quan vào chùa có lối đi lát gạch, hai bên cổ thụ cây cao bóng cả tạo thành bức tranh thơ mộng, hài hòa giữa những đường nét thông thoáng của ngôi chùa cổ kính với thiên nhiên mở rộng.

Ở Hà Nội lâu năm mà lần này Bình mới có dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp lãng mạn của chùa Láng bên cạnh cô bạn hiền; mới cảm thụ được hương đồng cỏ nội đánh thức tâm hồn mình bấy lâu nay chỉ mải lo công việc viết lách cho báo chí.

Lúc ngồi trên bãi cỏ, Hiền đã đưa tay ngắt một ngọn đòng đòng để nếm vị ngọt lịm của lúa con gái rồi đưa cho chàng nếm thử. Má hai người chạm vào nhau làm nàng như tê dại cả người. Đó là cái cảm giác hồn nhiên, trong sáng; chất ngọt của tình yêu đầu đời mà nàng được nếm trải cùng với chàng trong khoảnh khắc êm đềm.

Thấy chàng ngồi im như bụt, nàng bất giác hỏi:

-Nhà báo mải suy nghĩ gì vậy?

Chàng mỉm cười.

- Tôi không nghĩ gì cả. Dường như mùi ngọc lan làm cho tôi bâng khuâng từ giây phút này. Mùi ngọc lan bỗng nhiên thơm lạ lùng Hiền ạ.

Nàng thong thả nói:

- Có lẽ em ngửi mùi lan thường ngày nên không có cảm giác mới lạ như anh. Nhưng em cũng thấy lòng mình bâng khuâng từ giây phút này.

- Vì sao thế nhỉ?

- Vì em không hiểu rằng anh có còn tới đây để cùng em thưởng thức mùi lan thơm nữa không?

Bình cảm thấy buồn man mác. Chàng đã nhận được giấy gọi nhập ngũ đợt cuối cùng ở Hà Nội. Quân đội đang cần sĩ quan bổ sung để xây dựng quốc gia miền Nam. Con đường trở lại miền Bắc sẽ không còn là con đường hòa bình với sông núi êm ả, đồng ruộng xanh tươi, mà sẽ là con đường xương máu kéo dài, còn thảm khốc hơn cuộc nội chiến Trịnh -Nguyễn trong nửa đầu thế kỷ thứ 17.

Hiền chợt nghĩ đến chuyện ở lại. Nàng ít hiểu Việt Minh nhưng nghe cô bạn kể bố cô ta làm tỉnh trưởng Sơn Tây bị Việt Minh sát hại, nàng đã cảm thấy sự bất trắc cho cuộc sống an lành của người dân vùng quốc gia, trong đó có nàng.

Rồi nàng chợt lên giọng:

- Em thấy băn khoăn là khi mình ở lại, cuộc sống có được như thế này?

Bình điềm nhiên nói:

- Nếu ở lại, Hiền phải chuẩn bị tinh thần khi sống dưới chế độ Cộng sản. Chế độ này chủ trương đấu tranh giai cấp nên cán bộ cộng sản chỉ biết nhắm mắt thực hiện các cuộc đấu tố nông dân mà họ gán là địa chủ, phú nông, cả những người không ưa họ trong vùng họ kiểm soát.

- Em có nghe qua nhưng chưa hiểu rõ vấn đề này.

-Cả những thành phần tiểu tư sản thành thị cũng bị đấu tranh. Cộng sản đem lý thuyết của Mác và Mao ra áp dụng ở Việt Nam để củng cố quyền lực chuyên chính trong tay đảng.

Thời thanh niên của Bình và Hiền đã trải qua một bối cảnh đầy biến động. Nào Thế chiến 2, Pháp đang cai trị Đông Dương thì Nhật vào chiếm cuối năm 1940. Ngày 17 tháng Tư năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim được Nhật bảo trợ ra mắt dân chúng. Đến ngày 14 tháng Tám 1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh. Năm ngày sau, Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, theo sau là Huế và Saigon. Vua Bảo Đại đã phải tuyên bố thoái vị tại Huế ngày 30 tháng Tám 1945, trở thành một công dân thường.

Nắm được chính quyền trong tay, Việt Minh thanh toán các phần tử quốc gia chân chính. Khi quân Anh đổ bộ vào Saigon để tước khí giới quân Nhật ngày 6 tháng Chín, 1945, quân Pháp đã vào theo rồi khởi sự tái chiếm Saigon và toàn cõi Đông Dương. Ở ngoài Bắc, quân đội Tưởng Giới Thạch vào tước khí giới quân Nhật, ép Hồ Chí Minh lập chính phủ liên hiệp có thành phần quốc gia tham dự. Biết không thể hòa hoãn với cựu thực dân Pháp, [1] sau khi quân Tưởng rút đi, Việt Minh đã phát động cuộc kháng chiến chống Pháp ngày 19 tháng Mười Hai 1946, kéo dài đến 9 năm. Nhờ có sự hà hơi tiếp sức của Liên Xô và Trung Cộng, sau khi họ Mao chiếm Hoa Lục năm 1949, Việt Minh mới có thế thắng Pháp. Dù vậy, dân chúng miền Bắc vẫn phập phồng lo sợ Việt Minh cộng sản trở lại nắm chính quyền. Nghe tin ông Ngô Đình Diệm trở về miền Nam làm thủ tướng, dân chúng miền Bắc, đặc biệt người theo đạo Thiên Chúa rục rịch vào Nam để tránh Cộng sản vô thần.

Trước lúc chia tay, Bình ôn tồn nói với Hiền:

- Tôi không biết nói gì với Hiền thêm. Mong rằng Hiền có đủ nghị lực để vượt qua mọi thử thách.

Nghe xong, nàng cảm động nhìn chàng:

- Cám ơn anh đã quan tâm đến em. Dù ở phương trời nào, em cũng vẫn nghĩ đến anh. Nấu có điều kiện, anh viết thư về cho em.

- Cô cứ yên tâm, tôi sẽ tìm cách liên lạc.

Tiễn chàng ra khỏi cửa, nàng đứng đợi chàng đạp xe đi một quãng mới quay vào trong nhà.

Trời bắt đầu tối. Ánh đèn vàng vọt hắt xuống mặt đường. Bình đạp xe đi quanh mấy phố trước khi về nhà. Khu bờ Hồ vẫn tấp nập người đi, các phố khác thấy vắng vẻ, lạnh lùng, tối tăm.

Hồi này Pháp dồn quân viễn chinh lên mặt trận Điện Biên Phủ, các tiệm ăn, vũ trường bỗng ế ẩm, vắng khách. Người dân Hà Nội được sống dễ thở từ năm 1948 dưới chính thể quốc gia của cựu Hoàng Bảo Đại; lúc này không thật yên tâm trước tin Việt Minh và Pháp sắp ký hiệp định Genève chia đôi đất nước. Những người có máu mặt, các chính trị gia đã bỏ vào Saigon làm ăn hoặc ra ngoại quốc sinh sống.

Đi qua vũ trường Phénix gần vườn hoa Canh Nông, Bình trông thấy hai tên lính Lê dương[2] say rượu đang la hét om sòm ở trước cửa. Vũ trường phải đóng cửa, chờ quân cảnh Pháp tới bắt hai tên này. Nghe tin tướng De Castries thất trận ở Điện Biên Phủ, lính Pháp ở Hà Nội xuống tinh thần rõ rệt.

Khi về đến nhà, Bình vào trong ngõ thấy căn

nhà dưới cho thuê vẫn mở cửa sổ. Tuyết đang ngồi đọc truyện dưới ánh đèn. Thấy chàng dắt xe đạp đi qua, nàng gọi với:

- Anh Bình ơi.

Chàng đứng lại. Nàng hỏi tiếp:

- Anh đi làm về hả?

Chàng thành thật trả lời:

- Không. Tôi đi thăm cô bạn.

- Lại cô Hiền chứ gì?

Tuyết là y tá ở bệnh viện Phủ Doãn. Giọng nàng có vẻ ghen bóng gió. Nàng mở cửa ra gặp chàng, trao cho chàng cuốn Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng rồi láu lỉnh hỏi:

- Anh còn cuốn nào không?

- Còn cuốn Đoạn Tuyệt của Nhất Linh cô đọc chưa?

- Em đọc rồi nhưng anh cứ đưa cho em mượn lại.

-Để sáng mai tôi đưa nhé.

- Em muốn đọc bây giờ. Em mất ngủ từ mấy hôm nay.

- Cô có uống thuốc ngủ không?

- Em ngại uống thuốc ngủ. Em phải đọc thì mới ngủ được.

Rồi nàng bước lên căn gác theo chàng. Chàng lại tủ sách tìm cuốn truyện. Nàng ngồi ở ghế, giở cuốn album ra coi thấy tấm ảnh của Hiền đề tặng: “Mến gửi anh Bình”

Lúc chàng trao cho nàng cuốn truyện, nàng liếc mắt bảo chàng:

- Sao mà tình tứ thế?

Chàng không nói, gấp cuốn album lại. Thấy hơi lạnh trong người, chàng khẽ hỏi:

- Cô có mang theo dầu gió không?

- Có. Chắc anh đi đường bị lạnh đấy.

Nàng vội lấy chai dầu trong túi ra xoa lên trán và hai bên thái dương chàng, miệng tủm tỉm cười. Bàn tay nàng nóng ran. Một cảm giác êm ấm lan khắp người chàng.

- Cám ơn cô. Tôi hết lạnh.

Nàng ngồi nán lại trò chuyện với chàng. Hàng ngày bận rộn ở bệnh viện; chăm sóc các con bệnh và hàn gắn những vết thương chiến tranh, nàng cảm thấy tâm hồn luôn căng thẳng. Chưa gặp được người hằng mong ước thì nàng lại tìm đến sách, lợi dụng cả lúc Bình rảnh rỗi để trò chuyện cho khuây khỏa.

Nghĩ đến chuyện vào Nam, chàng hỏi nàng: -Gia đình cô tính sao?

Nàng quả quyết:

- Em đã thuyết phục mẹ em đi. Anh Dũng cũng có giây gọi động viên. Còn anh chị Minh ở lại coi tiệm may. Nghề này không sợ gặp khó khăn gì cả vì ai cũng cần may mặc. Bệnh viện đang thiếu y tá nhưng em không thể ở lại. Buồn lắm anh ạ.

Trong lúc nàng ngồi trên gác thì ở dưới nhà bà mẹ cứ thấp thỏm thức để chờ nàng. Chợt bà ra ngó nhìn lên căn gác, gọi réo:

- Tuyết ơi xuống đi.

Nghe tiếng mẹ, nàng lại gần hôn chụt vào má chàng, rồi nhỏ nhẹ nói:

- Bà cụ sốt ruột đấy. Em đi xuống.

Nàng vừa bước xuống khỏi cầu thang thấy mẹ đứng chờ sẵn. Bà khẽ quở:

- Làm gì trên đó mà lâu thế?

Nàng đỏ mặt nói:

- Mẹ làm như con còn bé bỏng lắm.

Trong lúc đó, từ căn phòng ở góc sân có bóng người con trai ngó theo nàng. Đó là Hải, học sinh cùng ở trọ với người bạn tên Năng. Hải để ý đến nàng từ vài tháng nay, anh chàng cứ tâm ngẩm yêu nàng. Bình thấy hai người đôi lúc chuyện trò với nhau ở dưới sân. Song nàng vẫn cứ lẻn lên gặp chàng vào các buổi tối, có lẽ vì thế Hải đem lòng ghen tỵ nàng mà không dám nói ra.

Mẹ nàng chẳng biết xử trí ra sao. Bà có hai cô con gái; Tuyết đã lớn mà chưa thấy có đám nào hỏi, còn Xuân vẫn đi học. Tính tình bồng bột của Tuyết làm bà lo ngại. Cuộc sống của bà trông cậy vào nàng nhiều hơn cả.

Cũng như nhiều gia đình khác từ các tỉnh tìm đường lẩn trốn về Hà Nội vì Việt Minh ngăn cản dân chúng về tề; gia đình bà đã bỏ hết của cải ở Thanh Hóa, chạy người không ra đây được vài năm tưởng yên ổn làm ăn, bây giờ lại phải chuẩn bị di cư vào Nam một chuyến nữa. Cuộc sống bấp bênh nên tương lai con cái cũng bấp bênh theo.

Bố mẹ Bình thuộc thành phần tiểu tư sản, có nhà ở làng Giảng Võ và phố Văn Miếu. Các cụ vừa đông con cái, vừa tiếc tài sản do mồ hôi nước mắt của mình làm ra nên đành ở lại Hà Nội.Thấy Bình sắp vào Nam, bà mẹ than thở với chàng:

- Tôi gặp cậu Hòa mấy hôm trước; cậu ấy bảo sắp hòa bình rồi, bà bảo cháu Bình đừng vào Nam nữa, phiêu lưu lắm.

Cậu Hòa là em ruột mẹ chàng. Nghe mẹ vừa dứt lời, chàng thản nhiên nói:

- Con biết cậu ấy có con đi kháng chiến. Con nghi cậu ấy hoạt động nằm vùng cho Việt Minh. Lúc này họ rỉ rả tuyên truyền để cản những ai đem gia đình, của cải vào Nam theo chính quyền quốc gia. Mẹ đừng nghe.

Bà mẹ lặng thinh. Bà biết chàng không thể ở lại Hà Nội vì vướng vào nghề làm báo chống

Cộng, lại thêm lệnh động viên sĩ quan nên bà cũng mong chàng sớm đi thoát, khỏi bị theo dõi.

Chợt bà thẩn thờ bảo:

- Tôi còn thắc mắc một chuyện.

Thấy mẹ nghĩ ngợi, chàng hỏi:

- Mẹ thắc mắc chuyện gì?

Bà hạ giọng:

- Liệu họ có ghép mình vào thành phần địa chủ không? Tôi nghe ở vùng quê có người chỉ có vài sào ruộng cũng bị đem ra đấu tố.

Bà lo là phải. Ngoài ngôi nhà hương hỏa, ông bà đã tằn tiện chơi họ để xây thêm nhà ở trong làng và ngoài phố, sau này chia cho các con ở.

Bình nhớ từ năm 1953, Việt Minh đã rầm rộ phát động phong trào cải cách ruộng đất ở vùng kháng chiến theo kiểu Trung Cộng; đem đấu tố các thành phần địa chủ và cường hào thuộc chế độ cũ. Gọi là địa chủ nhưng nông dân miền Bắc đâu có nhiều ruộng đất đặc quyền đặc lợi như địa chủ ở miền Nam dưới thời Pháp thuộc. Cái chính là Việt Minh muốn nhân cơ hội này thanh toán cả những người có tư tưởng đối lập, lưng chừng để củng cố chính quyền, tạo khí thế quần chúng trước khi họ lao vào trận chiến quyết liệt với Pháp ở Điện Biên Phủ.

Chàng có ý kiến với mẹ:

- Nhà mình đông, nên chia thành hai ở trong làng và ngoài phố. Chỗ nào mình cũng có người quản lý nhà cửa. Con nghĩ ở thành phố họ không làm càn như ở nông thôn. Hơn nữa nhà mình không thuộc thành phần địa chủ, chỉ là tiểu tư sản thành thị. Nay mai mấy người thuê nhà ngoài phố dọn đi, mình giữ nhà để ở, không cho thuê nữa.

Nghe chàng phân tách, bà mẹ thấy nhẹ bớt mối lo âu. Lát sau bà nhìn chàng hỏi:

- Thế còn chuyện cô Hiền, bây giờ đến đâu rồi?

Chàng chưa hề cho mẹ biết mối quan hệ của chàng với nàng. Thấy mẹ hỏi, chàng bỗng áy náy trong lòng.

- Sao mẹ để ý đến cô ta?

Bà thủng thẳng kể:

- Mấy lần tôi đi phố, gặp cô ta chào hỏi lễ phép lắm. Cô giáo có khác.

Chàng bảo:

- Cô ta ở lại với mẹ. Con cũng buồn cho cô ấy.

Bà chép miệng:

- Nhà cô ấy neo đơn, đi sao nổi. Người nết na như cô ta rồi cũng sẽ có kẻ thương, người mến.

Nghĩ đến tương lai của cậu con, bà dặn dò:

- Cậu vào trong ấy cẩn thận đấy, lúc nào muốn lấy vợ thì tìm gái Bắc mà lấy.

Chàng khẽ cười trước mắt mẹ, nhẹ nhàng hỏi:

- Sao mẹ nghĩ thế?

Bà mẹ trả lời ngay:

- Tôi đọc báo thấy có cô vợ ở Saigon nổi cơn ghen đốt cả chồng. Đàn bà ở trong ấy chắc dữ!

Chàng bảo:

- Đó là chuyện cá biệt. Mẹ đừng quan tâm. Xã hội có người thế này, thế khác, không tránh khỏi.

Bình chợt nhớ sau ngày 23 tháng Chín, 1945, Pháp trở lại tái chiếm Nam bộ rồi đặt tên là “Nam kỳ tự trị”, có người còn gọi là “Nam kỳ quốc ” nghe rất xa lạ với người miền Bắc. Con đường xe lửa Bắc-Nam đã bị cắt đứt, giao thông đường bộ cũng bị gián đoạn suốt những năm kháng chiến, chỉ còn đường biển và đường hàng không nối liền hai miền. Tuy có một cái hố về tâm lý do người Pháp tạo nên, ngày nay miền Nam lại là nơi đất hứa cho lớp lớp người dân miền Bắc di cư vào lập lại cuộc sống.

Trước hôm Bình vào trại lính Ngọc Hà để lên máy bay vào Nam, mẹ chàng đưa cho chàng món quà kỷ niệm của Hiền: chiếc áo len mầu sô cô la gói trong bao nylon vuông vắn. Bà ôn tồn bảo:

-Cậu thấy chưa, cô ấy không quên cậu đâu! Nhớ bỏ vào va ly mang theo để mặc lúc trời trở lạnh. Cầm gói áo trong tay, chàng hỏi bà mẹ:

- Cô ấy đến đây hả mẹ?

- Phải. Cô ấy ngồi nói chuyện với tôi hồi lâu. Dễ thương đáo để.

Khi chàng đến nhà nàng để cám ơn, nàng đi dậy học chưa về, chỉ gặp mẹ nàng ở trong nhà. Bà cụ vui vẻ bảo:

- Cậu cẩn thận quá. Mỗi lần em nó pha trà có tý mật ong cho tôi, tôi lại nhớ đến cậu.

Thấy bà cụ vẫn khỏe, chàng mừng thầm trong dạ. Không tiện ngồi lâu, chàng xin phép bà cụ ra về. Lòng chàng lại thêm bâng khuâng vì không gặp được Hiền lần cuối cùng.

Chiều hôm ấy chàng từ giã gia đình vào trại Ngọc Hà, ngủ lại một đêm đến sáng thì có xe nhà binh đưa chàng và các thanh niên khác ra sân bay Gia Lâm. Chuyến bay Air VietNam từ biệt Hà Nội trong nỗi nhớ thương da diết chưa từng thấy trong đời chàng. Dưới đôi cánh máy bay mầu bạc, phố phường Hà Nội và mặt Hồ Gươm thân quen đang lùi khỏi tầm mắt chàng, cả dòng sông Hồng như dải lụa đào cứ mờ dần giữa tấm thảm làng mạc hai bên bờ. Hà Nội yêu dấu như một kỷ vật vô giá sẽ bị vùi dập vào cơn lũ đỏ, cuốn theo những tro tàn kỷ niệm, những lâu đài tình ái. Đối với chàng, Hà Nội đã thành dĩ vãng. Hà Nội cũng sẽ mãi mãi là một hoài niệm xót xa cho chàng và cho cả những người ở lại.

Chú thích:

[1] Ngày 6/3/1946, Hồ Chí Minh đã ký Tạm Ước cho Pháp trở lại Hà Nội, Hải Phòng để rảnh tay đối phó với lực lượng quốc gia.

[2] Lính Pháp Légionnaire

Chương Một

Tiến >>

Bản scan: tusachtiengviet.com
- Đánh máy: Nguyễn Học, Thanh Vân, Ct.Ly
Nguồn: Ký sự tiểu thuyết , Nhà Xuất Bản ĐỘNG PHONG 2008
Ký sự tiểu thuyết của Nguyễn Ái Lữ, do Đông Phong xuất bản năm 2008. Bìa do họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi trình bầy. Một vài truyện của tác giả đã in trong các cuốn trước, nay được nhà xuất bản in gom vào cuốn này để có mạch truyện gắn liền với nhau. Địa chỉ liên lạc: 2216 E 22NU Street Oakland, CA 94606.
VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 8 tháng 12 năm 2021