Thôi, Loan ạ chờ Nam vào hãy hay.
– Ngọc cứ để mặc em. Thu xếp trước đi thì vẫn hơn. Để bề bộn, anh ấy vào anh ấy cười cho… Mà anh ấy giận nữa cũng nên. Anh ấy gửi thư lại đánh luôn giây thép cho mình là cốt để mình sửa soạn phòng riêng cho anh ấy.
Ngọc suy nghĩ và hỏi:
– Không biết sao anh ấy lại đi được?
Loan không để ý đến câu của chồng, nói luôn:
– Vậy em cứ bảo dọn phòng em Hanh để anh Nam ở nhé?
Ngọc giọng hơi gắt:
– Đã bảo để chờ anh ấy vào hãy hay. Em còn không biết tính Nam hay sao? Làm phật ý anh ấy, anh ấy vùng vằng bỏ ra về ngay, cũng chưa biết chừng. Mà đã chắc đâu anh ấy vào!
– Đã đánh giây thép báo trước, anh còn bảo chắc đâu…
– Anh ấy gửi điện tín, rồi không đi là thường. Có khi ra ga, vào lấy vé lên toa ngồi yên chỗ, anh ấy còn xách va-li hấp tấp trở về nhà để ngủ, nữa là…
– Anh và các anh bạn anh cứ nặn mãi ra, thêm thắt mãi vào làm như anh Nam là một người ngộ nghĩnh, khác thường. Kỳ thực em chỉ thấy anh ấy dễ dãi, nhu mì.
Ngọc cười:
– Thì vẫn dễ dãi, nhu mì!
– Mỗi cái anh dở hơi lắm! Dẫu sao người ta cũng là khách của mình. Người ta đã báo trước rằng người ta vào chơi một vài tuần lễ, thì mình phải chọn sẵn một phòng tốt để người ta ở chứ! Chẳng lẽ người ta lại bảo mình: “ Tôi thích phòng này, tôi không ưng phòng kia? ” Vậy mặc anh, em cứ đi thu dọn đây.
Nói đoạn, Loan bỏ sang phòng bên. Ngọc mơ màng ngó nhìn qua cửa sổ ra những rặng phi lao ngoài bãi cát và nghĩ thầm:
“ Ừ! Không hiểu sao bỗng rưng Nam lại bỏ bừa công việc mà vào nghỉ mát Sầm-sơn được?”
Nam và Ngọc là cựu sinh viên trường Mỹ-thuật, Nam lên năm thứ ba thì Ngọc bắt đầu vào năm thứ nhứt. Thời ấy Nam đã nhận thấy cái tài lạ lùng, cái tài đặc biệt của Ngọc, và đem lòng yêu mến Ngọc ngay. Chẳng bao lâu hai người trở nên đôi bạn chí thân.
Năm năm sau. Ngọc thi ra đỗ đầu và xin được bổ giáo sư trường Trung-học, trong khi Nam đương mê man với cái thú vẽ tranh. Ngoài hội họa ra, Nam không còn thiết một thứ gì ở đời nữa. Trước kia nha Học-chính cũng đã một lần có giấy gọi chàng, để định bổ chàng vào một chân giáo sư. Dạo ấy, chàng đi vẽ ở vùng Cao-bằng. Ngọc biên thư lên báo tin mừng cho chàng và giục chàng về. Đương họa giở một bức tranh sơn, Nam định nấn ná ở lui lại mấy ngày để làm cho xong công việc đã. Nhưng rồi quên bẵng đi, chàng vẽ luôn một bức nữa, lại một bức nữa.
Khi chàng tới Hà-nội thì nha Học-chính đã bổ người khác. Chàng không lấy thế làm phiền lòng, mà có lẽ cũng không nhớ rằng người ta đã định bổ mình vào ngạch giáo sư.
Từ đó tình yêu hội họa một ngày một lấn sâu mãi vào tâm hồn Nam. Vẽ cần cho chàng như ăn, uống. Có khi hơn. Vì mải vẽ chàng có thể quên ăn. Nhưng không một lạc thú gì, không một sức mạnh gì lôi kéo được chàng đi đâu, một khi chàng đứng trước cái khung căng vải đặt trên giá, cái bảng màu cầm trên tay.
Vẽ để vẽ. Đó là nguyên tắc của chàng về hội họa. Được vẽ là đủ rồi, là chàng sung sướng rồi, chàng không cần phải hỏi và phải biết: Vẽ để làm gì? Nhiều lần, một bức tranh vừa ráo sơn, vì không sẵn có khung căng vải, chàng quả quyết trát trắng đi để vẽ bức khác. Mà không phải bức trước không có giá trị. Chàng thường nói với bạn: “ Một bức tranh chỉ có giá trị khi mình còn đương vẽ. Vẽ xong, nó là cái khung vải bôi sơn. Đem bán, đem cho hay đem vứt đi cũng thế thôi. Nó như một người con gái. Người con gái ấy một hôm mình gặp mặt, và mình ao ước tìm tòi cái lạ, cái đẹp. Cái đẹp, cái lạ một khi đã thấy, hay tưởng thấy, thì còn gì nữa? Sự thực hiện ra và mộng ảo tan đi.”
Những người quen chàng thường lợi dụng cái tính thích vẽ của chàng. Họ căng vải, mua sơn đưa đến cho chàng để sau này vác tranh về nhà treo. Chàng cảm động cho là bạn có lòng tốt đối với mình. Rồi bức tranh vẽ xong, có khi chàng bán đi, hay cho một người khác nếu không vứt vào một xó kín cho bụi bám và mạng nhện trắng. Cái tính đãng trí của chàng, trong anh em không ai còn lạ. Vả chàng ít khi chịu phân biệt cái gì là của mình, cái gì là của người. Có lần vừa may xong bộ quần áo rét, chàng cho một người bạn mượn đi ăn cưới, rồi quên khuấy. Mà người bạn mặc vừa quá cũng quên bẵng không trả lại chàng. Cách đó ít lâu gặp người kia chàng ngắm nghía khen. “Bộ quần áo anh may đâu mà dễ thương quá! ” Bạn tưởng chàng nói đùa chỉ cười. Thế là hôm sau chàng đi tìm may một bộ y như bộ trước mà chàng đã may.
Cái tính đãng trí của chàng có lẽ cũng là một hình trạng của lòng rửng rửng đối với đời. Nam không cho một cái gì ở đời là quan trọng, kể cả hội họa. Chàng vẽ như chim hót. Con chim nó hót để hót, nào nó có cho tiếng hót của nó là quan trọng? Nhưng ở đời có một thứ mà chàng rửng rửng nhất, mà chàng khinh bỉ nhất, khinh bỉ mà vẫn phải cần đến, và vì phải cần đến mà lại càng khinh bỉ: Đó là tiền.
Lần đầu chàng làm ra tiền là thời chàng còn học năm thứ ba trường Mỹ-thuật. Một nhà du lịch Hoa-kỳ vào thăm trường, lưu ý đến những bức tranh lụa có tính chất An-nam của chàng và hỏi mua. Buổi chiều ông giám đốc trường gọi chàng lên bàn giấy và giao cho chàng hai trăm bạc.
– Đó, của anh, nhưng anh phải làm trả nhà trường những bức khác như hệt những bức đã bán.
Nam ngơ ngác hỏi lại:
– Như hệt?
– Phải, như hệt. Sao?
– Lại vẽ những bức đã vẽ rồi thì chán lắm!
Ông giám đốc mỉm cười:
– Chán, nhưng đã được hai trăm bạc tiêu!
Nam làu nhàu:
– Hai trăm bạc! Nhưng tôi có muốn bán đâu?
Bắt đầu từ hôm ấy, ông giám đốc đem lòng ghét Nam. Ông cho chàng kiêu căng, và tự phụ. Có lẽ vì thế mà năm ấy thi lên lớp, Nam trụt từ thứ nhất xuống thứ ba.
Ngay chủ nhật tới, Nam nhờ người bà con đặt bữa tiệc hết sức long trọng và mời tất cả bạn bè đến dự. Lúc trả tiền, chàng kinh ngạc:
– Năm mươi sáu đồng!
Chủ khách sạn và anh em bạn tưởng chàng kêu đắt quá. Nhưng chàng nói tiếp ngay:
– Có năm mươi sáu đồng thôi! Vậy còn những một trăm bốn mươi tư đồng thì làm gì, tiêu gì cho hết được?
Ai nấy cười vui vẻ, vì tưởng chàng khôi hài. Nhưng chàng rất thành thực. Chàng cho “của giời ơi ” ấy chẳng tiêu hết đi, giữ mà làm gì? “Mình vẽ tranh có phải để kiếm tiền đâu? ”
Cái tính ghét tiền, không bao giờ chàng bỏ được, mặc những lời chê trách của các bạn và anh chàng. Chàng có một người anh làm giáo sư yêu chàng như bà mẹ yêu con nuông. Xưa nay chàng vẫn ở chung với anh. Cho tới ba năm gần đây, công việc bộn bề quá, chàng mới chịu thuê riêng một cái nhà ở làng Yên-phụ để làm phòng vẽ và xưởng thợ. Vì từ ngày tạm bỏ sơn dầu và lụa để chuyên làm sơn ta, thì chàng có rất nhiều khách hàng phần đông là người Âu. Bất đắc dĩ chàng phải thuê thợ, đó là một điều làm chàng khó chịu, vì có lúc chàng đã cáu kỉnh thấy mình thành một ông chủ thầu hơn là một nghệ sĩ. Những người thân nghe chàng ngõ ý kiến riêng đều lo sợ có một ngày kia chàng sẽ bỏ sơn ta như chàng đã bỏ sơn dầu và lụa. Họ ái ngại cho chàng vì thấy “ nghề ” sơn ta của chàng đương phát đạt.
“ Phát đạt”, đó là một tiếng không có nghĩa gì đối với Nam. Vả phát đạt đây chỉ là nhiều việc. Chứ không là nhiều lãi. Ngày chàng đem bức bình phong sơn ta đầu tiên ra bày phòng triển lãm thì các ông giáo trường Mỹ-thuật lưu ý đến chàng ngay. Đồ sơn ta xưa nay chỉ là tác phẩm của người thợ khéo, hay của nhà nghệ sĩ thiên về trang hoàng hơn hội họa. Nam bỏ hẳn cái định kiến ấy. Chàng muốn cách mệnh, muốn mở rộng phạm vi sơn ta. Và coi một bức tranh sơn ta không khác gì một bức tranh sơn dầu.
Ông giáo G. thầy học yêu mến của Nam, viết một bài phê bình đăng báo để ca tụng học trò, nói Nam đã nâng sơn An-nam lên bực “ đại nghệ thuật ”. Phe phản đối chẳng chịu yên lặng. Họ công kích Nam kịch liệt, nói Nam làm mất hẳn ý nghĩa và giá trị của sơn An-nam, cái ý nghĩa và cái giá trị trang hoàng của nó. Và để đánh đổ cái thuyết của ông giáo kia, họ nêu ra một họa sĩ chuyên vẽ sơn An-nam đã nổi danh khắp thế giới, ống Dunant: Ông Dunant không vẽ rậm rạp, tỉ mỉ như Nam bao giờ.
Anh em bạn Nam giục Nam trả lời, Nam chỉ cười và đáp lại vui vẻ
– Tôi vẽ cho tôi, chứ tôi có vẽ cho ông Dunant đâu?
Bức bình phong ấy chàng bán được ngay, bán theo giá trường Mỹ-thuật đã định. Chàng mừng rỡ bảo anh em:
– Hòa vốn, may quá!
Thế là chàng dùng ngay tiền nhận được để làm luôn bức bình phong thứ hai. Bức bình phong ấy, có lẽ trong một năm nữa sẽ hoàn thành. Vì cách chàng làm việc, khác hẳn người thường, làm việc để làm việc không cần mau, chậm: thời ấy chàng chưa mượn thợ. Chàng vẫn nói: “Làm sơn ta sướng hơn làm sơn dầu. Có nhiều cái bất ngờ lắm. Mà cái bất ngờ bao giờ cũng đẹp, cũng đẹp hơn cái mình định trước ”
Ai đã nhìn chàng mài than một bức sơn mới hiểu câu nói của chàng là đúng. Có khi sau hằng giờ, nét vẽ mới thành hình. Từ lúc ấy họa sĩ phải gượng nhẹ: Tùy mình mài sâu hay nông, nền màu sẽ hiện ra nhạt hay xám. Tới một màu ưng ý, chàng nghiêng nghiêng tấm gỗ ngắm ngía, miệng lầm bầm: “ Pas bête! pas bête! ” Rồi, thét vang, rồi hát ầm nhà. Hôm ấy thế nào chàng cũng tìm bạn thân, nhất là Ngọc, đến xem cái màu lạ lùng, “sung sướng ” kia. Và thế nào Ngọc cũng khen không tiếc lời: “ Ngon lắm, anh ạ, Trời ơi! c‘est charnu! C‘est bon à croquer! C‘est sensuel! ” Nam yên lặng mỉm cười, bẽn lẽn như đứa trẻ đứng im cho người mẹ vuốt ve, âu yếm. Về sau Ngọc nói:
– Còn đợi gì mà không ăn mừng?
Thế là hai người đưa nhau đi cao lâu.
Nhờ bài phê bình của ông giáo, nhiều người Âu biết chuộng tài Nam, đến đặt tranh nhà Nam. “ Thế mới chết chứ! ” Đó là câu nửa bỡn cợt, nửa thành thực mà Nam thốt ra với anh em bạn, khi ông giáo sư đưa tin cho biết có nhiều người đặt “ hàng ”. Chính từ đó Nam bắt buộc phải mở xưởng riêng ở Yên-phụ. Và cũng từ đó chàng bận tíu tít quanh năm, vì khách hàng một ngày một thêm đông. Các người Âu giàu sang hình như đua nhau có một bức bình phong sơn bày trong nhà.
Anh em bạn Nam khuyên Nam tăng giá tranh. Nếu không, thà nghỉ dưỡng sức cho khỏe còn hơn, can chi lại hì hục năm ấy sang năm khác để mua lấy cái ốm mà chẳng lợi lộc gi. Nam chau mày gắt:
– Lợi lộc! Các anh làm như tôi là một nhà buôn không bằng!
– Nhưng ít ra cũng không nên để mình chịu thiệt.
– Cố nhiên! Tôi có thiệt gì đâu, Tôi đương tim tòi về tranh sơn ta, chỉ mong có việc để mình thí nghiệm. Nay người ta đem việc đến, rất nhiều việc đến, mình còn cần gì hơn nữa?
– Vậy xong thời kỳ thí nghiệm phải đến thời kỳ thực hành chứ?
Nam cười, hỏi:
– Thực hành cái gì? Các anh bảo thực hành cái gì? Thực hành làm giàu chăng? Bán tranh, bán “ hàng ” thực đắt, kiếm vài vạn bạc, làm một tòa nhà lộng lẫy ở một phố tây… Rồi tự túc…bỏ hội họa… yên sống tuổi già… A! còn quên: một bà vợ và một lũ con…Tôi không ngờ các anh lại muốn dấn tôi vào cái đài trưởng giả ấy… thực hành! trời ơi, thực hành!
Một người bạn cãi gượng:
– Vâng! Thực hành vẽ tranh kia.
Nam nghiêm nét mặt:
– Điều ấy thì không có. Suốt đời nghệ sĩ lúc nào cũng phải tìm tòi, cũng phải thí nghiệm… Ai dám tự phụ đã tới chỗ hoàn toàn, chỗ tột đích của nghệ thuật?
Kể thì Nam cũng không đến nỗi nghèo, không đến nỗi thiếu thốn như một số lớn họa sĩ An-nam. Tiền lãi tranh tuy không nhiều lắm cũng đủ cho chàng ăn tiêu khá rộng, mua sơn, mua vàng, nhất là vàng mà chàng rất quý mến. Quý mến là quý mến cái giá trị của nó trong tranh sơn ta, chứ không phải quý mến cái giá cao của nó trên trường thương mại. Chàng phung phí dùng nó trên các bức bình phong, mặc dầu gần đây giá một ngày một lên mãi. Nhưng có thứ mà chàng dùng phung phí hơn. Đó là sức khỏe của chàng. Ròng rã ba năm nay chàng chưa nghỉ được luôn một tháng, ngày đêm ở xưởng bị vây bọc trong làn không khí nặng nề đầy hơi sơn nồng nực. Cũng có dạo chàng bỏ xưởng đi Hòa-bình, đi Lạng-sơn, đi Hạ-long nữa. Nhưng đi để làm việc, để vẽ chứ không phải đi chơi, đi nghỉ mát.
Thế mà lần này chàng định nghỉ, nghỉ hẳn một tháng trong Sầm-sơn, khiến Ngọc phải lấy làm ngạc nhiên.
Phần Thứ Nhất - I -
Tiến >>
Đánh máy: Lê Thy
Nguồn: Phương Giang Xuất Bản
baovecovang2012.wordpress.com
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 9 tháng 2 năm 2022