Nhà Thám Tử Cô Đơn

người thứ tám

tiểu thuyết đen

Truyện thứ nhất

pháp
ô hô… nhà thám tử cô đơn

Tuy nước nhà lâm vào tình trạng chiến tranh, công cuộc sản xuất tinh thần vẫn không bị ngưng trệ. Trong vòng 10, 15 năm nay, số sách truyện được viết và in lên tới hàng ngàn. Mấy năm gần đây, số tác phẩm có vẻ gia tăng mặc dầu tiền in đắt, tiền giấy đắt, khả năng phát hành toàn quốc bị thu hẹp tối đa. Đó là triệu chứng đáng mừng.

Nhưng chúng ta cũng lấy làm lo ngại vì hầu hết các tác phẩm đều thiên về trữ tình xã hội. Tiểu thuyết gồm nhiều bộ mặt, tiểu thuyết trữ tình xã hội mới là một phần. Còn nhiều địa hạt phong phú khác chưa được khai thác. Về gián điệp thì ngoài Z.28 và một số truyện phóng tác, không thấy ai đóng góp thêm, ngoại trừ một vài sự hiện diện nhất thời. Về trinh thám, truyện toát bồ hôi lạnh, truyện tội phạm, truyện đen, thì gần như hoàn toàn vắng bóng, nếu không kể những truyện dịch và phóng tác.

Với cuốn này, Người Thứ Tám hy vọng được giới thiệu những bông hoa quý trong rừng tiểu thuyết đen. Những truyện được tác giả lần lượt kể lại đều đã xảy ra trên thế giới. Đành rằng đây là truyện có thật, nhưng khi đọc xong, bạn đọc sẽ không tin, bạn đọc sẽ nghi là truyện tưởng tượng.

Đây là những truyện có thật trăm phần trăm như nhà thám tử Fosse danh tiếng bậc nhất của công an Bắc Pháp, có thật như ông chánh án ở Nam tư, có thật như cái chết của giai nhân Marta ở Tiệp khắc, có thật như thiếu phụ chuyên đầu độc bằng thạch tín ở Hoa Kỳ…Nhưng khi đọc xong, bạn đọc sẽ nghĩ là truyện tưởng tượng như loại tiểu thuyết Z.28. Người Thứ Tám có thể bảo đảm điều này: đọc hết trang đầu, bạn đọc sẽ đọc hết trang hai, đọc hết truyện thứ nhất, bạn sẽ đọc hết truyện thứ nhì, và sau khi đã đọc hết truyện thứ nhì, chắc chắn bạn đọc sẽ giở luôn đọc một mạch. Cho dẫu trời đã khuya. Và mai phải dậy sớm.

Nhà thám tử đại tài trong truyện là ông cò Camille Edouard Armand Fosse, một trong những thẩm sát viên công an lẫy lừng nhất nước Pháp. Sự đời éo le, ông Fosse đã gặp một vụ não lòng, mấy chục năm trôi qua mà nhiều người nhắc lại còn ngậm ngùi rơi nước mắt…

Vùng Normandie ở tây-bắc nước Pháp là nơi thu hút nhiều du khách. Trong những ngày cuối cùng của thế chiến thứ hai, quân đội đồng minh đổ bộ ồ ạt tại đó, lập thành đầu cầu kiên cố để đuổi lui Đức quốc xã. Và kết quả là hàng vạn thanh niên thuộc đủ mọi quốc tịch đã gục ngã trong cuộc hành quân giải phóng. Hàng năm, thân nhân họ từ xa đến viếng mộ giữa phong cảnh hùng vĩ, sóng biển rì rào, những bãi cát trắng nhuộm máu thuở nào chạy thẳng đến chân trời vô tận.

Trong số du khách ghé Normandie còn có những nhà khảo cổ. Vì đây là một trong những vùng có phong tục và di tích kỳ lạ. Dọc quốc lộ 176, sống chen chúc một xã chuyên nghề làm đồng. Dân làng gõ nồi, đúc xoong từ sáng đến tối, từ đời này đến đời kia nên ngày nay hầu hết già trẻ lớn bé đều nặng tai (1), phải hét lớn mới nghe rõ.

Gần đấy đứng sừng sững một cây sồi cổ thụ. Độc nhất vô nhị. Trên khắp châu Âu chưa cây sồi nào già bằng nó và lớn bằng nó. Vòng gốc nó đo được 13 mét. Tuy nhiên, đặc điểm của nó là ruột hoàn toàn rỗng. Người ta thuật lại dưới thế kỷ 17, trong một trận bão lớn, 40 trẻ nít đã ẩn núp trong thân cây an toàn. Sau đó một vị linh mục giàu sáng kiến ở địa phương đã lập ngay trong thân cây sồi một cái …nhà thờ. Thời gian lặng lờ trôi qua, sự vật biến đổi, cây sồi vĩ đại vẫn đứng trơ trơ…(2)

Thẩm sát viên Fosse từng được nhiều người ví với cây sồi. Ông cũng sinh trưởng tại Normandie, quê hương của cây sồi thách thức năm tháng. Cuộc đời ông là cuộc đời thành công rõ ràng về chức nghiệp, ấy thế mà ông lại đột ngột từ bỏ kinh đô ánh sáng Ba lê, nơi ông đang hành nghề trong hào quang của sự trọng vọng, để rút lui về nơi chân nhau cắt rốn, sống chuỗi ngày già của …cây sồi, không màng gì đến bên ngoài.

Thật vậy, trong những ngày sau cùng này, thẩm sát viên Fosse đã trở thành người điếc. Điếc như dân làng của quốc lộ 176. Phải, ông cố tình điếc. Ông không muốn nghe tiếng ai nữa. Vì ông sợ nghe lại những âm ba của quá khứ.

Kể ra hồi ấy ông Fosse chưa lấy gì làm già để về hưu trí. Những người bằng tuổi ông đang giữ chức vụ điều khiển guồng máy an ninh. Về sức khỏe, ông cũng chưa đến nỗi nào. Ông còn có thể làm việc quần quật suốt ngày. Ông có thể ngồi đọc hồ sơ suốt đêm. Mắt ông chưa cần đeo mục kỉnh, gân tay ông còn cứng.

Thế mà ông lại đột ngột nộp đơn từ dịch.

Thoạt đầu thượng cấp không chấp thuận. Tìm được một thẩm sát viên đầy kinh nghiệm, phục vụ có lương tâm và thanh liêm như ông đâu phải dễ. Phương chi ông Fosse lại là trưởng ban thẩm sát, ông là thẩm sát viên số một của Ba lê, thẩm sát viên số một của nước Pháp. Sự ra đi của ông cò Fosse là một sự mất mát ghê gớm. Ông tổng giám đốc kêu ông Fosse lên hỏi lý do. Cuộc đối thoại diễn ra trong văn phòng tổng giám đốc, cửa đóng kín mít. Không ai chứng kiến. Không ai nghe lóm. Nên không ai biết ông Fosse đã nói những gì.

Chỉ biết là sau cuộc đối thoại đó, ông tổng giám đốc đã cầm bút phê ngay chữ « chấp thuận » vào lá đơn của ông cò Fosse. Người ta thấy ông tổng giám đốc rưng rưng nước mắt. Ông Fosse có vẻ điềm tĩnh hơn, song chẳng qua đó là điềm tĩnh giả tạo. Chẳng nói chẳng rằng, ông cò Fosse rời phòng giấy ông tổng giám đốc.

Rồi ông đi biệt tích.

Bạn bè không biết ông đi đâu. Một thời gian sau, họ khám phá ra ông cò Fosse trở về quê ở Flers, thuộc quận Orne ở Normandie, một thị trấn kỹ nghệ bé nhỏ gần những bãi cát trắng mà mấy chục năm sau quân đội đồng minh đổ bộ, viết thành lịch sử…

Ông cò Fosse sống một mình trong ngôi nhà vô danh ở ngoại ô thị trấn. Trước nhà có thửa vườn trồng hoa. Ông cò chẳng làm gì ngoài việc chăm sóc những bồn hoa. Ông không đi đâu. Ông không tiếp bạn bè. Người Pháp, nhất là người Pháp về già, sau bao năm âu lo nghề nghiệp, thường khề khà ly rượu vang đỏ bên lò sưởi buổi chiều tuyết lạnh với bạn bè. Riêng ông cò Fosse lại sống cô đơn. Bằng hữu không có đã đành, ngay cả họ hàng, thân quyến cũng vắng bóng. Dường như ông trốn gia đình. Trốn tri kỷ.

Ông cò trốn tất cả. Trốn nghề nghiệp. Trốn hiện tại. Trốn sự thật.

Cho đến một ngày kia, ông thở hơi cuối cùng. Ông cò được chôn trong nghĩa trang thị trấn. Đám tang ông cũng buồn bã và quạnh hiu như những ngày dưỡng già bất đắc dĩ của ông. Trước khi vĩnh biệt cõi đời, may thay ông có được vài ba người bạn. Một trong những người này đã chôn ông dưới gốc thông reo vi vu. Hàng ngày, hàng đêm, rặng thông reo vi vu như than vãn sự đời. Tiếng thông reo vi vu này cũng là tiếng nức nở của ông cò Fosse trong lòng đất.

Người bạn chôn ông kể lại là khi chết, ông cò Fosse mở mắt trừng trừng. Vuốt mãi, mắt ông mới chịu nhắm. Ông cò Fosse không độc ác, song lòng ông chứa chất một cái gì oan khuất, một cái gì bí mật ông không thể nói ra.

Ông cò Fosse từ dịch là phải. Ông mai danh ẩn tích là phải. Ông sống cô đơn, chết dần chết mòn là phải.

Sinh ư nghệ, tử ư nghệ, ai dám ngờ định mạng lại trớ trêu và phũ phàng đến thế.

Ông Fosse có khiếu làm ông cò từ bé. Hồi còn cắp sách đến trường tiểu học, ông đã khét tiếng điều tra giỏi, trong trường hể xảy ra vụ mất cắp nào giữa bọn học trò quỷ sứ, ông cũng tìm ra manh mối dễ dàng. Ông có tài quan sát và phân tích. Ông có đức tính kiên nhẫn lạ lùng, và không bao giờ ông biết chán nản.

Nhưng sự đam mê nghề nghiệp đã làm hạnh phúc lứa đôi của ông rạn nứt. Vợ ông còn trẻ, lẽ ra ông nên giành nhiều thời giờ săn sóc, ông lại dồn thiện cảm cho công việc. Do đó, gia đình ông lục đục chỉ là chuyện dĩ nhiên. Ai cũng tưởng một đứa con mũm mĩm sẽ giữ chân ông cò Fosse lại nhà, ít ra là ban đêm. Những đêm lạnh thấu xương, thiên hạ say sưa trong chăn ấm nệm êm bên người vợ nóng bỏng tình yêu thì ông cò lại băng mình vào sương gió, theo dấu vết một tên gian…

Nhưng đứa con trai mũm mĩm đã chào đời mà ông cò Fosse vẫn nặng nợ với nghề thẩm sát viên công an…

Việc phải đến đã đến. Vợ ông cò ngả vào vòng tay người đàn ông khác. Bầu không khí gia đình trở nên ngột ngạt. Ông cò giận người vợ trẻ đẹp thiếu chung thủy, thường về nhà khuya hơn trước, và đi làm sớm hơn trước. Một đêm kia, ông mở cửa phòng thì chẳng thấy ai. Vợ ông đã cuốn gói ra đi với tình nhân. Cái nôi buông mùng trắng toát, nằm tênh hênh ở góc phòng, bên trong chỉ còn lại cái núm vú cao su thơm thơm mùi sữa. Nàng đã ẵm đứa con trai duy nhất của ông cò dông luôn một mạch.

Ông chỉ tìm kiếm qua quít. Nếu ông huy động guồng máy truy tầm của cảnh sát thì chắc chắn cô vợ trẻ gian dâm và đứa hài nhi vô tội đã được tìm thấy.

Ông cò Fosse quay lại nếp sống độc thân. Từ đó, ông có hoàn cảnh phục vụ đắc lực hơn. Ông khỏi phải về nhà sau giờ làm việc. Ông được tự do ăn ngủ ngay tại văn phòng. Và chẳng bao lâu ông cò Fosse được cấp trên lưu ý, bổ nhiệm làm trưởng ban thẩm sát, nghĩa là làm cò xếp.

Danh tiếng ông cò xếp nổi lên như cồn. Ông điều khiển hệ thống điều tra truy tầm của công an Pháp. Bên ngoài nước Pháp, người ta vị nể ông. Dư luận trong nước coi ông như viên ngọc quý. Bọn đầu trộm đuôi cướp chỉ nghe nói đến ông cò Fosse là sợ xanh mặt. Chúng bạt vía vì ông tài giỏi, đứa nào ló đầu ra là bị ông tóm bắt như lấy đồ trong túi. Ông cò Fosse phụ trách vụ nào kể như vụ ấy thành công chắc chắn. Ông nghiên cứu kỹ hồ sơ, thuộc lòng từng dấu phẩy, nhớ từng cái nốt ruồi hay cái mũi hiếng của tên tình nghi. Sau đó ông theo dõi nội vụ cả ngày, cả đêm, không biết ngày chủ nhật, ngày lễ và dịp nghỉ hè mỗi năm là gì nữa. Ông hăng say làm việc cho đến khi phăng ra manh mối, rồi ông đích thân thộp cổ thủ phạm. Xong xuôi, ông cò mới có thể ăn no, ngủ yên.

Ông cò được mời điều tra một vụ án lớn. Và như thường lệ, ông đã thành công vẻ vang trong khi mọi người khác thất bại não nề. Nhưng khác với thường lệ, sự thành công vẻ vang này đã chôn vùi đời ông.

Một bọn gian hoành hành trong nhiều tháng liền ở miền bắc nước Pháp. Nông thôn Normandie đang sống trong cảnh yên hàn bỗng nhiên đất bằng dậy sóng. Xe chở thực phẩm từ vùng quê lên thành thị bị bọn bất lương chặn dọc đường, đòi tiền mãi lộ, hoặc cướp sạch. Như vậy cũng chưa đủ, chúng còn đánh đập dã man nạn nhân. Nửa đêm, chúng ngang nhiên gõ cửa tư gia, đột nhập vào lột hết vàng bạc, tịch thu tiền cửa, chủ nhà không dám hó hé vì chúng dọa giết chết. Mọi vụ cướp bóc đều diễn ra một cách chu đáo. Bọn gian không hề lưu lại dấu vết. Chúng ăn hàng thật nhanh. Dường như chúng có tay trong ở khắp nơi. Bằng chứng là chúng đến cũng như đi đều như điện xẹt, lực lượng an ninh địa phương không tài nào xoay xở kịp.

Nếu bọn gian chỉ nghĩ đến cướp bóc, đánh đập thì có lẽ chúng còn ngự trị thêm một thời gian nữa. Nhưng chúng đã làm máu đổ. Một buổi sáng kia, một cặp vợ chồng già bị giết chết ngay trong nhà. Vụ án mạng xảy ra tại một nông trại nhỏ thuộc ngoại ô thành phố đại kỹ nghệ Lille. Thị trấn này chưa hề gặp nạn giết người cướp cửa vì công an cảnh sát hoạt động hữu hiệu. Rõ ràng là bọn gian muốn vuốt râu hùm…

Cặp vợ chồng già nạn nhân được coi là hiền lành, phúc đức, xóm giềng rất có cảm tình. Bọn gian giết xong, cướp sạch sành sanh. Giết lương dân vô tội đã là chuyện quá đáng, đằng này vợ chồng nạn nhân lại gần như hoàn toàn tàn tật, tai điếc, mắt lại nửa mù nữa…

Dư luận đều tỏ ra công phẫn. Họ đồng thanh yêu cầu nhà chức trách xúc tiến công cuộc truy tầm hung thủ. Sau một thời gian hoạt động ráo riết, công an Lille hân hoan loan tin đã bắt được một kẻ tình nghi. Tên hắn là Croquille. Hắn làm tá điền ở Armentières, vùng bên cạnh, tóc đen, gương mặt sần sùi, không mấy khả ái. Người ta gặp hắn nằm ngáy khò khò trong cái hố gần đường vào thị trấn. Hắn ngủ say đến nỗi chẳng biết trời đất gì nữa. Ngửi miệng hắn chỉ toàn rượu là rượu. Hắn bị tóm vì quần áo và giày hắn dính máu. Giải về bót, Croquille không giải thích được tại sao lại rây máu trên người. Tuy nhiên, hắn mồm loa mép giải bào chữa là hắn không dính dấp đến vụ thảm sát.

Những người quen biết Croquille đều không tin hắn là thủ phạm. Hắn là kẻ vô trách nhiệm, rượu chè bê bối. Hắn có thể ăn trộm quả trứng gà hoặc lượm đồng bạc rớt trên đất nhét vào túi và nhận của mình. Song từ trước đến nay, hắn chưa hề làm chuyện dữ. Hắn lại ngu như bò. Nằm xuống là ngáy vang như sấm. Óc hắn đặc sệt, như thể chứa toàn đất và phân. Muốn làm thủ phạm giết người không gớm tay này ít ra Croquille phải ranh khôn. Vừa ngu như bò hắn lại hiền như đất.

Công an Lilli cũng hết sức bối rối. Họ thẩm vấn Croquille ngày này sang ngày khác vẫn không tìm ra chị tiết nào khả dĩ lôi được hắn ra tòa. Bị đánh đau, hắn thú tội nhưng chỉ ít lâu sau, hắn lại chối tội. Công an khám nhà hắn, gọi là nhà kỳ thật là cái ổ chuột bẩn thỉu. Họ nghiên cứu từng phân vuông đất mà chẳng thấy gì. Nếu Croquille giết cặp vợ chồng già, lấy hết đồ quý thì hắn cất giấu ở đâu?

Công an bèn dỗ dành hắn. Họ hứa giảm án thật nhẹ nếu hắn chịu khai thật, đồng thời tố cáo đồng lõa. Ai là đầu đảng? Sào huyệt đảng cướp ở đâu? Ngoài hắn ra, trong đảng còn những tên nào nữa? Cuộc thẩm vấn lại tiếp tục. Croquille lại cung khai tiền hậu bất nhất. Vụ thảm sát đành nằm chết trên bàn giấy. Các viên chức công an thở dài nhìn nhau, hy vọng phép màu xảy ra…Và phép màu xảy ra thật.

Các nhân sĩ trong thị trấn nhóm họp và bầu ra một ủy ban. Ủy ban Nhân sĩ này tiếp xúc với ông đô trưởng, đòi đẩy mạnh cuộc điều tra, chóng đem thủ phạm ra tòa xét xử. Họ đưa ra một thỉnh nguyện, bãi những viên chức công an bất lực địa phương và lên tận Ba lê mời ông cò Fosse về. Họ tin chắc ông cò Fosse nhận lời. Trên nguyên tắc, ông Fosse điều khiển toàn bộ ngành điều tra, nếu dân chúng Lille thỉnh nguyện, ông có bổn phận đích thân đảm trách nội vụ. Phương chi ông cò còn là con dân miền bắc, ông không thể từ chối thỉnh nguyện của bạn đồng hương.

Ủy ban Nhân sĩ đoán đúng. Nhận được thỉnh nguyện, ông cò Fosse rời Ba lê ngay. Ông đã nghe nói đến vụ thảm sát. Chính ông cũng sôi sục căm phẫn.

Ông cò Fosse là một thẩm sát viên đặc biệt. Ông kị nhất sự lầm lẫn, mặc dầu nghề điều tra không khác nào lạc vào mê hồn trận. Ở đâu cũng thấy lầm lẫn. Trên thực tế, ông cò chưa hề lầm lẫn trong bao nhiêu năm cầm đầu ngành điều tra hình tội. Ông luôn luôn đặt nặng vấn đề công lý. Ông thường tuyên bố:

-Đời tôi có hai phương châm. Thứ nhất, người vô tội phải được bảo vệ, hàm oan phải được giải. Thứ hai, kẻ có tội phải đền tội. Không thể lầm lẫn giữa vô tội và có tội.

Đối với bọn sát nhân, ông cò Fosse xuống tay không hề thương tiếc. Ông bảo cướp của đã không thể tha thứ, cướp của rồi còn giết người thì bắt buộc phải lãnh án tử hình, lên đoạn đầu đài. Cho nên khi đến thị trấn Lille bắt tay vào vụ thảm sát, ông cò Fosse đã tự nguyện tóm cổ tên đầu đảng và bọn cướp khát máu, đưa cả lũ lên máy chém. Hồi ấy, tử tội Pháp còn bị chặt đầu bằng dao máy.

Dân chúng thị trấn thở phào, cất được gánh nặng trên ngực khi thấy bóng dáng ông cò Fosse. Ông đóng chặt cửa phòng, mang tập hồ sơ dày cộm ra đọc đi đọc lại. Ông cho khai quật tử thi của cặp vợ chồng già, xem xét tường tận vết thương và quần áo nạn nhân. Ông đến nơi xảy ra vụ thảm sát, quan sát từng rễ cây, dùng kính hiển vi phân tích từng hạt bụi. Ông giành thật nhiều thời giờ hỏi chuyện dân chúng sống gần phạm trường. Mọi chi tiết hữu ích cũng như vô ích đều được ông ghi chép đầy đủ. Đoạn ông trở về nhà giam, thẩm vấn Croquille trong nhiều giờ đồng hồ không nghỉ. Sau đó, ông ra lệnh xếp quần áo Croquille thành một gói rồi trèo lên xe đi thẳng.

Thì ra ông cò Fosse về Ba lê. Thị trấn Lille chưa có đủ phòng thí nghiệm tối tân để làm những việc ông đòi hỏi. Vả lại, ông cò cần một thời gian ở xa để suy nghĩ.

Nhiều ngày sau đó, ông cò Fosse gõ cửa văn phòng ông đô trưởng Lille. Ông đô trưởng mừng rú:

-Thế nào, ông cò, ông đã tìm ra bằng chứng Croquille là hung phạm chưa?

Ông cò Fosse đáp:

-Rồi. Nhưng đây lại là bằng chứng Croquille vô tội.

-Trời đất, hắn vô tội thì ai có tội bây giờ?

-Tìm kẻ có tội là chuyện sau. Về phần Croquille, có 3 điều chứng tỏ hắn vô can. Thứ nhất, tôi đã nậy những bụi bám ở móng tay hai nạn nhân mang đi thử nghiệm, những bụi này là tóc và da của hung thủ, do hai nạn nhân cào quấu, kháng cự nên có. Các chuyên viên cho biết hung thủ là người có nước da trắng, tóc cũng không đen. Ông đô trưởng hẳn nghe nói Croquille có nước da đen ròn, tóc hắn cũng đen như người phương đông. Chỉ riêng điều thứ nhất đã đủ cứu Croquille. Huống hồ còn điều thứ hai…

-Nhưng còn những vết máu trên quần áo hắn?

-Tôi sắp nói với ông đô trưởng đây. Những vết máu này không phải là máu người. Mà là máu…gà.

-Máu gà?

-Phải. Chuyên viên còn nói rõ đây là máu gà đã lâu, chứ không phải máu gà mới. Nghĩa là cách đây khá lâu, thằng Croquille ăn trộm gà, cắt tiết mổ thịt, máu gà rây vào áo. Ông đô trưởng muốn bỏ tù hắn thì bỏ, tôi không dám ngăn, nhưng thiết nghĩ cái tội ăn trộm gà này không quá nặng để hắn bị giam lâu.

-Vậy, tôi phải trả tự do cho Croquille?

-Chưa, xin ông đô trưởng cứ để hắn nằm nhà đá thêm ít ngày nữa. Tôi đang cần ru ngủ hung thủ.

-Ông cò đã phanh phui ra hung thủ?

-Vâng, tôi chưa thể nói hung thủ là ai, song tôi nghĩ ngoài hắn ra thì chẳng còn ai vào đấy nữa. Đó là điều thứ ba tôi định thưa với ông đô trưởng. Croquille có tiếp tục ngồi tù thì hung thủ mới huênh hoang tự mãn, và càng vây vo, hắn càng dễ rơi vào lưới của tôi. À, tôi yêu cầu ông đô trưởng…

-Ông cò muốn ân huệ gì tôi cũng làm vừa lòng ngay. Dầu sao…

-Ông đô trưởng hiểu lầm câu nói của tôi. Tôi không bao giờ nghĩ đến ân huệ cá nhân. Ông đô trưởng đã biết gia cảnh của tôi. Tôi hiện sống một thân một mình, vợ không có, con cũng không, có được đứa con đáng yêu thì mụ vợ lăng loàn dâm đãng bế đi mất. Ông đô trưởng tính coi, hồi có gia đình tôi còn không xin xỏ, huống hồ bây giờ…

-Ông cò tha lỗi, tôi vốn phổi bò, nghĩ sao nói vậy. Ông cò cũng là dân miền bắc như tôi, dân miền bắc bộp chộp mà tốt bụng, phải không ông cò?

-Thưa phải. Tôi đâu dám giận ông đô trưởng vì một chuyện vô nghĩa như vậy.

-Hỏi ông khi hơi tò mò…Bà vợ cũ của ông cò hiện ở đâu?

-Tôi không biết. Nếu biết tôi cũng không tìm tới. Chuyện đã lâu rồi, gần hai chục năm nay, tôi không ngờ nàng có thể tệ bạc đến thế.

-Nhưng còn con. Còn hột máu độc nhất của ông. Ông không thương bà ấy thì thôi, chẳng lẽ ông bỏ cháu. Tôi biết ông cò lắm. Bề ngoài ông cương quyết, nét mặt phớt lì, song bên trong…bên trong lòng ông…tôi nghĩ rằng ông vẫn thương, vẫn nhớ con. Con gái hay con trai, hả ông cò?

-Con trai.

-Giờ đây nếu nó còn sống, nó phải hơn 20. Chà…phụ tử tình thâm, giá Trời cho hai cha con đoàn tụ nhỉ?

-Chẳng giấu gì ông đô trưởng, từ nhiều năm nay tôi cảm thấy không vui. Tôi lăn xả vào công việc là để cố quên mà không quên được. Nếu Trời run rủi cho cha con tôi gặp nhau thì sung sướng nào bằng. Nhưng thôi, nhiều người khách đang chờ ông đô trưởng ở phòng ngoài, tôi làm ông đô trưởng mất quá nhiều thời giờ vô ích.

-Chẳng sao, được tâm sự với ông cò là một hân hạnh cho tôi.

-Xin chào ông đô trưởng.

-Vâng, xin chào ông cò. Chừng nào ông cò báo tin mừng cho đồng bào Lille?

-Về hung thủ cướp của giết người ấy à? Chỉ xin thư thả cho tôi ít ngày nữa. Vì tôi cần bắt trọn ổ.

Thật vậy, Ông cò Fosse đã đặt sẵn kế hoạch bắt trọn ổ đảng cướp. Vì vụ thảm sát là do một đảng cướp gây ra. Qua một số mật báo viên và tin tức chính xác, Ông cò Fosse đã phăng ra lai lịch tên đầu đảng. Tên hắn là Tourdeau, Jacques Tourdeau. Ông chưa thề tống giam hắn vì còn thiếu bằng chứng quyết định. Nhưng nếu Croquille bị nằm tù, nếu ông đô trưởng tung tin Croquille sẽ bị truy tố về tội thảm sát, và chắc chắn bị kết án tử hình thì Tourdeau và bè lũ sẽ hớ hênh để lộ những bằng chứng quyết định…

Tourdeau còn trẻ, hắn không xí trai, mặt hắn không đến nỗi đần độn thế mà học hành chẳng có bao nhiêu. Dường như hắn hoàn toàn i-tờ-rít. Hắn sống bằng nghề bán hàng rong. Không phải bán ở dọc đường mà là bán đồ gia dụng tận nhà. Hắn đi khắp hang cùng ngõ hẻm miền bắc, nhà nào hắn cũng đến. Lối bán hàng rong này chỉ là tấm bình phong cho nghề thật của hắn, nghề đi ngang về tắt, nghề trèo tường khoét vách. Lợi dụng vào nhà dân chúng, Tourdeau thấy đồ vật đáng giá là tính chuyện bất lương. Thoạt tiên, hắn chỉ ăn cắp, ăn trộm cò con, dần dà hắn kết thân với nhiều tên lưu manh, côn đồ khác, họp thành đảng, rồi Tourdeau không thèm gian vặt nữa. Hắn làm những mẻ hàng lớn, tính toán kỹ càng, chắc ăn mới xuất quân, cũng kỹ càng không kém ông tướng ngoài mặt trận. Tourdeau thất học, song có khiếu chỉ huy. Nhiều kẻ lớn tuổi hơn hắn mà vẫn nhận hắn làm xếp sòng. Ăn quen bén mùi, Tourdeau bố trí vụ cướp nhà cặp vợ chồng già. Nạn nhân kháng cự, hắn bèn hạ sát.

Ông cò Fosse cho người bám sát Tourdeau ngày đêm. Hắn vô tình dẫn ông đến đồng bọn của hắn. Chẳng bao lâu ông cò Fosse đã có trong tay bộ địa chỉ và tên tuổi những kẻ có chân trong đảng cướp của Tourdeau. Ông bèn lừa chộp mấy tên rút rát trong bọn. Chưa đánh bọn này đã khai. Dĩ nhiên, chúng đổ hết tội cho đầu đảng. Và tên đầu đảng Tourdeau không phải là tay mơ. Tourdeau chỉ là tên giả, hắn dùng ít nhất 9 tên giả khác nhau. Hắn từng dúng tay vào hàng chục trọng tội. Sở dĩ hắn vẫn khơi khơi ngoài vòng pháp luật vì hắn khôn ngoan nhất mực. Ăn vụng xong, hắn chùi mép rất giỏi.

Ông cò Fosse đào sâu dĩ vãng thối tha của Tourdeau và được biết nguyên nhân hắn sống nghề trộm cướp là do cha ghẻ của hắn. Một tên côn đồ giết người không gớm tay như Tourdeau còn được tự do ngày nào là ngày ấy an ninh chung còn bị đe dọa. Ông cò Fosse quyết định phục hồi an ninh chung cho thị trấn Lille và vùng phụ cận.

Đúng 3 tuần sau ngày đến Lille, ông cò Fosse ra lệnh cho công an dưới quyền vây bắt toàn bộ đảng cướp. Đích thân ông cò Fosse vây bắt tên đầu đảng Tourdeau.

Đêm ấy, không hiểu sao ông cò Fosse chỉ ngồi uống cà phê. Ông uống hết ly này đến ly khác. Trời đã tang tảng sáng mà ông vẫn còn ở trong phòng giấy. Lẽ ra ông phải đi ngủ từ sau nửa đêm. Cuộc thẩm vấn Tourdeau đã kết thúc sớm. Mặt câng câng, Tourdeau khai hết. Hắn coi án khổ sai như chuyện đùa. Cho dẫu phải lên máy chém nữa, hắn cũng không ngán.

Ông cò Fosse không hỏi cung bọn cướp. Ông tình cờ vào phòng, đọc lời thú tội của Tourdeau. Hắn mặc sơ mi ngắn, cánh tay xâm đầy. Ông hỏi hắn:

-Anh thích xâm mình?

Hắn đáp:

-Cũng chẳng thích lắm. Hồi nhỏ, mẹ tôi xâm ở lưng tôi, nên tôi bắt chước.

-Xâm cái gì?

-Ồ, mẹ tôi có hoa tay. Bà ta xâm cho tôi con dao, nói là con dao trừ được ma quỷ.

-Lưng anh xâm hình con dao hả? Đâu nào, anh chìa ra tôi xem.

Tourdeau trợn mắt nhìn ông cò Fosse, ra vẻ sửng sốt tột độ. Ông cò hơi tái mặt nhưng trời tối, ánh đèn nê-ông xanh ngắt nên không ai để ý. Tên đồng đảng nhún vai đoạn cởi áo sơ mi. Hình con dao mũi nhọn hoắt nằm tréo dưới bả vai trái.

Ông cò Fosse lẩm bẩm:

-Con dao nhọn…bả vai trái…!

Tourdeau chắt lưỡi:

-Vâng…ở bả vai trái. Ông thấy hình xâm có đẹp không? Mẹ tôi chẳng học trường nào mà vẽ đẹp không thua học sĩ.

Giọng ông cò Fosse bỗng mất bình tĩnh:

-Mẹ anh ở đâu?

Tourdeau đáp:

-Dưới đất.

-Nghĩa là đã chết. Mẹ anh chết khi nào?

-Không biết.

-Còn cha anh?

-Ông cò hỏi cha nào? Cha thật hay cha ghẻ.

-Cả hai.

-Cha ghẻ tôi dường như còn sống. Còn cha thật của tôi thì ông ta sống cũng như chết, ông ta bỏ tôi một cách tàn nhẫn khi tôi còn ẵm ngửa. Hừ, ông cò ơi, ông gợi chuyện gia đình tôi làm gì. Ông bắt được tôi, chắc ông khoái lắm. Tôi khó thoát khỏi máy chém, phải không ông cò? Nhờ ơn ông ấy…Phen này ông sẽ được gắn thêm mề-đay. Ha ha…ông sẽ được tăng lương…ông sẽ được lên chức. Ha ha…

Ông cò Fosse lặng lẽ cúi đầu, lẻn ra khỏi phòng thẩm vấn. Rồi ông về phòng, lặng lẽ hút thuốc lá và uống cà phê.

Ông cò Fosse đốt hết mấy gói thuốc lá, uống hết mấy phích cà phê trời mới chịu sáng rõ. Ông không buồn thay quần áo nhầu nát, dùng điểm tâm, chào hỏi đồng liêu. Ông mở cửa hông ra đường, trở lại thủ đô Ba lê. Và ngay sau khi đến Ba lê, ông đệ đơn từ dịch. Ông thui thủi về quê nhà ở Flers, sống mai danh ẩn tích cho đến khi mãn chiều xế bóng.

Tại sao Ông cò Fosse lại bỏ việc đột ngột giữa lúc ông thành công rạng rỡ?

Đến đây chắc bạn đọc đã có thể tìm ra giải thích. Sinh ư nghệ, tử ư nghệ, phải không các bạn? Sự đời thật oái oăm và đau đớn. Nếu ông cò Fosse không là đệ nhất thám tử nước Pháp thì đâu đến nỗi. Thì vợ ông không bỏ ông. Thì đứa con trai độc nhất không tha phương cầu thực. Và sau này nó không trở thành tên cướp chúa. Để bị cha nó bắt giam, lập hồ sơ, đưa ra tòa, lãnh án tử hình, rồi lên đoạn đầu đài đền tội.

Nó là Tourdeau. Cha nó là ông cò Fosse. Tourdeau thay đổi tên nên ông cò không biết. Đến khi biết là con thì đã quá muộn.

Ô hô…

Chú thích:

(1) xã này là Villedieu-les-Poêles. Poêle là xoong chảo.

(2) cây sồi này tọa lạc tại Allonville-Bellefosse, cách Yvetot 1 km.

Truyện thứ nhất

Tiến >>

Đánh máy: tran datrau2022
Nguồn: tran datrau2022 - VNthuquan.net-Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 7 năm 2022