ĐẾN đầu phố hàng Khay, Lê-Thành-Vân xem đồng hồ bảo với bạn là nhà thầu Nguyễn-Quang-Oánh:
– Bây giờ còn sớm lắm, ông Vũ-Đại chắc chưa lại đằng hàng Kèn đâu. Ta đi loanh quanh nói chuyện đã.
– Thế ông ta không ở hàng Kèn à?
– Ông ấy ở một tòa nhà rất đẹp cạnh hồ Tây. Nhà hàng Kèn chỉ là chỗ dùng làm phòng giấy và kho chứa các vật liệu. Bây giờ mới hơn hai giờ, chắc ông ấy còn đi xem xét các công việc rải rác khắp Hà-Nội. Ba giờ đúng mới đến phòng giấy.
– Hôm nào cũng như hôm nào?
– Trừ những hôm đi vắng, còn thì đúng giờ lắm.
– Nghề thầu khoán mà nói đúng giờ như các viên chức nhà nước thì không được. Nếu thợ thuyền các nơi biết thế, cứ chơi, chờ đến giờ mình lại mới giả vờ cắm cúi vào làm việc thì mình biết đấy là đâu.
– Tôi đã bảo với bác, ông Vũ-Đại là một nhà đại doanh nghiệp đủ tư cách, lại là một tay kinh tế sành sỏi không dùng những lối «rình mò» nhỏ nhen ấy đâu.
– Nhỏ nhen để lấy được việc cho mình, có sao?
– Mỗi người một ý kiến, một cách làm việc. Tôi xem ông Vũ-Đại chẳng cần phải theo cái lối ấy cũng chạy công việc lắm. Ông ta xếp đặt công việc theo một phương pháp riêng, một chương trình nhất định. Ví dụ sở lục lộ hay các tư gia gọi thầu một việc gì, ông ta xem xét kỹ càng, lấy con số cân nhắc lỗ lãi rất phân minh, rồi mới bỏ thầu. Gia dĩ ông ta sẵn vốn, sẵn vật liệu đã mua trong khi giá rẻ, nên bỏ hạ lắm, thường thường là thầu được. Khi đã thầu được việc gì rồi, ông ta cho gọi các tiểu thầu khoán và các cai đến, tùy tài, tùy sức mà phân phát công việc cho họ làm, để cho họ một cái lãi tương đương, nhưng bắt phải có đảm bảo và ký hợp đồng cẩn thận. Ai sai suyễn, ông ta cứ thẳng tay, chả nể nang, chả thương xót gì. Tuy vậy mà nhiều người thích làm với ông ta lắm, vì họ biết chắc rằng nếu cứ làm việc cần mẫn và ngay thẳng thì thế nào cũng có lãi, chẳng ít thì nhiều. Ông ta không bao giờ quá tham lam để cho người làm với mình phải chịu lỗ. Nói về nghề thầu khoán, ông ta rành lắm. Chúng tôi đây tuy tốt nghiệp ở trường Công Chính ra nhưng đối với ông ta, thì thật là chưa bén gót. Ông ta còn nhúng tay vào nhiều việc buôn bán khác, chứ có phải một nghề thầu khoán mà thôi đâu.
– Thế có học hành đỗ đạt gì không?
– Ông ta chỉ học đến năm thứ ba trường Bưởi rồi thôi. Nhưng sự học thức có thể lấy cái bằng làm thước đo sao được. Đối với những con người có chí và thông minh như thế thì vũ trụ là một trường học lớn. Ông ta tuy bận công việc nhưng vẫn chịu xem sách lắm. Tôi có thể cho là người học rộng được. Ông ta đứng đắn ngay thẳng, rất nhã nhặn, biết người biết của lắm. Tôi xét nếu bác muốn vào Trung kỳ làm ăn thì chỉ có ông ta là có thể giúp bác. Ông ta vừa có tài, có lực, lại mới thầu được nhiều công việc đường hoả xa trong ấy. Bác cứ tin ở ông ta, chịu khó làm việc mấy năm thì lo gì chẳng gỡ được nợ. Tôi với ông ta đi lại rất thân thế nào ông ta cũng nể tôi mà giúp bác.
-Thôi chỗ anh em, bác cố giúp tôi, nhưng tôi nghe người ta nói ông ta riết róng lắm, vị tất đã ăn thua.
– Con nhà doanh nghiệp thì phải thế, đồng tiền, phân bạc phải phân minh, chi tiêu phải có chừng mực mới mong hưng vượng. Việc không đáng tiêu, thì một xu ông ta cũng chẳng chịu, mà việc đáng tiêu, cần phải tiêu thì bao nhiêu ông cũng chẳng tiếc. Nếu xét có lợi bao nhiêu ông ta cũng can đảm bỏ tiền ra. Con người ấy gan góc lắm mà cũng đáo để lắm. Tôi thật chưa thấy ông ta lừa ai mà cũng chưa ai lừa nổi. Ông ta bản tính thực thà ngay thẳng nên rất yêu người thực thà, ngay thẳng. Nhưng nếu ai trở tráo thì ông thẳng tay trị ngay. Thôi kém năm rồi, ta lại thì vừa.
Một lát sau, hai anh em đã đến trước một ngôi nhà hai tầng ở giữa phố hàng Kèn.
Trước cửa nhà, một cái hàng rào sắt sơn màu «ghi». Xung quanh nhà một khu đất rộng độ ba nghìn thước chứa đầy những gạch, ngói, gỗ, cát. Xe camion, xe bò đậu thành hàng ở phía tường bên trái.
Trước khi bước vào cửa, Lê-Thành-Vân còn dặn bạn:
– Bác phải nhớ, nếu ông Vũ-Đại có hỏi điều gì thì cứ thực tình mà nói không nên dấu diếm úp mở. Đối với những con người như thế, thực thà là được việc nhất.
Nhà này theo lối Tây, đơn giản và chắc chắn. Tất cả có sáu buồng. Những buồng ở dưới là chỗ làm việc của các cai và thơ ký. Còn ba buồng trên gác thì một buồng để khách ngồi chờ, ngay đầu cầu thang, buồng giữa là buồng của các người đốc công, đằng đầu này là buồng giấy của ông chủ. Hai người vừa bước lên khỏi cầu thang đã có người loong toong chạy ra.
– Kìa, bác Tâm, thế nào, ông chủ đến chưa?
– Lạy ông. Bẩm ông chủ con ba giờ đúng mới lại, mời hai ông vào ngồi chờ trong buồng. Xin ông cho cái danh thiếp …
Lê-Thành-Vân móc túi lấy danh thiếp đưa cho bác Tâm rồi dắt bạn vào ngồi trong phòng.
Phòng này bày biện sơ sài. Ở giữa là một bộ sa-lông bằng gỗ lát đóng theo lối mới, giản dị và bền chặt. Đối diện với bộ sa-lông là cái lò sưởi, trên có treo một cái gương lớn. Ở phía tường bên trong, có một cái cửa sơn xanh thông với buồng người đốc công. Hai bên cửa kê hai cái bàn nhỏ trên để các thứ nhật trình và tạp chí. Xung quanh tường, có treo bốn bức địa đồ: Bắc kỳ, Trung kỳ, Đông-dương và Hà-nội: Xen với các bức địa đồ là những khung ảnh chụp các kiểu nhà làm theo đủ các lối kiến trúc. Một cái đồng hồ quả lắc treo ở giữa buồng bên trái, ở dưới là tập lịch. Khắp bốn góc huồng có bày các mẫu ngói tây, gạch hoa. Toàn thể các đồ đạc chẳng có gì là sang trọng, đại để thứ nào cũng đơn sơ bền chặt đủ tỏ cho ta biết chủ nhân là người ưa giản dị.
Lúc Lê-Thành-Vân và bạn vào đến nơi thì đã có bốn năm người ngồi đợi ở đây.
Coong, coong, coong. Đồng hồ vừa đánh dứt ba tiếng đã nghe tiếng xe hơi đỗ trước cửa. Mấy người khách ngồi gần cửa sổ, đều đứng dậy dòm ra ngoài.
Lê-Thành-Vân sẽ quay đầu nhìn bạn dường như có ý bảo:
– Đấy, tôi đã bảo bác, con người mà ta sắp được thấy đây, làm việc đúng giờ lắm.
Năm phút sau, bác Tâm lại cúi đầu trước hai người:
– Ông chủ con mời hai ông vào.
Bác đưa hai anh em qua suốt dọc hiên rồi vào văn phòng.
Phòng này rộng rãi, sáng sủa. Có bốn cửa sổ. Bên trái có cửa thông sang buồng người đốc công. Xung quanh tường có cái tủ kính sắp đầy sổ sách, gọn gàng, thứ tự. Giữa buồng kê một cái bàn giấy rộng, phủ dạ xanh, đầy những giấy má. Hai cái ghế bành bằng da để cho khách ngồi, kê sát với buồng giấy. Đối diện, ở phía bàn đằng kia, là cái ghế xoay chủ nhân ngồi làm việc. Sau lưng chủ nhân kê một cái tủ sắt hiệu Bauche. Trên nóc tủ sắt có để một quả địa cầu màu xanh đỏ tương phản hẳn với màu đen của cái tủ. Một chiếc tủ kính rộng, thấp, chia ra từng ngăn, trong bày ngăn thủy tinh chứa các thứ lâm sản, nông sản: Chủ nhân là một nhà thương mại kiêm thực nghiệp,
Bốn bề im lặng, chỉ có tiếng vù vù của cánh quạt trần, xen với tiếng máy chữ lạch cạch ở buồng bên.
Nguyễn-Quang-Oánh tưởng chừng như mình vào văn phòng của một quan đại hiến người Pháp nào. Ông liếc nhìn con người đứng trước mặt mà ông rụt rè. Chính ông cũng là một người giao thiệp rộng, đã thừa tiếp đủ các hạng người, nhưng ông chưa từng thấy người nào khí phách hùng tráng như thế.
Vẻ mặt nghiêm nghị, khắc khổ như tạc vào đá. Giọng nói choang choáng như chuông, hai con mắt sáng quắc, nhìn chòng chọc như thấu suốt đến tâm can.
Một điều khiến cho Nguyễn-Quang-Oánh lấy làm lạ là cạnh đầu bàn giấy, về phía bên hữu, có hai cái ghế nhỏ và thấp sơn son thiếp vàng. Trên mặt ghế có hai cái nệm gấm đỏ thêu hai chiếc tàu bay bằng chỉ kim luyến. Một cái bàn lục lăng khuôn khổ tương đương với ghế kê ở khoảng giữa. Trên mặt bàn có bày hai con khỉ bằng cao su, một lọ kẹo, một chai Vittel và hai cái tách nhỏ. Ở dưới chân ghế, có một bàn cờ hùm nước đi kẻ xanh mà ông Hùm thì làm bằng ngà trông giống lắm.
Những thứ đồ chơi của bé con màu sắc lòe loẹt ấy trái ngược hẳn với vẻ trang nghiêm của những đồ đạc gian buồng. Nó khiến Nguyễn-Quang-Oánh phải tự hỏi: «Không biết chủ nhân bày những thứ ấy ở đây làm gì? Không lẽ một người như thế kia lại chơi cờ hùm? »
Khi Vũ-Đại thấy hai người vào, đứng dậy bắt tay mời ngồi. Lê-Thành-Vân giới thiệu ngay:
– Ông Nguyễn-Quang-Oánh, thầu khoán ở Vĩnh-Yên anh họ tôi …– Ông Vũ-Đại.
Không để cho mất thì giờ về những câu sáo rườm rà, Vũ-Đại hỏi ngay:
– Chẳng hay bác đưa ông lại đây có việc gì đấy?
Dường như đã hiểu rõ tính bạn, Lê-Thành-Vân đáp:
– Chẳng dấu gì bác, ông Nguyễn-Quang-Oánh vừa là anh họ, vừa là bạn học rất thân với tôi hồi nhỏ. Gặp hồi kinh tế, thầu mấy việc lỗ cả. Nay muốn vào Trung kỳ làm ăn, vậy xin bác nghĩ tình tôi xem có việc gì, làm ơn cất nhắc dùm cho.
Vũ-Đại ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
– Bác đã giới thiệu, tôi xin hết lòng. Hiện tôi đang thầu được nhiều việc cầu cống về đường xe lửa trong ấy, vậy ngày kia, đúng chín giờ sáng, xin mời lại đây, thế nào tôi sẽ trả lời dứt khoát.
Biết bạn nói thế là đủ rồi, Lê-Thành-Vân bèn đứng dậy cáo từ.
Lúc Vũ-Đại tiễn hai người ra cửa, Nguyễn-Quang-Oánh được thấy một người cao lớn vậm vỡ, dáng đi lanh lẹn, rõ là con người hoạt động, mà cái nước da ngâm ngâm đen như đã quen dạn dày với mưa nắng.
Vũ-Đại mới trạc ngoài ba mươi, nhưng ông thuộc về hạng người mà ta không thể xem nét mặt đoán tuổi được. Ra người ngoại bốn mươi cũng nên, mà ngót ba mươi cũng nên. Ông là hạng trẻ «già» mà già «trẻ».
Cằm vuông và nở, tỏ ra một người quả quyết. Mũi dọc dừa, nhân trung sâu, trán vồ, trông có vẻ quắc thước, thông minh. Ngực nở, vai rộng làm cho con người mặc bộ áo gai rất thường kia có vẻ ưa nhìn: cái ưa nhìn của con người sức lực mạnh mẽ.
Nguyễn-Quang-Oánh ra tới đường bảo bạn:
– Tôi xem ông ta xử nhạt nhẽo quá, vị tất đã ăn thua gì.
– Tôi quen ông ấy đã lâu, người rất thận trọng lời nói. Ông ấy đã nhận lời là chắc chắn lắm rồi. Nhưng bác nên nhớ hôm nào có lại cứ sự thực mà nói, đừng đắn đo, úp mở gì thì thế nào ông ấy cũng sẽ giúp. Mà nhớ đến cho đúng giờ, đừng để ông ta phải đợi.
Phần Thứ Nhất - 1 -
Tiến >>
Đánh máy : Lê Thy
Nguồn: Nhà Xuất Bản KHAI TRÍ 1971
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 19 tháng 6 năm 2022