Hẹn Giờ Chết

hoàng ly - đỗ hồng linh

Cả Huỳnh, Cả Trọng, Cả Rinh

Trong ba Cả đó, Tây kinh Cả nào?

Bắc Giang, Phủ Lạng thì thào

Rằng Tây kinh nhất Cả nào bắn ghê

Đứng trên ngọn núi bắn về

Chính ông Cả Trọng bắn ghê nhất đời…

Hạ tuần tháng năm...

Một đêm sao thưa, vắng gió. Khắp mấy miệt Phủ Lạng Thương, Nhã Nam, Hữu Lũng, Kép, Bắc Giang, các sơn trấn, sơn thôn nằm im thít dưới sao vơi.

Từ trong các trại lính, đồn binh, tiếng kèn "buồn ngủ tắt đèn” đã cất lên, âm đồng khê khê quen thuộc “đi" trong đêm hơi, tối nay bỗng nghe lê thê rờn rợn như tiếng kèn âm phủ vọng lên gọi hồn người "về cõi".

Hồi hộp, nơm nớp, thiu thiu... Dân gian, lính tráng thỉnh thoảng lại giật mình choàng thức vì một vài tiếng súng gần xa, tiếng vó ngựa, giày đinh tuần tiễu khua rầm rập vờn sát khí.

Sau những ngày giả hoà đầu để giũa vuốt mài nanh, hùm thiêng Yên Thế lại mới vừa rời khỏi hang sâu. Ông Đề Thám lại phất cờ kháng Pháp, và bất kẻ ngày đêm, quân du kích lúc nào cũng có thể bất thần nổ súng vào đầu lính Tây, lính tập, Ả Rập, Lê Dương. Người trong nước thường gọi "ông Đề Thám","Cụ Đề Thám","quân ông Đề Thám"..., nhưng dân miệt Bắc Giang, Phủ Lạng lại gọi “quan Hoàng", “lính quan Hoàng”. Nhiều người tưởng dân Đông Bắc chất phác nôm na, cứ thấy quân cầm súng là gọi “lính”, thực ra không phải vậy. Dân ta chưa bao giờ gọi giặc cướp, thổ phỉ là lính. Cờ Vàng Hoàng Sùng Anh, Cờ Trắng Bàn Văn Nhị, thậm chí đến Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc từng giúp triều đình đánh Tây, lĩnh chức Đề đốc, song dân ta vẫn gọi là “quân Cờ Đen”, “giặc Cờ Đen" chứ không gọi là "lính Cờ Đen"! Với dân, "lính" là loại quân có tính cách chính thống. Ông Đề Thám kháng Pháp, chỉ chiếm cứ được vùng Yên Thế, dân vẫn gọi quân du kích của ông là lính, ngụ ý tôn sùng, ngầm coi là chính thống!

"Lính quan Hoàng!" - chỉ nghe 3 tiếng đầy âm hưởng sùng kính này, ngay cả quan Tây cũng phải nể thầm. Bởi ai cũng biết họ bắn giỏi và xông trận rất dũng cảm, gan lì. Đến tướng của quan Hoàng lại càng xuất chúng. Người ta đồn Cả Trọng, Cả Rinh, Cả Huỳnh, Thống Luận đều có tài “thần xạ", nhất là Cả Trọng, con cả “quan Hoàng". Cả Trọng có biệt tài bắn không cần ngắm “đầu ruồi”, bất kể súng trường, súng lục; từng bắn trúng cả chim bay, bắn xuyên qua lỗ đồng tiền cồng cách xa ngót cả trăm thước. Chẳng những bắn nhanh, bắn trúng, Cả Trọng còn có tài lạ nữa: bắn sống, bắn chết theo ý muốn, tuỳ theo tội địch. Bắn sống tức là bắn cho bị thương nặng, nhẹ - tuỳ vùng thân thể của đối tượng mà xạ thủ ngắm - điều này cũng dễ hiểu và những tay súng giỏi đều làm được. Riêng chuyện bắn chết theo ý muốn mới ly kỳ, bởi Cả Trọng có thể biết trước kẻ địch sẽ chết vào lúc nào sau khi trúng đạn, chưa khi nào sai! Tin đồn đến tai các võ quan, lính tráng Tây ta, nhiều kẻ cười ngất cho là chuyên hoang đường...

Thời điểm này, đã vào đầu thế kỷ 20, các cánh quân Văn Thân, kháng Pháp đã tan. Phan Đình Phùng mất trong Hà Tĩnh; Tham tán Nguyễn Thiện Thuật, Đề đốc Tạ Hiệu (Bãi Sậy) đã bị Hoàng Cao Khải đánh thua, phải thoát sang Nam Ninh (Quảng Tây); Đốc Tít (Đông Triều) bị đày sang Algérie; Cai Kinh, Đốc Ngữ (Phủ Lạng, Yên Thế) người bị bắt, kẻ ra đầu; Đề Kiều (Hưng Hoá) cũng hàng. Riêng chủ tướng quân Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc đã chịu cùng con nuôi là Woòng Nhì rút sang Đài Loan theo lời cầu dụ của sứ giả nhà Thanh, chỉ còn đám dư binh Lương Tam Kỳ chiếm vùng Chu, Mụ. Nay Cờ Đen Lương Tam Kỳ cũng đã đầu hàng, được đóng yên tại chợ Chu, chặn hậu ông Đề Thám; giờ yên các mặt, quân Pháp, quân triều đã lập vòng đai thép quanh chiến khu Yên Thế. Tuy dân miền Đông Bắc nhiều người vẫn ngầm giúp ông Đề, song cũng chẳng thiếu kẻ hám lợi làm trảo nha cho Pháp để triệt các đường tiếp trợ binh lương, vũ khí của “quan Hoàng"…!

Giữa cảnh lâm tuyền Nhã Nam về đêm đầy bí ẩn bỗng hiện ra một bóng người, dáng trẻ, đi vùn vụt êm như chồn cáo về hướng Yên Thế, vẻ thạo đường thuộc lối hết sức.

Khoảng giờ Tý y đã tới ngoại vi vùng chiến khu thiên hiểm, dừng lại ngay đầu hẻm núi, ngó quanh đoạn rúc lên mấy tiếng như cú mèo kêu. Lập tức có tiếng rúc đáp vọng lại, từ trong bóng tối một bóng quân canh xách súng trường hiện ra trên mỏm đá cao xế phía trước.

- Hai mươi giấc tốt, hăm mốt nửa đêm. Sao đến chậm thế?

- Phải đợi tối mới đi được! Lại không dám cưỡi ngựa, sợ chúng để ý!

- Cậu Cả đang đợi! Có ngựa chờ sẵn đấy, vào nhanh đi!

Ba tiếng kiểng gióng lên, một bóng phóng ngựa từ trong núi ra, dắt theo một con ngựa nữa. Bóng trẻ thót lên luôn lưng ngựa, tiếng vó câu tắt nhanh sau vách đá. Cầu vồng Yên Thế trung tâm khu chiến nằm giữa những đợi núi đèo hiểm hóc. Tổng dinh giờ này như đã ngủ dưới sao, giữa một vùng trại quân trấn rải rác theo thế liên hành. Dựa lưng vách núi có một căn nhà sàn. Bên trong, cuối nhà có một chiếc bàn mộc rộng choán hẳn góc sàn, trên trải một tấm bản đồ lớn có ghi rõ các đồn binh Tây, triều, các yếu lộ xuyên sơn… Một cái giá đèn bằng gỗ, cao, trên đặt một đĩa dầu nam cháy vật vờ, hắt ánh sáng vàng úa, loang lổ trên cảnh vật. Một người đàn ông, còn trẻ, nét mặt rắn rỏi, ngồi im như tượng đá, hai con mắt sáng nhìn trừng trừng vào tấm bản đồ quân sự, vẻ đăm chiêu đến căng thẳng.

Bỗng có tiếng vó ngựa dừng rập trước nhà sàn. Người tuổi trẻ thở phào thành tiếng, ngả lưng dựa ra sau.

Cửa mở nhẹ, một người trung niên bước vào kính cẩn:

- Bẩm cậu Cả, người ấy đã vào. Xin gặp cậu!

- Ta đang đợi đây! Thắp thêm lửa cho sáng.

Người trung niên đốt thêm một đĩa đèn, quay ra mời khách vào. Đó là một chàng trai Kinh trạc 24, 25 tuổi, vẻ khôn ngoan, gan góc hơn người. Chính người vừa băng rừng tìm đến cứ địa. Y cúi đầu lễ phép:

- Bẩm cậu Cả...

- Cứ ngồi nghỉ, uống nước đã! Xem chừng chú mệt rồi đó! Ta đã để sẵn một bình trà ướp sen đợi chú!

Chàng trai mới tới ngồi xuống chiếc ghế sát góc bàn, gần người được gọi là “cậu Cả" - tức Cả Trọng, con trai cụ Đề Thám và là vị tướng du kích khét danh thần xạ.

Trà nước, điếu đóm được người hầu bưng ra. Cả Trọng tự tay rót trà ra chén đưa khách. Chàng trai kính cẩn đỡ lấy. Chủ khách đối ẩm ung dung, nhưng trong lòng cả hai đều như biển sóng ngầm. Vị khách chính là người bí mật chỉ huy đội do thám của nghĩa quân Yên Thế, hoạt động bên ngoài. Y quê miệt Hữu Lũng nên các tướng tuỳ cận "quan Hoàng" thường gọi "người ngoài lũng". Đêm nay có việc cơ mật nên y phải vào gặp Cả Trọng.

Cạn tuần trà. Cả Trọng đẩy khay ấm chén sang bên, nhìn y:

- Ta vào việc! Ngoài đó thế nào?

"Người ngoài lũng” lập tức rút trong cán dao rừng ra một cuộn giấy bản, trải rộng trước mặt Cả Trọng. Mặt giấy đầy chữ Nôm, có xen chữ Latinh lẫn con số, nét vẽ chi chít. Giọng y chìm hẳn:

- Thế trận, dân tình, quân vụ... mọi chuyện đều ghi rõ, quân Tây, quân triều ngụy đang thắt mạnh vòng đai. Hiện địch đang tung ra nhiều đội tuần tiễu, di chuyển bất thường, khắp các vùng. Tai hại nhất là lần nay chúng kỹ trước khi tiến đánh, dùng nhiều thổ hào trấn giữ các làng tổng, thả "lính đỏ" khắp nơi tìm bắt những người giúp ta!

- Hừ! Bọn này mới nguy hại!

- Tây đã dẹp xong các miền, hiện đang rảnh tay, mạnh thế, nhắm vào Phủ Lạng Bắc Giang. Dân gian tuy yêu quí ta, nhưng hiện như gà phải cáo! Thổ hào, dân giã Kinh, Mán, Thổ kẻ theo Tây vì cầu an, hoặc vì bạc "xoè", chỉ làm cho có chuyện; nhưng cũng lắm kẻ rất đắc lực, cậy thế mạnh, sục sạo, phá phách khốc hại! Đây, cậu Cả xem sẽ rõ!

Hai người ngồi sát nhau, nói nhỏ to rất lâu. Dưới ánh lửa, cặp mày Cả Trọng nhiều phen nhíu lại, mắt như bốc cháy nhìn mảnh giấy trên bàn. Chợt "người ngoài lũng" cao giọng:

- Còn viên Chánh tổng vùng Hữu Lũng...

Cả Trọng bật ngồi thẳng lưng, hỏi dồn:

- À, tên đó... sao? Chú đã gửi được tờ án thư cuối cùng cho hắn chưa?

- Dạ! Đã gửi tới tay! Hắn xem xong cười ngất, đọc cho thủ hạ nghe, cùng cười rộ! Hắn bảo, hùm con rời hang ổ mò ra ngoài... sẽ thành dê con sa rọ, còn hòng doạ ai! Hắn còn lớn tiếng thề sẽ bắt hết những ai giúp du kích Yên Thế, và gửi cả tờ giấy lên Bắc Giang cho quân Tây để tỏ dạ trung thành!

Cả Trọng gật gù, ngồi im. "Người ngoài lũng" hỏi khẽ:

- Thưa, chẳng hiểu lệnh chủ tướng nhà... ra sao? Xem chừng kẻ ác đó không khi nào chịu hối cải!

- "Người" bảo bất đắc dĩ mới phải tỉa lá sâu, vì tỉa đi, lá khác lại sâu, tỉa nhiều chỉ làm cho lòng người khủng khiếp! Phải bón cho cây tươi tốt, phải bắt sâu tận gốc! “Người" muốn đánh thẳng vào quân Tây, phá đồn trại, phá vỡ vòng đai hơn là tỉa từng con sâu con kiến!

- Nhưng lúc này con sâu cái kiến đang phá hoạt, cắn đốt dân gian, làm nhiều người sợ không dám giúp ta! Nếu kẻ theo giặc không bị trừng trị, chúng sẽ đua nhau nhởn nhơ phò địch hại ta càng nhiều, và dân chúng sẽ chán nản, cầu an hết, vì không thấy thiện ác đáo đầu, không tin tài sức ta nữa! Trừ được kẻ ác cũng là bảo vệ cho người giúp ta! Theo ý kẻ này, giờ nên trừ sâu kiến, đợi khi mạnh sẽ cho một mồi lửa lớn!

Cả Trọng trầm mặt, lặng lẽ rít một hơi thuốc lào, vẻ cân nhắc trước đề nghị của kẻ bộ thuộc, hồi lâu mới thong thả đáp:

- Chú nói đúng! Ta sẽ định kế hoạch ngay đêm nay! Chú đã rõ hết địa thế rồi chứ?

- Dạ...cả miệt Hữu Lũng, Nhã Nam, Phủ Lạng, Kép... tôi thuộc kỹ, còn trại viên chánh tổng đó thì rõ từng viên gạch, từng tay súng! Cậu Cả chỉ cần đem một đại đội tới là đủ!

- Còn lộ trình và thói quen di chuyển của hắn?

- Dạ, hắn đi đâu cũng đem theo ít nhất 30 tay súng! Hắn đi về bất thường, nhưng lại có lệ ngày thứ bảy hay ra tỉnh gặp quan thầy, chiều chủ nhật mới trở về Hữu Lũng. Như tối nay, hắn hiện có mặt ngoài Bắc Giang!

- À, hay lắm! Chắc chắn hắn sẽ đi qua quan lộ?

- Dạ, chắc chắn! Vì đó là con đường yên nhất, đầy đồn binh, nên hắn thường đi con đường đó về qua Hữu Lũng!

- Được! Vậy chiều mai tên đó sẽ chết! Ta sẽ định giờ sau!

- Cậu Cả đem binh phục đánh giữa ban ngày ư? Không nên! Tây hiện đang kiểm soát gắt, đường đó chạy giữa các đồn binh... Cậu Cả đừng vào trọng địa, nguy hiểm!

- Chú yên tâm! Ta không tấn công mở trận với con kiến con sâu độc, ta chỉ cần một viên đạn! Sáng mai, chú theo làm hướng đạo, chỉ mặt hắn cho ta. Mình sẽ có thêm 3 tay súng vệ thuộc rừng!

- Tất cả chỉ có 5 tay súng! Bẩm, liệu cậu Cả… có mạo hiểm, khinh xuất quá không?

- Không ngủ kỹ, ăn no trước khi ra quân mới là khinh xuất! Giờ chú hãy đi ăn cơm rồi đánh một giấc cho đẫy. Sáng mai ta lên đường!

…Núi rừng còn ngậm hơi sương, 5 thớt ngựa đã rời khu Tổng dinh Yên Thế, tiến về hướng chếch Đông. Cả 5 con ngựa đều thuộc loại chiến mã, giống ngựa Nước Hai Cao Bằng, đanh sắn, thạo đường núi quen vượt suối băng đèo, chạy kiệu băm, kiệu nhỡ rất êm.

Đường xuyên sơn nhỏ hẹp ngựa đi hàng một, người Kinh trung niên đi trước, "người ngoài lũng” đi sát sau, Cả Trọng đi giữa, phía sau là hai thuộc hạ Kinh, Thổ. Kẻ mặc quần áo chàm, người quần áo nâu tứ than, riêng "người ngoài lũng" lại mặc áo the, khăn lượt giống nho sinh, còn Cả Trọng mặc đồ kaki, đội "mũ thuộc địa”, thắt lưng da to bản, vai khoác cây súng trường, sườn phải còn đeo thêm một khẩu súng ngắn, loại cối đạn 6 lỗ, thoáng trông như cai đội lính tập.

Vào khoảng xế chiều, cả 5 thớt ngựa vụt hiện trên lưng chừng một ngọn đồi cách quan lộ khoảng 200 thước giữa vùng đồn binh Tây, ta san sát. Bên kia, xế trước đồi là một rặng núi nằm chênh chếch, quan lộ chạy uốn khúc qua, cách vùng Hữu Lũng độ hơn chục cây số.

Năm người mồ hôi đẫm áo, cả 5 con vật cùng ướt sũng lông sau cuộc viễn hành. Cả Trọng vượt lên trước cùng “người ngoài lũng", dừng ngựa dưới một tàn cây rậm, 3 người tuỳ cận trấn 3 chỗ phía sau.

Cả Trọng rút khăn lau mồ hôi và rút trong bao da ra một cái ống nhòm dài, loại viễn kính hải quân, chiếu xuống đường, rê một vòng rộng.

Dân Kinh, Thổ qua lại từng tốp nhỏ, thỉnh thoảng có một tiểu đội kỵ binh tuần tiễu ngược rầm rập, xa chút bên kia đường một nóc lô cốt đồn Tây nhô lên trên cao điểm dòm về hướng Yên Thế. Xa tít nữa, phía hữu lại còn một đồn nữa, mạn sông Thương.

Cả Trọng trao ống nhòm cho người hướng đạo. Y rê một vòng, thì thào:

- Trọng địa! Ôi chao! Đồn Tây san sát, sao cậu Cả không chọn khúc dưới gần Hữu Lũng? Súng nổ, nếu lính Tây kéo ra, ta dễ lọt vòng vây!

- Không sao! Chỗ trọng địa mới là chỗ bất ngờ nhất, địch sẽ không phòng bị, ta dễ hạ hơn! Lính Tây kéo ra sao kịp! Nhớ cho kỹ: ta sẽ nổ ngay khi hắn đổ xuống chân dốc, khúc vòng cung đó! À, thường khoảng mấy giờ hắn về qua?

- Thường vào độ 4 giờ, nhưng có khi muộn hơn không chừng!

- Giờ mới 3 giờ chiều, xuống ngựa đợi thôi!

Năm thầy trò rời yên ngựa. Cả Trọng ngồi dựa gốc cây, nhắm mắt lại, súng trường dựng bên cạnh. Cành lá che kín đàng trước, mấy tuỳ cận quan sát tứ bề, “người ngoài lũng" lướt lên cao chút đăm đăm dòm xuống đường cái.

Thời gian nặng nề trôi. Từng phút, khắc khoải, hồi hộp, khó thở. Mặt trời tháng năm đã ngả bóng cây rừng, cột dây thép; ánh nắng xiên khoai vẫn còn hun nóng, nhưng sương lam vài dải đã bắt đầu dăng lê thê.

Bốn giờ rưỡi…! Năm giờ…! Dưới đường, khách đi chợ về từng đoàn về vội vã, lác đác vài bóng ngựa thồ xuôi...

Người hướng đạo bồn chồn, lẩm bầm:

- Quái! Hay hắn không về chiều nay?

Đột nhiên y vụt kêu khẽ:

- Kia! Đúng bọn nó rồi! Cậu Cả!

Y nhảy xuống, mấy tuỳ cận chồm ra vạch lá dòm. Cả Trọng mở mắt, rất chậm, nhấc cây súng đeo vai, mũi súng chỉ địa, lững thững tiến ra trước. Người hướng đạo trao lại viễn kính, trỏ xuống đường cái:

- Cậu xem kìa! Đúng bọn nó!

Cả Trọng rê ống kính chiếu theo ngón tay chỉ. Ngay trên ngọn dốc khúc đường lượn vòng thúng, vừa nhô lên một toán người ngựa lố nhố, đang phóng kiệu nhỡ đổ dốc theo hàng một, ngót 30 bóng mặc toàn quần áo vàng trông như lính tập. Cả đám đều đeo súng chỉ thiên, sườn dắt dao, kiếm tua tủa trông rất mạnh tợn.

Thản nhiên như không, Cả Trọng đứng xoạc chân trái về đàng trước, trao ống nhòm cho "người ngoài lũng", khô giọng:

- Nhìn cho kỹ xem tên Chánh tổng vùng Hữu Lũng đâu?

- Hắn là kẻ phóng ngựa thứ tư! Chính tên cao lớn đội mũ vàng đó, cậu Cả!

- Nhận rõ chưa? Chắc chắn không lầm chứ?

- Dạ, lầm sao được! Tôi thuộc cả từ dáng dấp hắn mà!

- Tha cho nó tội chết đường! Cho nó về tới cổng mới chết! Nhớ lệnh ta: không ai được nổ súng! Sửa soạn, ta bắn xong lên ngựa rút ngay lập tức! - Cả Trọng bảo thuộc hạ.

Dưới đường cái, từng bóng nhân mã phi nhấp nhô xuống cuối dốc. Người con trai "quan Hoàng" buông thõng tay phải dọc ngọn súng chỉ địa, đu đưa, ve vẩy nhẹ, thân hình chợt cứng đờ. Đột nhiên "người ngoài lũng" vùng kêu giật giọng:

- Cậu Cả! Hắn đang vượt lên hàng đầu... kìa! - Miệng kêu, tay trỏ, mặt y ngoảnh sang nhìn chủ tướng. Nhưng... tiếng kêu chưa dứt, bỗng ngay lúc đó trời vụt tối sầm, nổi gió cuồng cuốn tung lá rừng, cát bụi vãi táp vào người ngựa mịt mù dưới đường. Trên đồi, người hướng đạo giật mình khi thấy người con cả "quan Hoàng", mặc kệ lá rừng tới tấp trút đổ xuống đầu, mặt như đàn bướm, bất thần vung mạnh cánh tay phải nửa vòng tròn, hất vụt ngọn súng trường lên đến “bạch” cái, nách đã kẹp phăng báng súng, đồng thời ngón tay trỏ dính luôn vào cò, bóp nghiến, nhanh như chớp. Mọi cử động như chỉ dồn vào một động tác. Đoàng! Tiếng đạn nổ xé rách không gian, át cả tiếng cuồng phong rung cây đổ lộc ào ào.

Cả người hướng đạo vùng Hữu Lũng cùng đám tuỳ cận đều đổ dồn mắt dòm xuống đường cái, đúng lúc bóng cao lớn vừa vượt lên trước, xuống hẳn chân dốc, và trên ngọn dốc bỗng lại nhô lên 5,7 bóng kỵ binh Tây cao lênh khênh.

Nhưng... viên Chánh tổng vẫn phóng ngựa đi như thường. Trên này, Cả Trọng lại hất "bạch" cái nữa, cây súng đã đeo gọn trên vai, chỉ thiên.

- Thôi rút!

Người hướng đạo vẻ băn khoăn hỏi lại:

- Sao Cậu cả không bắn thêm phát nữa? Nó phi nhanh quá chắc không trúng rồi.

Cả ba tuỳ cận kia cũng lộ vẻ thất vọng, mấy tay cò, nhưng dưới đường cái, qua mấy giây ngơ ngác phân tâm, bọn viên Chánh tổng Hữu Lũng đã chỉ súng lên đồi vừa bắn trả vừa thúc ngựa phi như bay trong gió bụi. Toán lính Tây trên dốc cũng hô to khẩu lệnh, nhất loạt bắn vãi lên đồi. Cả Trọng phất tay, thót lên ngựa, bọn tuỳ cận lật đật làm theo, 5 thớt ngựa quay đầu phi xuống sườn đồi bên này, lát sau đã rời khỏi khu vực trọng địa. Tiếng súng Tây bắn đuổi vẩn vơ vài loạt rồi im bặt...

Trên đường trở về cứ địa, "người ngoài lũng" chừng nhịn không nổi, bật hỏi Cả Trọng:

- Bẩm... liệu phát đạn cậu bắn có trúng hắn không? Bọn tôi thấy hắn vẫn phi như bay, không có vẻ gì là bị đạn! Hay… chỉ bị thương nhẹ?

- Hắn về tới nhà sẽ chết. Ta hẹn cho tên Chánh tổng vừa dừng trước cổng, xuống ngựa và sẽ chết gục bên chân ngựa. Ta có ý tha cho nó tội chết đường đó!

Người con cả "quan Hoàng" điềm nhiên đáp. Đám thuộc hạ chẳng ai dám hỏi nữa tuy trong lòng đều bán tín bán nghi!

***

Hai ngày sau, "người ngoài lũng" mò về miệt Hữu Lũng, liền được tin viên chánh tổng kia chết thật rồi. Và chết đúng lúc về tới cổng, vừa xuống ngựa là gục luôn bên chân ngựa, đúng như Cả Trọng đã hẹn trước!

Vừa mừng vừa sợ, y lần luôn tới trại của viên Chánh tổng, vờ phúng điếu chia buồn để dò hỏi. Thì ra, viên Chánh tổng vốn khoẻ mạnh, lại thắt một sợi dây lưng bằng da to bản, đeo bao đạn. Cả Trọng đã bắn vào mạng mỡ hắn, đúng ngay chỗ mép dây lưng, giữa lúc thân hình hắn đang nhấp nhô trên lưng ngựa phi. Nhờ mép da dây lưng hãm sức, viên đạn chui vào bụng vừa độ, lại thịt mỡ, nội tạng chỗ đó lùng nhùng, nhu năng chế cương nên đạn không phá dữ. Theo nhịp ngựa phi, người nhấp nhô theo, lỗ thủng được dây da bít chặt mấy giây lại để hở, cứ thế bít hở, hở bít, máu ứa ra rồi lại cầm theo nhịp dây da lên xuống. Và có lẽ, dù biết trúng đạn nhưng là chỉ bị thương nhẹ, lại sợ bị lọt ổ phục kích, hắn cứ giục ngựa phóng như bay cùng thủ hạ về tới trại ở Hữu Lũng. Tuy sức khoẻ hơn người, song trong suốt quãng đường dài chục cây số máu cũng rỉ ra nhiều. Khi về tới cổng, vừa rời lưng ngựa, việc đầu tiên là hắn cởi vội dây lưng da để xem vết thương nặng nhẹ ra sao. Dây lưng vừa cởi, máu lập tức tuôn chảy ộc ra sau cả nửa giờ bị tức nghẽn, ướt đẫm áo quần. Thủ hạ xúm vào cấp cứu nhưng đã muộn, hắn chỉ kêu được một tiếng rồi gục xuống tắt thở luôn bên chân ngựa!*

Đánh máy: hoi_ls
Nguồn: hoi_Ls - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 14 tháng 3 năm 2022