Hai con mương bên lộ mọc đầy nhóc lục bình. Một lần Nhu vớt một bụi đem về. Cô cứ ngỡ lục bình rất dễ trồng thế nhưng nó không sống nổi. Không bám vào đồng loại, đứng một mình là cứ té lên, té xuống. Không thể trụ vững nên chỉ mấy ngày sau là chết.
Thụ thấy Nhu buồn nên khuyên:
-Loại cây nầy nó thích đi đây đi đó, hể bị cầm chân là chết liền hà! Mà Nhu trồng làm chi? Ngoài mương ê hề, thích thì ra đó ngắm cho chán mắt có phải khỏe hơn không?
Rồi anh nói tiếp:
-Lục bình trôi mới đẹp, đứng một mình, chết cứng một chỗ đâu có hay. Bởi vậy đâu có ai đem chưng lục bình trong lọ, đem trồng trong chậu.
Nhu vẫn không chịu bỏ cuộc. Cô quyết tâm phải trồng cho bằng được, ít hôm sau lại mang về mấy bụi nữa. Lần nầy cô không đặt chúng vào chậu rồi đổ nước đầy ngập mặt, mà xới đất cho tơi rồi chôn xuống. Những cây lục bình ấy cũng không chịu đứng thẳng, rễ không thèm bén đất.
Một hôm Thụ hì hục bê cái thúng đựng nguyên một tảng đất sát bờ mương, trên đó có sẵn mấy cây lục bình còn nhỏ chưa có bông, đem về trồng trên vạt đất sau hè nhà của Nhu. Lần nầy mới thành công vì chỗ nầy gần sàn nước, lại hơi trũng nên đất luôn ướt nhẹp.
Mỗi lần nhìn chúng, trong đầu Nhu thường hiện ra một viễn cảnh: Ngày vui nhứt của đời mình cô sẽ mặc cái áo dài trắng, ôm một bó bông lục bình do Thụ trồng nầy rồi đi bên cạnh anh.
Nào ngờ trồng xong mấy bụi lục bình, Thụ bỗng mất tăm, mất tích. Nhu chờ Thụ đến nhà để khoe cái nụ nhỏ xíu vừa chui ra nách lá mà đợi hoài không thấy.
Nhu bèn hỏi bé Bảy, đứa học trò của mình, cũng là em bà con cô cậu với Thụ:
-Anh Thụ của em đi đâu mà hổm rày cô không thấy?
Nó trả lời, mặt phụng phịu:
-Em cũng không biết nữa. Ảnh hứa làm cho em con diều vậy mà trốn mất biệt?
Nhu xúi:
-Em hỏi thử mợ Hai đi!
Nó trả lời:
-Em hỏi tùm lum! Cậu Hai, mợ Hai, chị Diệp, anh Căn ai cũng trả lời không biết? Em hỏi ba cái bị má rầy, nói còn con nít mà bày đặt nhiều chuyện.
Nhu nửa giận, nửa lo. Chẳng lẽ Thụ đi mà không nói với cô một lời. Càng ngày Nhu càng nóng ruột, ban đầu giận nhiều hơn lo, rồi dần dần lo nhiều hơn giận.
Một tháng sau, khi Nhu đang ngồi làm cá dưới cây me chua sau lưng nhà. Một tay cầm dao, một tay đè cái mình của con cá dảnh đang giãy đành đạch, ép nó sát xuống cái rễ gồ lên của cái gốc me chua cổ thụ ấy để đánh vảy, thì nghe giọng nói của Thụ ngay sau lưng:
-Khỏe không cô giáo?
Nhu như bị điện giật, con dao khứa mạnh vào ngón tay cái, máu ra lênh láng. Nhu ngoái đầu lại nhìn Thụ, nước mắt chảy ra chắc tại đau vì ngón tay bị đứt khá sâu.
Thụ móc điếu thuốc lá trong túi ra, xé vụn rồi đem cầm máu cho Nhu.
Nhu chỉ biết khóc mà không nói, không hỏi Thụ đến một tiếng.
Thụ nhìn Nhu bằng đôi mắt buồn hiu. Gương mặt chàng xanh xao, ốm nhom, phờ phạt... Mái tóc cắt ngắn ngủn khiến Nhu sinh nghi.
Để trả lời câu hỏi thầm lặng trong mắt Nhu, Thụ nói:
-Đi không lọt, bị bắt ở Cà Mau.
Nhu gặng:
-Có bị mất vàng không?
Thụ lắc đầu:
-Chỉ mất hai chỉ đem theo thôi!
Nhu hỏi tiếp:
-Rồi có định đi nữa không?
Thụ gật đầu, giọng quả quyết:
-Đi hoài, chừng nào được mới thôi.
Nhu cúi mặt để Thụ không thấy hai giọt nước mắt lăn dài trên gò má. Cô cảm thấy tủi thân hết sức. Thầm trách mình sao hỏi làm chi khi đã biết trước câu trả lời.
Thụ nói:
-Nhu đừng thương, đừng chờ anh nữa mà uổng tuổi xuân.
Nhu nói một cách ngậm ngùi:
-Tại anh không thương em nên nói nghe dễ ợt. Chớ muốn quên một người là chuyện khó nhứt trên đời. Điều đó đâu phải cứ cố gắng là được!
Thụ quen tật cũ, mỗi lần gặp chuyện khó xử là vò tóc rối nùi, đưa tay lên đầu nhưng chạm vào mấy chân tóc cứng quèo bèn gãi sồn sột
Nhu bỗng nói:
-Hay là mình cứ cưới nhau đi. Sống chung một thời gian rồi anh đi cũng được.
Thụ lắc đầu:
-Anh trốn trại về thăm nhà, thăm Nhu một lát rồi đi liền chớ không dám ở lâu. Rủi bị bắt lại là ở tù lâu lắm, làm sao chịu thấu.
Nhu hỏi với một chút hy vọng mong manh:
-Cho em đi theo có được không? Em không có tiền, anh nói với họ là chờ em qua tới bển rồi làm trả lại. Em hứa trả cả vốn lẫn lời không thiếu một xu.
Thụ lắc đầu:
-Lần nầy anh đi đường bộ. Nguy hiểm lắm em không theo nổi đâu.
Nhu nấc lên một tiếng. Thụ nhìn cô hồi lâu rồi nói:
-Giúp anh một chuyện được không?
Nhu gật đầu ngay lập tức dù chưa biết chuyện gì.
Thụ nói, vẻ xót xa lộ rõ trong giọng chàng:
-Nhu chùi sạch nước mắt đi, rồi cười thật tươi để anh làm vốn đem theo.
Nhu buông cây dao yếm xuống rồi dùng lưng bàn tay chùi khô cả hai gò má. Cô cười như thể có ai dùng bốn ngón tay kéo hai khóe miệng của mình ra.
Thụ nhìn đăm đăm rồi quay mặt qua một bên. Chàng ngửa cho cái đầu bật hết ra phía sau, nhìn ngước lên trời để hai giọt nước thập thò trên khóe chảy ngược vào trong.
Có tiếng thím Chín, má Nhu hỏi vọng ra:
-Làm cá rồi chưa Nhu?
Thụ lật đật quay lưng. Nhu gọi vói theo:
-Tối nay chờ em ngoài chòm mả nghe!
Thụ không nhìn lại, chỉ lắc đầu rồi đi thẳng.
Nhu úp mặt xuống hai đầu gối rồi cứ ngồi khóc mãi không thôi.
Chiều hôm đó Nhu bị má cằn nhằn khi cả nhà ngồi quanh mâm cơm.
Thím Chín phân bua với chồng:
-Con cá dảnh nầy tui mua của chú Năm. Ổng vừa kéo cái bò lên khỏi mặt nước, nó còn nhảy soi sói là tui chộp liền. Tính đem kho lạt rồi nướng me giầm vô. Vậy mà con Nhu nó làm từ chuối trồng cho tới chuối trổ, đến nổi con cá sình chương phải đem muối sả, cái thịt mới bủn xì như vậy đó!
Nhu cúi mặt, nước mắt rơi cái độp vô mâm.
Chú Chín bênh con, rầy vợ:
-Con Nhu nó biết tui thích cái món nầy nên cố tình làm vậy. Bà thì ngày nào cũng kho lạt, kho lạt rồi kho lạt. Ăn hoài mà hổng biết ngán.
Thím Chín tức mình cãi lại:
-Vậy chớ cái người nào mới hôm qua còn chỉ mấy cái đọt xoài non mà nói với tui là "ba cái đọt xoài nầy mà chấm với cái nước cá dảnh kho lạt là ngon số dzách" vậy?
Bà nói tiếp bằng giọng hờn dỗi:
-Thiệt là uổng cái công tui phải ngồi cả buổi chờ hai vợ chồng chú Năm kéo cái bò lên, năn nỉ thiếu điều gảy lưỡi họ mới chia lại cho một con.
Rồi Thím cằn nhằn tiếp:
-Rồi còn cất công đi hái một rỗ lá xoài non. Bây giờ trật chìa hết trọi. Cái món cá muối xả nầy phải ăn với món canh khoai ngọt mới đúng một bộ.
Chú Chín gắt:
-Vậy sao bà hổng đào một củ lên nấu?
Thím hứ một cái cốc rồi hỏi lại:
-Nấu với cái giống gì? Giờ đó còn ai bán tép, bán cá lóc đâu mà nấu?
Nhu cứ cắm đầu vào chén cơm và, nhai, nuốt mà không đụng tới dĩa thức ăn.
Chú Chín tưởng cô con gái cưng của mình giận nên gấp cái bụng nhiều mỡ, ít xương- chỗ ngon nhứt trên mình con cá dảnh- bỏ vào chén của Nhu rồi nói:
-Ăn đi con! Đừng có buồn.
Thím Chín còn chưa đã nư, thấy chồng chẳng rầy hùn vô một tiếng nào lại về phe con gái thì cơn giận dâng lên tràn hông. Thím ráng dằn lại, ăn cho hết chén cơm rồi bỏ đũa đứng lên.
Thím vốn có tánh cầu toàn, nhứt là trong lãnh vực ăn uống. Món gì đi chung với món gì, thím đều thuộc nằm lòng và răm rắp làm y bon. Mâm cơm nhà thím buổi chiều thường được dọn sau lưng nhà, nơi hai ngọn gió đồng và sông gặp gỡ. Ở đó thím trồng sẵn mấy bụi ớt. Ớt trái to màu tím, giòn mà ít cay cho con gái. Ớt hiểm trái nhỏ xíu cay thiếu điều lột lưỡi cho chồng. Bản thân thím chẳng dám rớ thứ nào vì bị đau bao tử.
Thím Chín có nhiều tài, đặc biệt nhứt là tài làm bếp. Thím nấu ăn ngon nổi tiếng nên mấy cái đám cưới, đám hỏi trong làng, trong xóm đều được bà con mời tới làm "xếp".
Ở nhà quê, mọi người giúp nhau vì nghĩa vụ cùng niềm vui chớ chẳng cầu lợi lộc gì hết. Chẳng ai thuê thím đến nấu rồi đếm mâm tính tiền. Nhà nào sắp có đám, chỉ cần gia chủ đến tận nhà, nói ba điều bốn chuyện rồi rỉ tai: "Bữa đó chị lại tiếp giùm, đứng chỉ vẽ cho sắp nhỏ giùm tụi tui nghe!".
Nếu không bận chuyện quan trọng, hay trùng ngày với cái đám đã nhận trước, thím chẳng bao giờ từ chối. Bởi điều đó đối với thím, chẳng những là một nghĩa cử mà còn là niềm vui, là hạnh phúc nữa.
Khi rồi đám, họ khệ nệ mang tới nhà thím, một cái gói có bọc giấy hồng điều. Trong đó chứa cả lòng biết ơn vô giá lẫn một gói bột ngọt, một ký đường cát trắng tinh mà dâng tặng. Ở nhà giàu, có làm heo thì ngoài cái gói giấy đỏ ấy ra, còn kèm thêm một hủ mỡ cỡ một, hai lít.
Thím nhận mấy món quà có tính tượng trưng đó một cách vui vẻ như nhau chẳng chút so bì.
Từ năm Nhu được mười tám tuổi, thím Chín đã dự trù cho cái đám cưới của cô con gái duy nhứt rồi. Thím tưởng tượng ra các món mà mình sẽ nấu hôm đó. Dịp nầy thím sẽ làm cho bà con lé hết cả hai con mắt trước mấy món độc nhất vô nhị của mình.
Thím sẽ đãi ăn theo kiểu Sài gòn mà mình đã có lần được dự. Âý là cho dọn lên bàn từng món một chớ không bày chung một lượt. Bên cạnh mỗi cái chén đều có một cái khăn trắng muốt và một cái muỗng riêng. Trước đó thím sẽ tập hợp mấy đứa bạn gái của Nhu lại, dạy cho chúng cái cách phục vụ như nhân viên của nhà hàng. Chao ôi cái đám cưới của nhà thím nó sẽ ngon, sang trọng, đặc biệt hơn hết thảy các đám khác từ xưa đến nay. Sẽ được mọi người nhắc nhở, trầm trồ, khen ngợi... Chỉ mới nghĩ đến thôi mà thím đã sung sướng tới nổi da gà.
Thím cũng quyết truyền lại cho Nhu tất cả các bí quyết của mình. Con gái của thím sẽ thừa hưởng hết vốn liếng của mẹ rồi phát huy thêm để danh tiếng của cả hai mẹ con ngày một rạng. Chính vì vậy mà thím bắt ne, bắt nẹt Nhu từng chút. Người ta thường cho rằng con gái gần gũi mẹ hơn cha, thế nhưng ở nhà chú thím Chín thì ngược lại.
Nhu ăn xong chén cơm thì xá đũa rồi gom cái chén của mình ra ngâm chung với cái chén của má trong thau nước gạo vo đặt trên sàn nước, chờ ba mình ăn xong rồi rửa luôn một lượt.
Chú Chín còn lại một mình, ráng ăn cho hết cá, hết rau để vuốt giận vợ chớ chẳng thấy ngon gì ráo. Dạo sau nầy chú thấy Nhu không còn vui vẻ, tươi tắn như lúc trước. Chú biết con gái mình thương Thụ, con trai út của vợ chồng Hai Thọ, người có máu mặt nhứt vùng nầy.
Thụ hơn hẳn đám trai cùng lứa từ cái tướng, cái tánh, cho đến cái tình. Chú Chín tuy mừng nhưng cũng ngại lối xóm cho rằng con gái mình ham giàu. Chú để ý thấy cả tháng nay Thụ không léo hánh đến nhà, cũng nghe phong phanh là chàng đã vượt biên. Chú lo đến mất ngủ nên có lần rủ con gái đi câu cá rồi hỏi đon, hỏi ren. Thế nhưng Nhu vẫn im thinh thít, không nói "có" cũng chẳng chịu nói "không".
Ăn cơm xong chú không gọi thím Chín hay Nhu tới dọn, mang bình trà ra cho chú súc miệng như mọi lần. Chú bưng mâm cơm lại sàn nước cho con gái, rồi tự mình bưng khay trà ra. Bình trà nhẹ bổng, chắt ra chỉ được đúng một ly, chú lắc đầu ngán ngẩm nói thầm: "Cái con nhỏ nầy hồn vía để ở đâu đâu... Nấu cơm xong rồi không chịu bắt ấm nước lên như mọi bữa. Má nó mà biết chắc bả lại rầy thêm cho một trận nên thân".
Rửa chén xong Nhu lại gần chú, kề tai nó nhỏ:
-Một lát má có hỏi, ba nói giùm là con lên nhà con Tím can mấy cái mẫu thêu nghe ba.
Chú hỏi lại, giọng e dè:
-Bộ để mai hổng được sao con? Má bây đang quạu, nghe vậy chắc bả cự nhoi.
Nhu năn nỉ, mặt mày nhăn nhó như sắp khóc:
-Không được đâu ba. Con có hứa thêu cặp gối tặng chị Lụa, còn có mấy ngày là tới đám cưới của chỉ rồi, sợ làm không kịp.
Chú bèn gật đầu:
-Có đi thì đi cho lẹ rồi về nhà trước đỏ đèn nghe con!
Nhu liền đáp:
-Dạ!
Rồi lật đật dắt xe đạp đi ra cổng.
Thấy con gái để cây đèn pin vào cái túi đệm treo tòn teng trên ghi đông, chú hỏi:
-Bộ con tính ở chơi với con Tím lâu lắm hay sao mà đem theo cây đèn vậy?
Nhu nói cho ba mình an lòng:
-Con đem hờ thôi, sợ nhiều khi bể bánh xe phải dắt bộ.
Nhu đạp xe đi một lát rồi chú Chín mới nhớ ra là cây đèn chưa thay pin. Chú lắc đầu, rủa thầm cái tính hay quên của mình. Nhớ ra hôm nay cuối tháng, trời không trăng tối hù, chú lại càng lo tợn.
Nhu ghé nhà Tím mượn mấy cái mẫu thêu ra xem, rồi chọn một tấm.
Thấy Nhu can mẫu bông lục bình, Tím ngăn:
-Đám cưới mà tặng áo gối thêu bông lục bình sợ người ta hổng thích.
Tím lôi một tờ giấy nằm tuốt dưới chót, đưa ra trước mặt Nhu nói:
-Mầy thêu cái mẫu bông hồng nầy nè! Vừa đẹp vừa ít tốn công.
Nhu liền can luôn hai mẫu, xếp làm tư cho vô túi đệm rồi ra về.
Tím cố cầm chưn bạn:
-Làm cái gì mà gấp dữ vậy? Ở lại nói chuyện thêm chút nữa đi mà!
Nhu lắc đầu:
-Má tao đang giận. Tao chỉ dám xin ba nên về trễ, bả mà biết là dám bị đập lắm!
Ra khỏi nhà Tím, đến ngã ba Nhu không chạy thẳng về nhà mà rẽ vào con đường cộ nhỏ. Cũng may vào giờ nầy cả cánh đồng lẫn con đường đều không còn một bóng người, nên không sợ gặp người quen rồi bị nghi ngờ, bị cật vấn rồi phải bịa chuyện và nơm nớp phập phồng.
Khi Nhu dựng xe vào cây ô môi trước chòm mả, tia nắng chiều hồng hồng đã chuyển sang tím nhạt. Chòm mây trên đầu mang hình dạng và màu sắc giống như đám bông lục bình mới nở gần sàn nước sau hè nhà Nhu. Chúng trượt dần về chân trời chỗ có mấy ngọn núi lô nhô rồi đậu luôn trên đỉnh.
Nhu ngồi thụp xuống cái gò mả cao nhứt, nơi cách đây mấy tháng cô và Thụ hò hẹn lần đầu, thấp thỏm chờ nghe tiếng chân, tiếng nói, chờ nhận ra một hình bóng thân thương.
Bầu trời dần tím thẫm rồi đen thùi lùi mà Thụ còn chưa tới.
"Chẳng lẽ anh lại độc ác đến thế sao? Không cho em gặp một lần cuối! Không để cho em có dịp bộc lộ hết tình cảm của mình!" Nhu hỏi thầm với lòng ai oán.
Một bàn tay đặt rất nhẹ lên tóc Nhu. Cô thả mình ngã ngược, giụi đầu vào một bộ ngực rộng mà khóc rưng rức. Vòng tay rắn chắc ôm choàng Nhu từ phía sau và xiết chặt vào lòng. Nhu nhắm nghiền cả hai mắt lại. Bàn tay ấy như con rắn trườn vào bên trong chiếc áo bà ba làm mấy cái nút bấm phải rời nhau rồi kêu lên bừng bực. Nó trườn từ phía trên xuống rồi dừng lại trên bụng của Nhu...
Khi cả hai buông nhau ra Nhu vẫn còn nằm im trên đám cỏ mềm dưới chân chòm mả. Nhu chờ Thụ lên tiếng mãi mà chẳng nghe anh nói một lời. Cô đưa tay sờ vào bên phải, lớp cỏ vẫn còn ấm chứng tỏ chàng vừa nằm ở đó.
Nhu ngồi dậy lấy cây đèn pin trong chiếc giỏ đệm bên cạnh ra, bấm để tìm Thụ, nó chẳng phát ra một tia sáng nào. Nhu gọi nho nhỏ:
-Thụ ơi! Thụ ơi! Anh ở đâu vậy?
Chẳng nghe tiếng trả lời, Nhu đứng bật lên. Tim trĩu nặng vì chứa cả một khối tủi buồn. Vậy là Thụ đã đi rồi, chàng mang cả nụ cười lẫn tấm thân trinh trắng của Nhu theo như một lời cam kết.
Nước mắt ràn rụa khắp mặt rồi len vào miệng của Nhu. Cô nuốt cả vị mặn cùng những lời thổn thức âm thầm: "Tại sao anh lại vội vàng đến vậy? Có biết giây phút nầy đối với em quan trọng như thế nào không?! Em cần những lời âu yếm, trân trọng, hứa hẹn của anh để làm dịu cơn đau và vững tin rằng chúng mình sẽ mãi mãi bên nhau. Cám ơn anh đã mạo hiểm ở lại với em. Hãy ráng giữ mình anh nhé. Em sẽ cầu nguyện mỗi ngày cho anh được an toàn, đến được cái nơi mà anh hằng ao ước dù ở đó chẳng có em. Hành động vừa rồi của anh, đối với em như một lời cam kết. Em biết anh là một người chí tình, trọng nghĩa, chắc chắn một ngày gần đây sẽ về lại bên em".
Nhu vừa dắt xe vào nhà đã nghe chú Chín hỏi lớn:
-Có mua mấy viên “óp ta li đông” cho ba hông con?
Nhu nhanh trí nên hiểu ngay là má đã phát hiện ra sự vắng mặt của mình. Chắc bà hỏi và ông đã bịa là sai cô đi mua thuốc, bèn đáp liền:
-Dạ có!
Thím Chín đang cúng nhưng vẫn để tai nghe tiếng hai cha con đối đáp. Vừa cúng xong, cởi cái áo dài vạt hò màu nâu mặc bên ngoài khi cúng ra là thím hỏi liền:
-Cái tiệm tạp hóa của cô Năm gần sát một bên sao không mua mà đạp xe lên tới chợ vậy?
Nhu đáp:
-Con ra hiệu thuốc mua cho rẻ với ghé con Tím can mấy cái mẫu thêu.
Thím gặng:
-Can mẫu thiêu làm chi?
-Con có hứa là thêu tặng chị Lụa một cặp gối.
Rồi hỏi lại:
-Cô Bảy có nhờ má nấu hông vậy?
Thím Chín trả lời bằng giọng hãnh diện:
-Có chớ sao không?
Rồi chép miệng, nói một mình:
-Thời buổi khó khăn nầy mà vợ chồng cổ tính làm đám cưới lớn quá, tính ra tới hai mươi mấy ba chục mâm luôn! Bộ họ hổng sợ bị để ý hay sao ta?
Chú Chín chêm vô:
-Gia đình cán bộ mà sợ cái gì?
Ngừng một lát ông lại nói thêm:
-Nhớ hồi nào cô Bảy còn núp lén đi thăm chồng, còn bây giờ thì...
Thím Chín tiếp lời chồng:
-Thành bà lớn.
Ngẫm nghĩ giây lát thím nói tiếp:
-Người vui thì cũng quá vui mà người buồn thì cũng quá buồn. Tội nghiệp gia đình Ba Ngươn, có mấy đứa con làm sĩ quan, bây giờ lo kiếm tiền đi thăm nuôi hết đứa nầy tới đứa khác cũng đủ mệt cầm canh. Hôm bữa tui ghé nhà thăm thấy chỉ ốm nhom. Chỉ nhờ hỏi giùm coi cô Bảy có cần heo làm thịt, thì chỉ cho cổ mua con heo lớn đang nuôi để lấy tiền đi ra ngoài bắc mà thăm thằng Việt.
Chú Chín hỏi:
-Mấy anh em nó có ở chung một chỗ hông?
Thím Chín lắc đầu:
-Mỗi đứa mỗi nơi mới khổ!
Chú Chín hỏi vợ:
-Bà có nói giùm chưa?
Thím gật đầu:
-Có!
Chú Chín hỏi tiếp:
-Rồi cổ có mua hông?
Thím lắc đầu:
-Cổ trả lời có nuôi sẵn cả bầy rồi, mua làm chi.
Thím Chín thở ra một hơi dài, chú Chín khuyên:
-Sự đời là vậy đó bà ơi, buồn làm cái giống gì. Khi thì cá ăn kiến, khi thì kiến ăn cá.
Thím liếc Nhu một cái rồi nói:
-Nghe nói nhà Hai Thọ bây giờ xuống dốc lắm! Cái nhà máy xay lúa với lò đường bị đóng cửa rồi, còn bị điều tra tới, điều tra lui. Thằng con trai nghe đâu vượt biên bị bắt...
Bây giờ đến lượt chú Chín đỡ lời vợ:
-Cái thằng đó giỏi dang hết biết! Sổ sách một tay nó nắm, lại cư xử tốt với nhân công nên chẳng ai kêu rêu tiếng nào. Nhờ vậy mà ông già nó khỏi ngồi tù. Vái trời cho nó...
Thím Chín còn hậm hực cái chuyện hồi chiều nên nhiếc:
-Con nào ngu dại mà đâm đầu vô gia đình đó lúc nầy là khổ trần thân.
Chú Chín cự:
-Khổ cái chỗ nào? Gia đình họ dù nát giỏ cũng còn bờ tre. Người ta giàu mà không phách lối, biết giúp đỡ bà con với chòm xóm láng giềng. Cái của cho dù có mòn nhưng còn cái đức, bộ bà không nghe ông bà mình nói cái câu: "Có đức không sức mà ăn" hay sao?
Nhu đứng lặng thinh không nói tiếng nào.
Chú Chín nhắc:
-Thôi! Lo vô giăng mùng cho ba với má đi con gái.
Khi nào quá thương và muốn chia sẻ nỗi buồn với con, chú Chín thường gọi Nhu bằng "con gái".
Nhu quay lưng vừa đi được ba bước bỗng bị thím Chín hỏi giựt ngược:
-Làm cái gì mà quần áo dính cỏ, dính đất tùm lum vậy?
Nhu điếng hồn, lắp bắp:
-Con bị té văng...
Thím Chín nạt:
-Đồ tâm hơ, tâm hất! Lẹ lẹ xối nước rồi thay đồ liền đi! Xong xuôi đem cái lưng lại cho tao coi có chỗ nào bầm hông đặng xát muối vô cho tan máu.
Nhu lật đật từ chối:
-Con té trên đám cỏ im ru hà! Hổng có nghe đau chút nào hết!
Thím Chín nghĩ Nhu ngại vén áo cho mình thấy da, thấy thịt nên nói:
-Mẹ con mà còn bày đặt mắc cỡ. Hồi còn nhỏ thì đòi gãi lưng mới chịu ngủ. Lớn lên thì nhờ hai bàn nầy tắm rửa, kỳ cọ mỗi ngày. Bây giờ cũng cạo gió cho hà rầm hoài, còn lạ cái giống gì nữa mà giấu?
Nhu không đáp, chạy thẳng ra sàn nước đứng trên hai cục gạch kê sẵn để rửa chân. Cô mở nấp lu nước, nhúng cái gáo vô múc rồi xối ào ào từ trên đầu xuống.
Có tiếng ho khan bên kia hàng rào dâm bụt.
Nhu rủa to:
-Đồ cái thứ cà chớn, dòm lén mà còn....
Nhu tức tối, múc một gáo nước đầy tạt mạnh về hướng đó. Một cái bóng đen thui bỗng bật dậy từ dưới hàng rào chạy cong lưng.
Chưa vừa lòng Nhu rủa to hơn:
-Đồ con heo!
Tiếng rủa khá lớn, thím Chín nghe thấu nên lật đật bước ra hỏi:
-Có chuyện gì vậy?
Nhu vừa chỉ tay về cái hàng rào vừa đáp, giọng tấm tức:
-Có cái thằng chó đẻ nào hổng biết. Nó ngồi đó rình coi con tắm.
Thím Chín chắt lưỡi:
-Tối hù có thấy gì mà coi, chắc có con nhỏ nào đi tiểu...
Nhu ngắt lời:
-Con nghe tiếng con trai ho mà!
Thím chín vốn có cảm tình với Phục, con dì Sáu Dọ bên cạnh. Cậu ta hay giúp thím mọi việc cho dù có được nhờ hay không. Thím cũng biết nghĩa cử đó xuất phát từ mối tình câm y dành cho Nhu. Mấy lần thím thấy Phục vừa làm vừa liếc, coi Nhu có để ý đến y không. Có lần thím tạo điều kiện cho y tiếp xúc với con gái mình thì cử chỉ Phục vụng về, nói năng lúng túng nên thím lại càng thương.
Thấy tóc Nhu ướt mem thím liền rầy:
-Giờ nầy mà gội đầu làm chi? Để cái đầu ướt suốt đêm là mai mốt mang bịnh nhức đầu đông. Tại sao dặn hoài mà không chịu nhớ giùm vậy?
Nhu nghe má rầy mà buồn. Ngày nào cô cũng bị bà bắt bẻ hết chuyện nầy tới chuyện khác. Nhu rùng mình khi nghĩ nếu má biết là cô vừa làm chuyện gì.
Thấy Nhu đứng bất động, thím Chín quát:
-Sao không tắm lẹ rồi vô nhà. Bộ không sợ bị cảm hả?
Cái tin Thụ đã vượt biên thành công được truyền ra khắp xóm. Nhu bán tín nghi, cuối cùng cô cũng nhận được một lá thơ của Thụ do Bé Bảy trao.
Không thể đợi đến giờ ra chơi, cho học trò sắp hàng vào lớp xong, Nhu bóc đọc liền.
Bức thư đã mang đến cho Nhu một nỗi thất vọng sâu xa. Nó không giống như Nhu mong đợi. Thay vì bày tỏ nỗi nhớ nhung, lòng say đắm để đổ đầy những khoảng trống trong cô, nó lại mang giọng điệu của một hồi chuông báo tử khiến lòng Nhu hoang mang, nghi ngờ, đau đớn...
Thụ viết:
Nhu thương mến!
Có lẽ nhờ Nhu cầu khẩn phật trời quá tha thiết nên anh đã vượt qua biên giới một cách an toàn. Hiện anh đang ở trong một trại tập trung của Thái Lan.
Chuyến đi hết sức gian nan, nguy hiểm. Ranh giới giữa cái sống và chết chỉ cách nhau bằng lằn tơ, kẽ tóc. Bây giờ nhớ lại anh không khỏi hết hồn.
Những ngày nầy anh rất nhớ và cảm thấy có lỗi với Nhu nhiều quá! Chẳng biết có đi sang nước Mỹ được không? Khi định cư rồi có được về Việt nam để cưới Nhu rồi đem theo không nữa?
Anh sợ hứa hẹn rồi bắt Nhu đợi dài dài thì bất công cho Nhu quá!
Nếu chú thím Chín ưng ý ai và Nhu cũng thấy người đó có thể mang lại hạnh phúc cho mình thì đừng ngần ngại. Nhu đừng lo, anh sẽ chẳng bao giờ quên những kỹ niệm đẹp giữa hai ta, anh sẽ lập gia đình chỉ sau khi Nhu yên bề gia thất.
Anh đã không đánh giá đúng mức, lượng tình cảm dành cho Nhu. Khi trước nó bị che lấp bởi lòng mong muốn ra đi. Ngay khi điều đó đã đạt được thì hình bóng của Nhu lại hiện lên trong đầu anh, trong sáng, vằng vặc như ánh trăng rầm khi những đám mây bị gió đuổi đi xa...
Ngay lập tức Nhu viết một lá thơ hồi âm dài đến bốn trang giấy rồi đạp xe lên tận bưu điện quận gửi liền. Nhu xin địa chỉ của Nhan, cô bạn học của năm cuối cấp, dặn Thụ gửi thơ về đó. Nhà Nhan ở bên kia sông nên chẳng lo bị ba má phát hiện và bà con lối xóm nghi ngờ.
Vừa gửi thơ xong là Nhu đã bồn chồn đợi Thụ trả lời. Cứ cách vài ngày Nhu lại mua một thẻ nhang rồi xin má cho ngồi đò để viếng ngôi chùa Lá gần nhà Nhan.
Thím Chín đâm ra nghi ngờ nên hỏi:
-Khi không mà đi chùa liền xì là tại làm sao?
Nhu đáp:
-Con thấy trong mình không khỏe nên...
Thím rầy:
-Bịnh thì kiếm thầy thuốc chớ đâu ai đi tìm thầy chùa.
Thím gặng tiếp:
-Bây bịnh gì?
Nhu ấp úng:
-Con nghe hảo hảo mệt, ăn không vô. Ban đêm khó ngủ, hay giựt mình với nằm chiêm bao...
Thím chép miệng:
-Tại bây quá lo lắng nên sinh ra như vậy! Phải thỉnh nước cúng trên mấy cái bàn thờ trong nhà mà uống. Phật ở nhà cũng y hệt như ông phật ở chùa. Miễn mình có lòng tin tưởng là được.
Từ hôm đó, thím tự tay đi hái bông trang, bông điệp...đem về chưng trên ba cái bàn thờ: Bàn thông thiên ngoài sân; Bàn thờ Đức Huỳnh giáo chủ với bức chân dung của ngài, cùng tấm vải màu nâu đen đặt trên cái trang treo cách mái nhà chừng hơn một thước; Bàn thờ cữu huyền thất tổ nằm trên đầu cái tủ gỗ mun cẩn xa cừ đứng ngay giữa nhà.
Bà con trong xóm bắt đầu thấy thím chiều chiều đi dọc theo con đường cộ nhỏ, nơi bông trang nở lền khênh trên những bụi lá xanh um và bông điệp trổ lưa thưa trên những nhánh gầy guộc của thân cây xương xẩu. Thím không thích đi con đường lộ lớn, xin bông của bà con trong xóm để tránh nghe họ bàn tán về gia đình hai Thọ nói chung và Thụ nói riêng.
Thím Chín thấy Nhu ốm đi trông thấy. Tháng rồi thím để ý thấy Nhu không còn một tay bưng cây đèn, một tay bưng cái thau nhỏ, đi xuống sông để giặt đồ vào lúc mọi người đã ngủ thì lo hết sức. Một hôm khi Nhu đang ăn cơm bỗng buông đũa chạy ra sau hè nôn thốc, nôn tháo thì thím bỗng lo và giận đến điếng người.
Tối đó thím gọi con gái lại rồi hỏi:
-Có bị trễ kinh không?
Nhu ấp úng:
-Con mới... có tháng vừa dứt.
Thím nói, gằn mạnh từng tiếng:
-Có bề gì là tao đem bây đi câu sấu đó, biết chưa?
Thấy Nhu cúi gầm mặt không dám nhìn mình, thím càng nghi tợn, nghiến răng lại mà nói:
-Thiệt là ngu đại hạng! Con gái gì mà có cái thân cũng không biết giữ!
Chú Chín vừa từ ngoài vườn bước vô, thấy Nhu khóc rưng rức thì hỏi vợ:
-Mắc chứng gì mà bà cứ đeo đẳng hành hạ con nhỏ hoài vậy?
Thím nguýt chồng một cái rồi bỏ đi không thèm đáp.
Nhu lại tức tốc gửi thêm cho Thụ một lá thư với nội dung ngắn ngủi:
Thụ ơi!
Điều nghi ngờ mà em nói với anh đã trở thành sự thật. Bây giờ em phải làm sao đây? Má em hình như đã phát hiện và dần dặt em mỗi ngày. Anh hãy cố tìm ra cách để giúp em giữ lại đứa con của tụi mình, gia đình anh phải thừa nhận em là dâu để ba má em không mất mặt với bà con, lối xóm...
Đúng hai tuần sau, Nhan đem một lá thơ đến cho Nhu. Cô cho lá thơ vào túi quần, không dám mở ra đọc liền vì sợ má mình bắt gặp.
Tối hôm đó Nhu cố dán mình trên giường, chờ nghe tiếng ngáy của thím Bảy rồi mới đốt cây đèn trứng vịt lên, vặn cho ngọn đèn chỉ còn leo lét rồi mới dám lấy trong túi ra cái thơ ấm hơi người ra đọc.
Thụ viết:
Anh hết sức ngạc nhiên đến ngỡ ngàng khi đọc thư Nhu.
Chiều hôm đó khi gặp nhau lúc Nhu đang làm cá xong, anh về nhà lấy túi đồ rồi đi liền, không hề chờ Nhu ở chòm mả như đã kể.
Anh xin đứng giữa trời và chỉ thẳng tay lên trời mà thề rằng nếu mình có làm cái điều thương luân, bại lý đó thì cho bà chúa Xứ bắn đui hai con mắt và vặn gãy lìa, đầu rời khỏi cổ...
Nhu đau khổ, căm hờn đến độ không thở nổi. Cô nghe như thể cả một ngọn núi đè nặng lên người, chỉ muốn chui xuống đất để khỏi phải đối diện với gương mặt giận dữ của má cùng sự thất vọng của ba. Mối nhục mang đến cho gia đình quá lớn khiến Nhu chỉ muốn trừng phạt mình một cách thích đáng.
Kéo vạt áo lau khô hai gò má, cô ngồi dậy viết một lá thư tạ lỗi, cầu xin ba má tha thứ và hứa sẽ theo phò hộ để hai đấng sinh thành luôn mạnh khỏe.
Nhu xếp lá thư làm bốn, lót xuống gối rồi mở cửa sau, đi ra đường tiến về hướng cây cầu ván...
PHẦN MỘT - 1 -
Tiến >>
Nguồn: Tác giả VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 21 tháng 10 năm 2019