Bà giáo Hương, lòng vui hớn hở, bảo các cô con gái của mình:
– Nhờ phước phần, các con mới có được một người cha thương yêu chiều chuộng, dạy dỗ con cái đàng hoàng như ba con. Mặc dù hoàn cảnh gia đình bên nội đối với ổng có nhiều bất công, nhưng ông không lấy đó mà hận đời, thù người như những kẻ đồng cảnh ngộ. Và mẹ cũng thật có phước mới gặp được người chồng hiền lành chân thật như ổng. “Những người theo đạo Phật thì làm việc đạo hạnh. Những người theo đạo Công Giáo làm việc phước lành. Những người thường dân lo sự sống của mình. Những người nghèo lo kiếm ăn từng ngày. Nhũng người dạy bảo làm phước đức là thầy và cha”. Đó là những câu từ ngàn xưa của Tổ Tiên ta để lại và truyền tụng cho đến ngày hôm nay, thật không sai một chút nào cả.
Tố Tâm rót tách trà bưng lại cho mẹ, mùi trà Ô Long thơm ngát theo làn khói nghi ngút lan tỏa khắp căn phòng khách nhỏ, ấm cúng của gia đình vợ chồng bà. Những người quen biết ở đầu xóm cuối thôn trong vùng nay, ít ai gọi bà theo tên tộc chồng cũng như theo thứ của ông là bà Năm Tố, chị Năm Tố, hay mợ Tố… trừ thân tộc bên họ hàng nhà chồng bà. Ở đây ai cũng gọi bà là cô hoặc bà giáo Hương. Tố Tâm đưa tách trà cho mẹ, cười lém lĩnh:
– Không có mặt ba, thì lúc nào mẹ cũng khen ba. Sao mẹ không khen trước mặt ba? Để ba nở phình lỗ mũi? Theo con thấy, ba là người đàn ông hạnh phúc nhứt trên cõi đời ô trọc nay mới cưới được người vợ như mẹ đó, bà giáo à!
Đang hớp ngụm nước trà, bà giáo Hương chợt cười làm nước trong tách chòng chành tạt nhẹ xuống nền gạch tàu được lau chùi hàng ngày nên màu gạch tôm của gạch trơn bóng mịn màng. Bà giáo Hương hãnh diện với hai cô con gái cưng của mình. Mặc dù bà rất muốn có một đứa con trai cho chồng, nhưng khi sanh được đứa con gái thứ hai, bà không thể sanh được nữa. Chồng bà nói rằng con trai hay con gái gì cũng vậy, nếu nuôi dạy chúng nên người thì phước đức lắm rồi, còn câu nệ nam hay nữ làm chi? Vả lại, người ta nói rằng, con gái tỉ mỉ, tế nhị nên thường gần gũi và thương cha thương mẹ nhiều hơn con trai. Tuy ông nói vậy, nhưng đôi lúc bà cũng cảm thấy buồn và có lỗi không sanh được con trai cho chồng.
Tố Tâm là con gái lớn của bà giáo Hương đang học lớp đệ ngũ trường trung học Đốc Binh Kiều bên chợ quận. Từ nhà bà đến trường con gái, chỉ cần đi qua cây cầu đúc bắc ngang sông nối liền Quốc Lộ Bốn, đi thẳng một đổi nữa thì tới trường nằm trên lộ tẽ vào Kinh Mười Hai, và các xã, quận lân cận. Hôm nào vừa ra khỏi cửa mà Tố Tâm gặp được bạn bè hay chòm xóm đi ghe, xuồng cho quá giang sông thì khỏi phải cuốc bộ lên cầu rồi mới đến trường. Còn bà Hương thì dạy trường tiểu học nằm sát lộ ở bên nầy cầu.
Tố Tâm năm nay xấp xỉ mười bảy tuổi, cái tuổi chớm đẹp của thời thiếu nữ. Cô giống cha, nên cao ráo mảnh mai, nước da trắng và mịn như hột gà bóc vỏ. Giọng nói cô mềm mỏng tự nhiên nhỏ nhẹ, dễ làm người đối diện tiếp chuyện với cô có cảm tình. Làn tóc mây dầy luôn chấm ngang vai, vóc tóc đen và mịn như nhuộm mực tàu. Tố Tâm được sự dạy dỗ ân cần của lại được sanh ra trong vùng nông thôn hiền hòa, đất đai màu mỡ cho cây lành, trái ngọt. Thời tiết ôn hòa. Dân trong xã ấp chân thành, trọng tình, trọng nghĩa… Với hoàn cảnh thuận lợi và tốt lành đó đã tạo nên một Tố Tâm dịu dàng, hòa nhã được lòng ông bà nội, các cô chú thương mến, mặc dù gia đình ba má cô là cái gai nhọn để bà nội lớn và các cô con gái bà luôn luôn tìm cách xét nét, chê bai.
Cô em gái Trần Đặng Tố Tiên thì khác chị về thể chất lẫn tâm hồn. Cô nhỏ hơn chị gần hai tuổi, là em kế cũng là em út của Tố Tâm. Tố Tiên đang học lớp đệ lục. Dáng người cô cao ráo, mặt mày cô giống bà nội và có da có thịt nên trông trơn mát hơn chị nhiều. Làn da cô trắng không bằng da chị nhưng mịn màng. Mắt cô to đen láy, môi mọng đỏ. Cô thích tóc cắt ngắn hơn để dài xõa bờ vai như chị. Má cô lúm đồng tiền mỗi khi nhoẻn miệng cười nên trông cô rất là xinh. Tánh tình cô chị ôn nhu bao nhiêu thì cô em lanh lẹ, hoạt bát, vui vẻ, liến thoắng năng động bấy nhiêu. Tố Tiên đến đâu thì mang tiếng cười vui tươi rộn rã đến đó. Cô không đẹp bằng chị nhưng hồng hào rực rỡ hơn. Cô nổi tiếng nhờ học giỏi nhứt nhì trong lớp từ bậc tiểu học cho đến trung học. Cô thích nếp sống tự lập, không chịu ràng buộc, gò bó trong gia đình như chị Tố Tâm. Tố Tiên thường tâm tình với mẹ:
– Má à, sau nay con sẽ học Luật, hoặc Quốc gia Hành chánh, hay Chánh trị Kinh doanh ở Đà Lạt… Con sẽ ra làm việc ngoài xã hội như nam giới, chớ con không chịu như chị Tố Tâm thích đi dạy học, hay làm y tá. Nếu ba má cho phép, con sẽ cố gắng lấy học bổng du học ở nước ngoài thì tốt quá. Đó là mộng ước hằng ấp ủ của con.
Cẩm Hương âu yếm ướm thử lòng con:
– Bậy nà, con gái học cao khó lấy chồng lắm con. Má muốn con học lấy phần hai xong, thi vào ngành chuyên môn. Khi ra trường, con đi làm rồi có chồng có con, tạo dựng gia đình hạnh phúc. Đó là điều mong muốn của ba má.
Tố Tiên không cãi lại với mẹ, nhưng chưa chắc cô làm theo ý nghĩ của bà. Bởi cô có ý hướng và hoài bão cao xa. Cô muốn ra nước ngoài, muốn biết quê hương đất nước người ta như thế nào? Những thắng cảnh trong phim ảnh, những đền đài nguy nga tráng lệ, những di tích lịch sử, những sự thăng tiến từ thương mại, khoa học, kinh tế, y học đến văn hóa, phong tục của xứ người đã thôi thúc tâm hồn cầu tiến của cô, đã nhen nhúm trong tâm hồn cô thật nhiều những mộng ước huy hoàng ở tương lai… Tố Tiên được lòng bà nội lớn và hai cô Kiều hơn chị. Vì cô dám ăn, dám nói, không sợ trời, không sợ đất và rất khôn ngoan. Có một hôm cô ghé thăm, bà nội lớn cô bảo con Hiền Từ chừng nào cô về đội thúng nếp đi theo. Bà dặn cô:
– Con Hiền Từ mang nếp đến, cháu giao cho bà nội cháu, nói là bà nội lớn bảo đem ngâm, rồi xay xong dằn lấy bột tẻ đem xắt phơi khô, để dành tháng sau gói bánh ích cúng đám giỗ, bởi sợ tới chừng đó mưa không phơi được…
Tố Tiên không nói gì, ở chơi một hồi thì xin phép về. Trước khi về, cô nói:
– Bà nội à, nhà nầy có chị Hiền Từ, ông Sáu, sao nội không bảo họ làm? Nếu họ bận thì bà bảo thím Thiện Cảm, cô Hai, cô Ba. Thím và hai cô, khi mấy anh chị đi học rồi thì ở nhà họ có làm gì đâu? Bà bảo họ làm đi. Tội nghiệp bà nội cháu lắm, dạo này tay chân bà của cháu hay nhức mỏi, yếu đuối như bà vậy đó, nên đêm nào tụi cháu cũng phải đấm bóp xoa dầu, như chị Hiền Từ phải xoa dầu đấm bóp cho bà mỗi đêm…
Bà Hai Cung làm thinh rồi bảo con Hiền Từ đội thúng nếp trở vào. Từ đó, bà nội lớn không còn sai bảo hay mượn bà nội của Tố Tiên làm những việc ở nhà hương hỏa như trước nữa… Bà Hai Cung cùng hai cô Kiều chẳng những không bắt bẻ mà còn thầm khen con nhỏ thông minh, và khôn khéo.
Cai Lậy là một trong những quận trù phú, có nhiều tôm cá đồng từ các kinh rạch ở địa phương, và từ các thôn làng xa của các quận lân cận khác cũng đem đến chợ quận nay bán, như là Tháp Mười, Cao Lãnh, Ngã Sáu, Kinh Bùi, Kinh Mười Hai, Xã Xịnh, Cả Rắn, Long Tiên, Ba Dừa… Cai Lậy thuận tiện cho việc buôn bán, bởi chợ nằm cặp sát theo Quốc Lộ Bốn. Đi Sài Gòn hoặc về Hậu Giang cũng rất tiện lợi trong vấn đề chuyên chở nhanh chóng cả đường xe lẫn đường tàu. Ngoài ra, Cai Lậy còn là quận sản xuất nhiều lúa gạo, trái cây ngon ngọt như là vú sữa nâu, vú sữa hột gà vừa mỏng vỏ lại vừa ngọt thanh tao, chuối xiêm đen, chuối sáp, long nhãn… Các món ăn nổi tiếng như nem chua Cai Lậy, kẹo hột điều, bánh tráng dẻo, bánh phồng khoai nước cốt dừa đường cát…
Ruộng lúa Cai Lậy rất phì nhiêu có lẽ vào mùa nước kém chất phèn theo nước chảy ra sông cái. Đến khi gặp gió chướng khoảng từ sau mùng bảy, mùng tám đến rằm, mười sáu trong tháng là nước rông. Dòng Cửu Long mang nhiều phù sa chảy vào tràn bờ các sông ngòi Cai Lậy, pha trộn, rửa sạch phèn, làm cho mạch đất thêm màu mỡ. Nên năm nào lúa, nếp, cây trái ở Cai Lậy cũng trúng mùa dù thời bình hay thời chiến.
Nhờ Trời đãi ngộ, Cai Lậy luôn được mưa thuận, gió hòa. Ruộng nương và đất đai phì nhiêu, cho nên Cai Lậy là một quận trù phú, dân cư có đời sống sung túc, an bình… Quận Cai Lậy còn sản xuất những thanh niên ưu tú, và là một trong những quận nổi tiếng có nhiều kiều nữ vừa xinh đẹp vừa ngoan hiền như các cô gái tỉnh Định Tường. Thật xứng đáng để người dân bản quận hãnh diện, tự hào là “Cai Lậy Quốc”.
Ở lãnh thổ Cai Lậy, có con kinh Bà Bèo chạy qua. Đó là dòng kinh bắt nguồn từ Vàm Cỏ Tây, coi như nhánh phụ lưu của con sông nầy. Cũng như dân cư ngụ hai bên con sông Vàm Cỏ Đông, hai bên con sông Vàm Cỏ Tây, nhứt là dân cư hai bên kinh Bà Bèo đại đa số theo đạo Cao Đài. Nhà nào cũng có bàn thờ bằng tấm tranh hình một con mắt (mắt Trời soi xét thế gian) giữa nền trời xanh mây trắng.
Bà Cẩm Hương có cô bạn gái tên Ái Mỹ, quê ngoại ở trên dòng kinh nầy, hồi 20 năm trước được người bác ruột cho lên Sài Gòn học trường Áo Tím. Hễ gặp việc gì trặc trẹo nan giải, hoặc tai nạn thì cô ta cũng cầu Diêu Trì Phật mẫu cứu giúp. Cô ta giải thích:
“Người Công giáo thờ Đức Mẹ Đồng Trinh. Người Phật tử thờ Quan Thế Âm Bồ Tát. Còn giáo dân Cao Đài của tao thờ Đức Phật Mẫu Diêu Trì. Mà nghĩ lại cho cùng, cả ba là một đó Cẩm Hương à. Một cội sanh ba nhánh như nhau..Theo tao nghĩ, tùy căn cơ của giáo dân, bà mẹ thế gian đó thị hiện chỗ nầy là Đức Mẹ, chỗ kia là Phật Bà, chỗ nọ là Phật Mẫu. Chuyện huyền cơ của càn khôn vũ trụ mầu nhiệm lắm, biết sao mà lường hả mậy?”.
Tuy nhỏ Ái Mỹ giải thích sơ sài, nhưng nhiệm mầu thay, lời lẽ của nhỏ lại lọt vào tai của bà Cẩm Hương từ thuở hai người còn là nữ sinh trường Áo Tím. Cho nên dù là theo truyền thống gia đình hướng tâm cửa Phật, thờ cúng ông bà, nhưng bà không bao giờ xem thường đạo nào, công kích đạo nào. Bà dạy hai cô con gái cưng của mình: “Mai sau, hai con có quyền chọn bạn trăm năm theo bất cứ đạo nào. Đạo nào cũng dạy con người làm lành lánh dữ”.
Bà giáo Cẩm Hương ngồi trên ghế dựa. Thẫn thờ nhìn dòng nước chảy, tâm tư bà miên man nghĩ ngợi. Rồi chép miệng thở dài. “Đã hơn 20 năm rồi còn gì!”. Nhưng trong lòng bà cứ tưởng chừng như mới vừa xảy ra trong vài tuần trước, hoặc hai ba tháng trước đây thôi.
Chiếc xe đò Hiệp Thành chạy tuyến đường Sài Gòn đi Vĩnh Long giảm tốc độ, xe còn lết bánh chưa ngừng hẳn cuốn lớp bụi đường bay lên. Kẻ bán bánh ú, người bán mía ghim, nem chua, bánh mì, cà-rem, khóm xắt miếng vàng tươi… lúp xúp chạy theo hai bên cửa sổ xe mời mọc, rau hàng ơi ới. Xe tắt máy. Những hành khách đến trạm nầy thì xuống xe. Còn ai đến trạm khác thì ngồi lại. Chồng đón vợ, cha đón con mặt mày ai nấy lộ nét vui mừng. Mấy người đi bán hàng về thì hai gióng chồng lên nhau, quãy gánh không, trông họ có vẻ nhẹ nhàng và khấp khởi vì đã bán hết hàng hóa. Trên mui xe, hai chú lơ chuyển đồ trong những thùng gỗ nhẹ, thùng cát-tông, cần xé đậy nắp luồn dây gai cột chặt chẽ của các chủ tiệm đi bổ hàng về. Hoặc đại lý hàng hóa ở Sài gòn gởi hàng hóa về theo toa đặt hàng của thân chủ mình… Xe kéo, xe đẩy bằng tay chêm nhau dọc theo hai bên thành xe chờ đợi hàng hóa của mình do các người lơ xe chuyển xuống. Hành khách chưa xuống hết thì có kẻ leo lên xe tìm chỗ ngồi tốt, đi tuyến đường Cai Lậy về Vĩnh Long. Người buôn bán thách hàng trả giá, người càm ràm chen lấn lên xuống xe, kẻ rượt chạy giỡn nói cười hô hố, chửi thề rổn rổn rảng, ỏm tỏi…
Bên lề lộ, cạnh gốc me già, ông lão mù đội chiếc nón vải sùm sụp, ăn mặc tả tơi và đứa bé chừng 5, 6 tuổi ngồi hát dạo để xin tiền người qua lại. Giọng hát của ông áo não, nghẹn ngào hòa tiếng đàn cò ông kéo lên xuống theo nhịp song lan của đứa trẻ.
Cảnh ồn ào, náo nhiệt, có nhiều sắc thái đặc biệt của trạm xe, dù chỉ là trạm xe tạm ghé của chợ quận nầy thôi, cộng vào đó cái oi bức nắng trưa chang chang làm cho cô gái cảm thấy buồn buồn và hơi khó chịu. Bà Ký Tân biết ý con mình, mỉm cười rôi thuận tay sửa mắt kiếng lão cho chỉnh và cột lại chiếc khăn sạt đang đội đầu. Bà nhỏ nhẹ hỏi:
– Trời nắng gắt quá, chắc con mệt lắm hả? Đồ đạc của mình đã xuống đủ hết chưa con?
Không đợi con trả lời, ngón tay bà chỉ đếm từng hành lý mà hai mẹ con đem theo. Đó là những món đồ cá nhân cần thiết để cho con gái mình có dùng trong khi mới đến đây lần đầu tiên. Cô gái lấy khăn tay lau nhẹ mồ hôi lấm tấm đọng trên trán. Cô nhẹ cười như mếu:
– Nắng miền Nam mà má. Thiệt là nóng quá đi! Hành lý của mình xuống đủ cả rồi, má có muốn vào tiệm uống nước nghỉ mệt một chút không?
Bà Ký Tân cười:
– Ờ, thì vào tiệm uống nước để trốn nắng, và tiện dịp hỏi thăm trường ốc ở đâu luôn con à.
Đưa con đi làm cô giáo dạy học, bà Ký Tân hôm nay mặc áo dài the bông ép màu nâu sậm, chơn đi dép nhung đen, tay xách dù tía. Còn Cẩm Hương mặc áo dài bằng hàng Thượng Hải xanh ngọc thạch, thêu bông lan tím, quần lãnh đen. Cổ nàng đeo vòng ngọc trai hột nhỏ sáng ngời ngời ôm tròn bâu áo dài cao. Hai cườm tay cô đeo hai chiếc vòng mã não màu hổ phách.
Đây là thời buổi các thiếu nữ trung lưu ít đeo đồng hồ tay, còn thanh niên thì chỉ có cái đồng hồ trái quít xỏ vào dây chuyền bạc hoặc vàng đeo bên hông. Để có ý niệm về thời gian, Cẩm Hương cũng có cái đồng hồ trái quít vỏ bạc để trong chiếc bóp đầm da láng. Nàng không tô son, giồi phấn, nhưng tỉa chân mày cho rõ nét thôi. Đôi gò má nàng hây hây đỏ, môi hường tươi tự nhiên, răng trắng như sứ tráng men bạch ngọc, thần thái sáng láng… Nàng mang đôi dép quai nhung đen có kết cườm tấm màu đỏ, xanh, tím… Tóc nàng cuốn tay rế và cài lược đồi mồi ở hai bên mép tóc, sống lưng của mồi chiếc lược đều có nạm ngọc trai.
Hai mẹ con mỗi người một vài món, tay xách, nách mang đi qua tiệm nước bên kia đường. Tiệm nầy có xa hơn tiệm sau những sạp bán trái cây, nơi xe đậu xuống hành khách, nhưng tránh được cảnh ồn ào bừa bộn đông người. Một vài phu xe kéo thấy hai mẹ con bà khệ nệ, è ạch, chạy theo hỏi đi đâu để họ đưa đi.
Hai mẹ con vào quán nhỏ chứa được 8 cái bàn dài, mỗi bàn có 4 chiếc ghế đẩu, kê ngang làm hai dãy sát hai bên vách, lối đi ở giữa. Cửa tiệm mở rộng, nhưng được chắn ngang bằng hai dãy kệ chất nhiều keo đựng nào dưa kiệu trắng phau phau, dưa ớt đỏ tươi hoặc xanh lặt lìa, dưa gừng trắng hếu gợi thèm cho khách qua đường khi nhớ đến những chén nước mắm chua ngọt có đệm các loại dưa nầy để chấm bánh xèo, bì cuốn, chả giò, cá lóc nướng trui, tôm càng nướng xé tơi trên tô bún trong những ngày Tết, hay giỗ quải, đám tiệc… Những xề bánh phồng khoai, bánh tráng ngọt nước dừa đường cát ăn sống… Trên sào, ngoài hai dãy kệ còn treo lủng lẳng những xâu nem chua, bánh dừa, bánh ú, bì gói, lạp xưởng… Bà bán hàng thấy khách bước vào, đon đả vui vẻ mời:
– Thưa bà và cô muốn dùng chi?
Bà Ký Tân hỏi lại:
– Ở đây bà có những món ăn gì?
Bà bán hàng nhanh nhẩu:
– Quán tôi có bún tôm nướng, cơm tấm bì, cháo lòng, bánh canh giò heo… Còn nước uống, có la-ve, nước cam, nước bạc hà, xá xị, nước chanh tươi, nước chanh muối, nước đá cục. Trái cây tươi như là đu đủ, cam, chuối, mãng cầu ta…
Bà Ký Tân không trả lời bà bán hàng mà quay qua hỏi con gái:
– Con muốn ăn gì? Cơm tấm bì hay bún tôm nướng? Đã quá bữa rồi, phải no bụng cái đã mới tính chuyện tới. Má ăn cơm, con muốn ăn gì thì gọi.
Cô gái gật đầu:
– Dạ, vậy con gọi thức ăn nghen, má uống gì?
Cô quay sang bà chủ quán đang đừng chờ:
– Bà cho tôi hai dĩa cơm tôm sườn nướng, một ly nước đá trà chanh đường và một ly nước xá xị có đá cục.
Hai dĩa cơm tôm sườn còn nghi ngút khói. Những hột cơm trắng nõn trong chiếc dĩa kiểu trẹt. Trên lớp cơm mỏng, năm bảy lá cải xà-lách xanh non tươi hơn hớn, và vài miếng cà tô-mách chín đỏ xắt mỏng. Nằm trên cải cà là miếng sườn nướng vàng cháy một vài góc ngoài bìa, trong vắt như mã não làm miếng sườn thêm hấp dẫn. Để bên cạnh là nguyên con tôm càng lột vỏ rim mặn, gạch bể loang ra những hột cơm nằm dưới tôm có màu vàng cam óng mượt. Con tôm nằm khoanh muỗng mỡ hành hương xanh tái, bóng ngời. Chén nước mắm đệm dưa chua xắt chỉ cùng khoanh ớt sừng trâu chín đỏ nồng cay, nổi những hột ớt trắng lác đác trên mặt… Ôi mùi thức ăn pha trộn mùi cơm gạo Nàng Hương thơm ngát bay tỏa làm tuyến vị giác của cô muốn trào nước ra khóe miệng.
Hai mẹ con ăn xong, uống từng ngụm nước. Mặt cô gái có vẻ tươi tỉnh hơn lúc xe vừa vào bến. Nàng vui vẻ hỏi bà chủ:
– Thưa, trường tiểu học trong chợ quận nay nằm ở đâu vậy bà?
Bà chủ quán hơi ngạc nhiên, tò mò hỏi:
– Bên kia cầu đúc. Ở đây cô đi thẳng một lèo là tới ngay, nó nằm bên tay mặt. Cô tìm trường đó chi vậy? Hình như bà và cô không phải người quận nầy? Nếu có cần tôi giúp gì cứ tự nhiên. Gia đình tôi sống ở đây lâu lắm rồi nên cũng biết nhiều. Dân trong thành phố quận không có bao nhiêu gia đình, nên đều quen biết nhau cả. Nhứt là các ông trong ban Hương Chức Hội Tề, cùng các thầy cô dạy trường tiểu học ở đây.
Bà Ký Tân có vẻ mừng rỡ, bảo:
– Thưa, không giấu chi bà, chúng tôi từ Lái Thiêu lần đầu tiên mới đi về hướng Hậu Giang, và cũng là lần đầu tiên đến nơi nầy. Con gái tôi đây, vừa được bổ nhiệm về dạy học ở trường tiểu học Cai Lậy. Chúng tôi không có bạn bè, hay người thân nào ở đây cả, nên chưa có chỗ trú ngụ cho cháu. Nếu được, xin nhờ bà vui lòng chỉ bảo cho mọi thứ, chúng tôi hết sức mang ơn.
Bà chủ quán mắt sáng lên, nhậm lẹ:
– Cô còn trẻ mà làm cô giáo rồi? Thiệt giỏi quá! Vậy mà nãy giờ tôi cứ tưởng bà chị đưa con đến đây làm việc cho tiệm may ở hông chợ chớ. Bây giờ bà chị định đi lại trường hả? Còn đêm nay ở đâu? Nơi chợ quận nầy không có cho mướn phòng ngủ như ở các thành thị đâu.
Bà Ký Tân có vẻ suy nghĩ, nhưng trả lời bà chủ quán:
– Thưa bà, có lẽ mẹ con tôi đến trường học xem sao rồi tìm đến nhà ông Đốc học nhờ ổng bày biểu cho lúc đầu hôm sớm mai.
Cô gái yên lặng nghe hai bà trao đổi. Bà chủ quán chân tình:
– Bà nên đến nhà ông Đốc học trước để gởi đồ đạc, sau đó hãy ra coi trường. Đồ đạc của bà nhiều thứ, thật tình bà cũng không dám gởi ai. Mà bà đi đâu mang theo đó thì bận bịu quá. Bà cứ đến nhà ông Đốc học đi, nếu không có chỗ ở, thì bà và cô hãy trở lại đây tôi sẽ giới thiệu cho nhà của người quen trong xóm, sát bên đây thôi. Hông nhà của chị Tư ở sau quán của tôi, cửa trước quay ra lộ đường đi Ba Dừa. Nhà chị ấy rộng rãi, và sạch sẽ, chị lại không có con nít nên yên tịnh lắm. Từ trước đến giờ, chị ấy chưa cho ai ở trọ. Nhưng nếu bà cần, thì tôi sẽ nói giúp cho. Nếu chỉ không cho ở lâu dài, chắc cũng sẽ cho ở tạm đôi bữa.
Trả tiền bữa ăn trưa xong, hai má con cảm ơn bà chủ quán. Bà chủ quán mau mắn gọi một thằng oắt con đang lờn vờn bên kia đường đưa dùm hai má con bà Ký Tân đến nhà ông Đốc học trên lộ đi vào Ba Dừa.
Mẹ con bà Ký Tân đứng trước ngôi nhà lớn, mái lợp bằng loại ngói âm dương màu đỏ thẳm, tường gạch quét vôi ngà ngà vàng. Cửa lớn, cửa sổ sơn màu huyết dụ. Sân trước rộng có nhiều chậu kiểng được uốn cong thành hình tứ linh: long, lân, qui, phụng. Cây mai thúy vũ đang trổ đầy bông. Hòn non bộ nằm giữa sân, trong hàng rào sắt, cửa đóng then gài cẩn thận và chắc chắn. Cô gái đến nắm sợi dây giựt chuông cửa. Lúc sau có một bà xồn xồn đi ra. Bà cho biết gia đình ông Đốc học về quê thăm cha mẹ vợ ở bên Vĩnh Long, mãi đến năm sáu ngày nữa mới trở lại. Hai mẹ con bà Ký Tân lộ vẻ thất vọng. Cả hai đành trở lại quán. Thấy họ, bà chủ quán lạnh lẹ hỏi:
– Bà có gặp vợ chồng ông Đốc học hay không?
Bà Ký Tân sịu mặt, giọng buồn thảm:
– Mẹ con tôi đi không coi ngày, nên đến đây nhằm lúc ông bà Đốc học về quê thăm gia đình ở xa, chắc là tuần sau mới trở về. Vậy nhờ chị giúp chúng tôi hỏi hộ với người quen cho chúng tôi ở trọ đỡ. Nếu được ở vài tháng thì tốt biết mấy. Còn nếu không ở lâu được thì xin chị cũng cố gắng nói giúp dùm cho chúng tôi ở đỡ đôi ba ngày để tìm cách khác. Chúng tôi sẽ mang ơn chị nhiều lắm.
Bà chủ quán vui vẻ:
– Ơn nghĩa gì, tôi có mất mát của cải chi đâu? Bà và cô chân ướt chân ráo đến nơi nay, cô đây lại là cô giáo sẽ dạy học cho con trẻ trong vùng. Hoàn cảnh như vậy thì dân ở địa phương như chúng tôi phải sốt sắng giúp đỡ chớ. Bà và cô giáo đừng lo, nếu không có chỗ thì cứ ở tạm nhà tôi vài bữa cũng không sao. Tuy hơi chật một chút, nhưng ăn nhiều chớ ở bao nhiêu.
Bà chủ quán nói xong, gọi người nhà phụ xách đồ đạc của mẹ con bà Ký Tân vào để một góc khuất bên trong gần chỗ tính tiền, dặn dò người nhà coi tiệm, rồi dắt mẹ con cô giáo đi hỏi nhà ở tạm dùm họ.
Bà Ký Tân là người cẩn thận, thật sự không yên lòng khi gởi đồ ở đây, vì bà chủ quán với bà trước đó chưa hề quen biết, chỉ sau khi ăn bữa cơm ở tiệm họ thôi. Nhưng lời bà chủ quán vừa nói khiến bà cảm thấy đỡ lo một chút, và đến nước nầy rồi bà đành phải đánh liều chớ biết làm sao hơn.
Được sự ân cần giới thiệu của bà Hai Ngâu chủ quán cơm, nên mẹ con bà Ký Tân được bà Tư Hiền cho ở tạm nhà bà không lấy tiền từ đây đến ngày ông Đốc học về. Bà Tư còn dặn khi ông Đốc học về mà cô giáo chưa kiếm được nhà thì cứ ở nhà bà, tiền bạc một tháng là bao nhiêu, lúc đó mới tính. Đến chốn xa, mà gặp được những người tốt bụng như vầy, bà Ký Tân lộ vẻ vui mừng, cảm động nói:
– Thưa chị Hai, và chị Tư, chân thành cảm ơn hai chị nhiều lắm. Hai chị thật là có lòng hiếu khách. Ông nhà tôi làm thầy Ký, tên Tân nên trong vùng chúng tôi ở, người ta cứ gọi tôi là bà Ký Tân. Tôi không muốn họ gọi như vậy, tôi thích mọi người gọi tôi là chị Tân thôi, nhưng họ gọi riết rồi thành thói quen, không sửa họ được. Vậy xin hai chị hãy gọi tôi là chị Tân cho thêm phần thân mật. Và Cẩm Hương đây là đứa con gái lớn của tôi. Cháu còn hai đứa em trai nữa. Con cái lớn, vì công ăn việc làm đi tứ tán hết, nhà chúng tôi bây giờ chỉ còn hai vợ chồng già thôi.
Bà Hai Ngâu cũng kể mình có 6 người con, ba trai ba gái. Bốn đứa lớn đã thành gia thất ở riêng, hai đứa nhỏ còn đi học và hàng ngày phụ giúp bà trông coi hàng quán. Chồng bà là quân nhân thuộc binh chủng lính Khố Xanh, với cấp bậc Đội nhứt (trung sĩ nhứt). Bà thở dài, nói:
– Từ ngày có cửa tiệm đến giờ, hàng tháng lương hướng ông chồng tôi chẳng đem về một cắc, chỉ có ba cái đô hộp mà mấy ông xếp Tây chê, ổng mua được trong đơn vị đó thôi. Lúc đầu tôi còn càm ràm, nhưng sau thấy đời lính của ổng thiệt là cực khổ, vất vả… Vả lại nhờ trời, cửa hàng dư sức nuôi sống mẹ con tôi. Cho nên tiền lãnh lương lính tính liền của ổng cũng không có bao nhiêu, nên tôi để ổng làm chi thì làm. Tháng rồi có người méc với tôi, ổng có vợ bé. Tôi có hỏi ổng, ổng nói “Bà đừng có nghe lời mấy con mẹ ăn không ngồi rồi đó. Tại tui không ưng mấy bả nên mấy bả kiếm chuyện nói xấu tui..” Tôi nghi chắc ổng cũng có chấm mút, chớ không có lửa thì làm sao có khói? Nhưng tôi cũng chẳng ghen tương làm gì. Mình đã có cháu ngoại cháu nội đầy đàn đầy đống rồi còn ham muốn gì nữa? Tôi nghĩ, không biết nên mừng hay nên tội nghiệp dùm cho con nào đang cặp với ổng?
Bà Tư Hiền vóc dáng vừa tầm, không lùn, không cao nghệu như cây tre miễu, cũng không mập, cũng không ốm. Người bà trông vừa vặn dễ nhìn. Nước da bà trắng, mũi cao, đôi mắt đen và to nhưng luôn luôn như có làn nước mắt vương vướng bên trong bờ mi cong, dài. Mặc dù bà cũng nói, cũng cười vui vẻ khi nói chuyện với mọi người, nhưng đôi mắt đó không sao giấu được nỗi u uất thấm đậm trong tâm hồn bà. Người xưa thường nói “dù nam hay nữ, nhứt là nữ giới mà có đôi mắt ướt lệ như vậy đó thì đời sẽ khổ lắm”. Không biết lời truyền miệng đó có đúng không? Mà bà Tư Hiền nhỏ tuổi hơn bà ký Tân và bà Hai Ngâu, nhưng nỗi buồn khổ, hằn khắc trên vầng trán cao có mấy lằn nhăn nhẹ. Mái tóc mây dợn quăn tự nhiên của bà sớm có nhiều sợi bạc, cộng vào sự trầm tư ít nói, nên trông bà trọng tuổi hơn hai bà kia nhiều. Dù bà Tư Hiền bây giờ đã luống tuổi, nhưng với khuôn mặt thanh tú và vóc dáng gọn gàng, thon nhỏ của bà đã cho những người mới gặp bà lần đầu tiên cũng phải nhìn nhận rằng, với sắc diện như vầy, người đàn bà nầy ở thời thanh xuân phải xinh đẹp không thua kém ai. Bà Tư Hiền đẹp trội hon bà Hai ngâu và bà Ký Tân. Mặc dù hai bà nầy có hoàn cảnh gia đình may mắn và cuộc sống sung túc hơn bà.
Ba người đàn bà nầy mới quen đây, nhưng họ lại thân thiện với nhau như đã quen biết từ lâu rồi. Đêm hôm đó, vì lạ nhà Cẩm Hương không sao ngủ nổi trước canh ba. Ánh trăng ngoài cửa sổ lọt vào buồng rọi sáng một cạnh của chiếc mùng. Hương hoa cau, hoa bưởi dìu dịu trong không khí lờ mờ màn sương mỏng lành lạnh đưa vào phòng.
Cẩm Hương nhớ lại tháng trước. Để ăn mừng thi đậu tốt nghiệp École Normale (trường sư phạm) tọa lạc ở Thị Nghè, nhỏ Ái Mỹ cùng học khóa với nàng tổ chức họp mặt các bạn thân cũ hồi học ở trường Áo Tím. Nhà nhỏ ở đường Cây Mai (về sau đổi tên là đường Nguyễn Trải) nối liền với đường Frères Louis (sau đổi tên lại là đường Võ Tánh) mém về miệt vườn, miệt đồng quê. Nhưng nhà của Ái Mỹ là một ngôi biệt thự khang trang, rộng rãi. Trước sân là vạt đất trồng bông, xung quanh là vườn trái cây.
Hôm đó có nhỏ Thụy Châu, Thục An, Ánh Nguyệt lại có thêm Thế Mỹ (anh trai của Ái Mỹ), và vài người bạn của anh ta cùng học chung trường tư thục Huỳnh Khương Ninh. Chỉ là tiệc trà thôi. Bánh ngọt gồm có bánh trét mặt bằng bơ và bắt bông bơ, bánh bông lan bắt bông đường. Lại có bánh ba-tê nóng, bánh mì chiên tôm, chả giò bằng đầu ngón tay trỏ.
Nước uống có xá xị, nước cam, nước chanh và có bình thủy đựng nước đá cục, để ai muốn uống lạnh thì để thêm vào. Trong buổi họp bạn nay, nhỏ Thục An hát bài “Si Tu Reviens” (Nếu Em Trở về) theo tiếng phong cầm của Thế Mỹ bằng giọng thẻo thợt tức cười. Nếu Thụy Châu hợp ca bài “Chỉ Là Tạm Biệt” (Ce N’est Qu’un Aurevoir) cùng với các bạn khác, thì Cẩm Hương phải hát bài “Cái Nhà Của Ta” chỉ vỏn vẹn có 4 câu: “Cái nhà là nhà của ta. Công khó ông cha lập ra. Cháu con phải gìn giữ lấy. Muôn năm giữ nước non nhà“. Bài hát không nhiều giai điệu, nghe ngang ngang như cua bò, nhưng giọng nàng trong ấm, được nhiều người tán thưởng. Mấy con bạn hò hét chọc quê. Cẩm Hương cười trừ, thiệt ra nàng có biết bài hát nào ngoài bài “Cái Nhà Của Ta” đâu. Sở dĩ nàng hát được bài đó vì hai cậu em trai ở nhà cứ hát hà rầm, nghe riết rồi nàng thuộc nằm lòng.
CHƯƠNG MỘT
Tiến >>
Đánh máy: Lê Thy
Nguồn: baovecovang2012
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 7 tháng 4 năm 2020