Tội Ác Trong Bóng Đêm

georges simenon

GIỚI THIỆU - Chương 1

Georges Simenon (1903-1989) trong cuộc đời sáng tác của mình đã từng xuất bản đến hơn 400 tác phẩm và được coi là “nhà chế tạo tiểu thuyết” tài danh. Thậm chí có người còn ví ông với Balzac và cho rằng trong tác phẩm của cả hai nhà văn đều miêu tả rất chi tiết diện mạo nước Pháp. Đọc tác phẩm của Balzac sẽ thấu hiểu diện mạo chân thực của xã hội nước Pháp nửa đầu thế kỷ XIX, còn khi đọc tiểu thuyết của Georges Simenon sẽ hiểu khá tường tận tình hình xã hội nước Pháp nửa đầu thế kỷ XX.

.

Thật vậy, trong mỗi tác phẩm của Georges Simenon dù là tiểu thuyết trinh thám hay tâm lý xã hội đều phản ánh rất chân thực cuộc sống với đủ mọi hạng người trong xã hội.

Tội Ác Trong Bóng Đêm đã thể hiện rất rõ những thế mạnh của Georges Simenon. Câu xoay quanh vụ phá án tài tình của ngài chánh thanh tra Maigret nổi tiếng trong series truyện của Georges Simenon và có tính chất trinh thám đặc thù. Khả năng phân tích, mổ xẻ tâm lý tội phạm đầy sức thuyết phục của Maigret làm độc giả luôn thích thú, say mê. Chánh thanh tra Maigret lần này đối mặt với một băng nhóm tội phạm rất tinh vi, xảo quyệt. Chúng giết người trong đêm mà ít để lại dấu vết nhất và đặc biệt chúng có một mối liên kết kỳ lạ, khó lý giải. Những tình tiết của vụ án lúc đầu khiến Maigret thực sự bối rối... Song cuối cùng, bằng trí thông minh, tài suy luận và cách phân tích tâm lý rất lôgic, ngài thanh tra đã khám phá ra bản chất của vụ việc và trừng trị kẻ phạm tội một cách thích đáng.

Nhà xuất bản Công an nhân dân trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.

Chương 1

Khi Maigret thở dài đẩy lui chiếc ghế ra xa bàn giấy thì cuộc thẩm vấn Carl Andersen của ông đã qua đúng mười sáu tiếng đồng hồ.

Qua cửa sổ không có rèm che, người ta đã lần lượt nhìn thấy từng nhóm các cô thợ khâu và những người công nhân chen chúc nhau vào các quán bán bơ sữa ở Quảng trường Saint Michel vào giữa trưa, sau đó sự náo nhiệt giảm dần, và mọi người xuống các ga xe điện ngầm, và ga xe lửa, hoặc đi rong tìm rượu khai vị vào lúc sáu giờ chiều.

Sông Seine bị sương mù bao phủ. Một chiếc tàu kéo ba chiếc xà lan vừa đi qua với những đèn xanh, đèn đỏ. Chuyến xe buýt cuối cùng. Các rạp chiếu bóng đóng cửa sau khi người ta đã khiêng những tấm biển quảng cáo vào.

Và chiếc lò sưởi trong văn phòng của ông Maigret hình như đang thở mạnh hơn. Trên bàn còn những chai rượu không và những mẩu bánh kẹp thịt ăn không hết.

Ở đâu đó đã xảy ra một đám cháy vì người ta nghe thấy những tiếng còi ầm ỹ của xe cứu hỏa. Đã có một cuộc vây ráp. Những chiếc xe hòm chở tù được đưa ra khỏi Sở Cảnh sát vào lúc hai giờ sáng và rồi đưa vào nhà tù và những người tù trở thành chiến lợi phẩm của chúng.

Cuộc thẩm vấn vẫn chưa kết thúc. Từng tiếng đồng hồ một, từng hai tiếng đồng hồ một, mệt nhọc, Maigret ấn nút chuông điện. Thanh tra Lucas, đang mơ mơ màng màng trong một văn phòng kế bên, chạy tới, nhìn bản ghi chép của cảnh sát trưởng rồi tiếp tục cuộc thẩm vấn.

Maigret tới nằm dài trên một chiếc giường gỗ, nghỉ một lát để rồi trở lại đảm nhiệm công việc với những năng lượng mới.

Cơ quan của Sở Cảnh sát vắng vẻ. Chỉ có đội cảnh sát chống tệ nạn mại dâm chạy đi, chạy lại. Một kẻ buôn lậu ma tuý bị giải về lúc bốn giờ sáng đang bị hỏi cung ráo riết.

Sương mù trên sông Seine đã nhuốm màu trắng đục như sữa làm nổi rõ những bến sông vắng vẻ. Tiếng bước chân vang lên trong các hành lang. Những chiếc chuông điện thoại réo vang. Tiếng cửa mở, tiếng chổi của các bà lao công, những tiếng í ới gọi nhau...

Và Maigret đặt chiếc tẩu còn nóng lên bàn, đứng lên, nhìn người bị bắt giữ với vẻ khó chịu.

Mười sáu tiếng đồng hồ thẩm vấn ráo riết! Trước đó người ta đã cởi giày, cổ áo giả, cravate và lấy những vật trong túi của anh ta ra.

Trong bốn tiếng đồng hồ đầu tiên, người ta để anh ta đứng giữa văn phòng, và những câu hỏi đưa ra tới tấp như đạn liên thanh.

— Anh có khát không...?

Maigret đã uống đến cốc thứ tư và kẻ bị bắt chỉ cười nhạt. Anh ta uống lấy, uống để.

— Anh có đói không...?

Người ta cho anh ta ngồi xuống, sau đó lại bắt đứng lên. Đã bảy giờ liền anh ta không được miếng gì vào bụng, và người ta vẫn đưa ra những câu hỏi trong khi anh ta đang ngấu nghiến ăn chiếc bánh kẹp thịt.

Họ có hai người thay nhau để thẩm vấn anh ta. Từng khoảng thời gian, họ có thể luân phiên chợp mắt nghỉ một lúc nhằm thoát khỏi những câu hỏi buồn tẻ ấy.

Và chính họ là người phải bỏ cuộc! Maigret nhún vai, tìm chiếc tẩu lạnh ngắt trong ngăn kéo và lau trán đã rơm rớm mồ hôi. Cái gây ấn tượng mạnh nhất đối với ông không phải là sự kiên trì về thể chất và tinh thần của người ấy, mà là vẻ thanh lịch và sự tự trọng mà anh ta được giữ cho đến cùng.

Một người như anh ta ra khỏi phòng kiểm tra không cravate, bị lột trần truồng trong suốt một tiếng đồng hồ giữa những kẻ vô lại trong phòng lấy căn cước, bị đẩy ra đứng trước ống kính máy ảnh giữa những tiếng chế giễu của những kẻ bị bắt khác... thì hiếm có ai giữ được tư cách mà trong đời tư đây là một bộ phận trong nhân cách của mình. Và sau một vài tiếng đồng hồ trả lời thẩm vấn thì sự khác biệt giữa anh ta với một tên lưu manh vừa tới đã lộ ra đầy đủ.

Carl Andersen không thay đổi. Mặc dù bộ complet đang mặc trên người đã nhàu nát, anh ta vẫn tỏ ra lịch sự, một vẻ lịch sự quí tộc, thường có trong công tác ngoại giao, làm ngạc nhiên những người trong Đội cảnh sát Hình sự.

Anh ta cao lớn hơn Maigret, vai rộng, nhưng người thon thả, hông nhỏ. Mặt anh ta dài và xanh xao, môi đã tái nhợt. Anh ta mang một chiếc băng che mắt màu đen bên mắt trái.

— Bỏ nó ra!

Người ta đã ra lệnh cho anh như vậy.

Anh ta vâng lời với cái cười nhếch mép. Phía sau chiếc băng là một con mắt bằng thuỷ tinh bất động với một vẻ khó chịu.

— Một tai nạn ư?

— Máy bay, vâng...

— Anh đã tham gia chiến tranh ư?

— Tôi là người Đan Mạch. Tôi không tham gia chiến tranh. Đây là một chiếc máy bay du lịch...

Con mắt nhân tạo trên một bộ mặt còn trẻ khiến cho Maigret càu nhàu:

— Đeo nó vào.

Andersen không kêu ca lấy một lời khi người ta bắt anh đứng quá lâu hoặc quên cho anh ăn uống. Từ chỗ đứng, anh ta không thể nhìn thấy mọi hoạt động trên đường phố, xe điện, xe buýt chạy trên cầu, tia sáng mặt trời màu đỏ chiều hôm trước nay đã trở thành trong xanh trong buổi sáng tháng tư.

Anh ta vẫn đứng thẳng, không nghỉ ngơi và dấu hiệu mệt mỏi duy nhất là quầng thâm trên con mắt bên phải còn lại của anh.

— Anh vẫn giữ vững những lời đã khai chứ?

— Tôi giữ vững.

— Anh không thấy chúng khác thường ư?

— Tôi thấy rõ nhưng tôi không thể nói dối được.

— Anh hy vọng được trả lại tự do vì thiếu chứng cứ ư?

— Tôi không hy vọng gì cả...

Khi mệt mỏi thì những lời nói của anh ta mất hết âm sắc.

— Tôi sẽ đọc lại biên bản thẩm vấn để sau đó anh ký vào.

Một cử chỉ mơ hồ của con người lịch sự khi từ chối một tách trà.

— Tôi sẽ nói tóm tắt những nét lớn. Anh tới nước Pháp, đã được ba năm, có người em gái tên là Else đi theo. Hai người đã sống một tháng ở Paris. Sau đó anh thuê một ngôi nhà nông thôn trên quốc lộ từ Paris đi Etampes, cách Arpajon ba kilômét, giữa ngã ba Ba goá phụ.

Carl Andersen xác nhận bằng cái gật đầu nhẹ.

— Trong ba năm ấy anh sống hoàn toàn cách biệt với mọi người. Những người lân cận chỉ nhìn thấy em gái anh năm sáu lần trong thời gian ấy. Không có một quan hệ nào với những gia đình hàng xóm. Anh đã mua một chiếc ôtô năm mã lực, kiểu cũ để đi chợ Arpajon mua thức ăn. Mỗi tháng anh đi Paris một lần cũng với chiếc ôtô ấy.

— Để giao hàng cho hãng Dumas và Con trai trên đường Mùng bốn tháng chín, đúng thế!

— Hàng là những bản vẽ các mẫu hoa trang trí cho khăn trải bàn ghế trong nhà. Mỗi mẫu hoa anh được trả năm trăm francs. Mỗi tháng anh vẽ được bốn mẫu, kiếm được hai ngàn francs...

Một cử chỉ xác nhận.

— Anh không có bạn bè. Em gái anh cũng vậy. Tối thứ bảy anh cũng ngủ ở nhà và anh nhốt người em gái trong phòng bên. Anh giải thích cô ta thường nhút nhát... thôi cho qua!... Bảy giờ sáng chủ nhật vừa rồi, ông Emile Michonnet, nhà kinh doanh bảo hiểm, sống trong ngôi nhà cách nhà anh một trăm mét, vào nhà để xe thì thấy chiếc xe sáu mã lực của ông ta biến mất và thay vào đó là chiếc xe cà tàng của anh...

Andersen không nhúc nhích, máy móc thọc tay vào túi như để tìm thuốc lá.

— Mấy hôm nay, ông Michonnet đi khoe khắp nơi là mình mới tậu được một chiếc xe hơi. Ông ta tới nhà anh thấy cổng bị khoá và đã bấm chuông nhưng không có kết quả. Nửa tiếng đồng hồ sau, ông ta tới báo cảnh sát và họ đã tới nhà anh. Người ta không gặp anh và cả em gái của anh nữa, ngược lại người ta thấy chiếc xe của ông Michonnet trong nhà xe của anh và đang gục xuống vòng lái là một người đã chết vì bị một phát đạn bắn thẳng vào ngực. Giấy tờ của người này còn nguyên. Người này có tên là Issac Goldberg, một nhà buôn kim cương ở Anvers...

Maigret vừa cho thêm củi vào lò, vừa nói:

— Nhanh chóng, cảnh sát gọi điện tới ga Arpajon và được biết anh và em gái đã lên xe lửa đi Paris vào chuyến sáng sớm. Họ bắt cả hai và giải về đây... Anh đã chối tất cả...

— Tôi chối là tôi không giết người.

— Anh cũng chối là mình không biết Issac Goldberg là ai nữa.

— Lần đầu tiên tôi gặp ông ta thì ông ta đã chết gục xuống vòng lái trên một chiếc xe hơi không phải là của tôi ngay trong nhà để xe của tôi.

— Đáng lẽ phải báo cho cảnh sát thì anh lại cùng em gái chạy trốn.

— Tôi sợ...

— Anh không nói gì thêm nữa chứ?

— Không!

— Và anh nói rằng mình không nghe thấy gì trong đêm thứ bảy rạng sáng chủ nhật ư?

— Tôi đã ngủ say như chết.

Đây là lần thứ năm anh ta nhắc lại câu đó và Maigret bấm nút chuông điện. Thanh tra Lucas bước vào.

— Tôi đi ra ngoài một lát!

Cuộc gặp gỡ giữa Maigret và Comeliau, chánh án, người đang theo dõi vụ này, diễn ra trong vòng bốn mươi phút đồng hồ. Người của toà án muốn bỏ qua vụ này.

— Ông thấy những vụ như thế này thường mười năm mới xảy ra một lần, cuối cùng thì người ta chẳng kết luận được gì cả! Và nó đã rơi vào đầu tôi! Mọi chi tiết đều rời rạc! Tại sao lại có sự đổi chỗ của hai chiếc xe hơi ấy? Tại sao không có vụ ăn cắp ôtô? Và tại sao Carl Andersen không dùng xe của mình để chạy trốn mà lại đi bộ từ nhà ra ga Arpajon để lên xe lửa? Người buôn bán kim cương tới ngã ba Ba góa phụ ấy làm gì?... Tin tôi đi, ông Maigret! Sẽ có một loạt những phiền phức đè nặng lên lưng ông và lưng tôi. Cho qua đi, nếu ông muốn. Ông đã không nhầm khi kéo dài cuộc thẩm vấn đến mười sáu tiếng đồng hồ, nhưng có được gì đâu...

Mi mắt của ông cảnh sát trưởng đã sưng húp lên vì ngủ quá ít.

— Ông đã nhìn thấy người em gái của anh ta chưa?

— Chưa. Khi bắt được họ, Carl Andersen bị giải về Sở Cảnh sát còn người phụ nữ được đưa về nhà. Cô này đang bị canh giữ. Người ta muốn thẩm vấn cô ta tại chỗ.

Hai người bắt tay nhau. Maigret trở về văn phòng của mình có Lucas đang thẩm vấn còn người bị bắt giữ đang tì trán vào kính cửa sổ chờ đợi.

Maigret nói ngay từ khi bước chân vào cửa phòng:

— Anh được tự do!

Carl Andersen không giật mình mà chỉ đưa tay vào cổ áo không cravate và nhìn vào đôi chân không giày của mình.

— Người ta sẽ trả lại anh các thứ đó ở văn phòng cơ quan. Pháp luật sẽ đặc biệt chú ý đến anh. Nếu có ý định chạy trốn, người ta sẽ đưa anh vào trại giam.

— Thế còn em gái tôi?

— Anh sẽ gặp cô ta ở nhà.

Người Đan Mạch khi đi qua cửa, lấy chiếc băng bịt mắt ra và sờ tay vào con mắt giả.

— Xin cảm ơn ông cảnh sát trưởng.

— Không có gì.

— Xin lấy danh dự mà nói rằng tôi vô tội.

— Tôi không yêu cầu gì ở anh cả!

Carl Andersen cúi đầu chào, đợi Lucas dẫn mình tới văn phòng cơ quan.

Một người ngồi ở phòng đợi thấy cảnh đó đã kinh ngạc chạy đến gặp Maigret.

— Thế nào? Ông thả hắn ra ư? Không thể như vậy được, thưa ông cảnh sát trưởng...

Đó là Michonnet, nhà kinh doanh bảo hiểm, chủ của chiếc xe sáu mã lực mới tậu. Anh ta tự tiện vào văn phòng, đặt mũ xuống bàn.

— Tôi đến vì chiếc xe hơi của tôi.

Một người nhỏ bé tóc hoa râm, ăn mặc một cách vụng về, tay luôn sờ vào bộ ria bôi kem của mình. Anh ta chìa môi ra để nói, thận trọng chọn từng lời một, tay vung vẩy một cách cứng đơ. Anh ta than phiền! Anh ta là người cần được pháp luật bảo vệ! Đây có phải là một hành động anh hùng không?

— Đêm hôm qua tôi đã bàn bạc với bà Michonnet, người mà rồi đây ông sẽ gặp, chắc chắn là như vậy. Bà ấy cũng tán thành ý kiến của tôi... Xin chú ý ông thân sinh ra bà ấy là giáo sư ở Trường trung học Montpellier và bà mẹ là người dạy dương cầm. Tôi nói như vậy là để... Nói tóm lại...

Đó là câu nói ưa thích của anh ta. Câu nói của anh ta vừa như sắc bén, vừa như ban ơn.

— Tóm lại, rất cần thiết phải có một quyết định trong một thời gian ngắn nhất. Như những người giàu có, kể cả Bá tước Avrainville, tôi đã liều mua một chiếc xe mới. Tôi đã ký tên vào mười tám giấy vay nợ... Xin nhớ là tôi có thể trả tiền ngay, nhưng thật vô ích mà điều động vốn liếng của mình... Nói tóm lại...

Maigret không động đậy, ông như đang khó thở.

— Tôi không thể ngồi trên một chiếc xe không phù hợp với nghề nghiệp của mình. Phạm vi hoạt động của tôi là ba mươi kilômét cách xa Arpajon... Bà Michonnet cũng đồng ý với tôi. Chúng tôi cũng không thể ngồi trên chiếc xe trước đó đã có một người chết trên đó. Cảnh sát phải làm rõ ràng chuyện này. Phải trả cho chúng tôi một chiếc xe mới, cùng loại với cái cũ, cũng màu sơn như vậy, giá cả cũng như vậy... Xin nhớ xe của tôi đã chạy rà xilanh rồi và tôi sẽ buộc phải....

— Ông đã nói hết chưa?

— Xin lỗi!

Còn một câu nữa mà ông ta ưa nói.

— Xin lỗi ông cảnh sát trưởng! Rõ ràng là tôi sẵn sàng giúp đỡ ông về những hiểu biết và những kinh nghiệm của tôi ở vùng ấy. Nhưng cấp thiết nhất là chiếc xe hơi...

Maigret đưa tay lên trán.

— Tôi sẽ tới thăm ông vào thời gian tới.

— Còn về ôtô thì sao?

— Khi chúng tôi hoàn thành công cuộc điều tra thì chiếc xe của ông sẽ được trả lại.

— Tôi đã nói với ông rằng bà Michonnet và tôi...

— Xin cho tôi gửi lời chào đến bà Michonnet. Xin chào ông.

Rất nhanh chóng khiến cho nhà kinh doanh bảo hiểm không kịp cãi lại. Anh ta quay lại phòng chờ với chiếc mũ người ta vừa trả lại và một cảnh sát nói:

— Đi lối này, thưa ông! Cầu thang thứ nhất, bên trái. Cánh cửa trước mặt...

Maigret khoá hai vòng cánh cửa văn phòng, và đun nước để pha một tách cà phê đặc.

Các đồng nghiệp tưởng ông đang làm việc. Nhưng một tiếng đồng hồ sau ông phải thức giấc vì có một bức điện tín từ Anvers gửi về:

Issac Goldberg, bốn mươi nhăm tuổi, người buôn kim cương nổi tiếng tại chỗ. Quan hệ đúng đắn với các ngân hàng. Mỗi tuần một chuyến bằng máy bay hoặc xe lửa đi Amstersdam, Londres và Paris.

Có biệt thự sang trọng ở Campine. Đã kết hôn. Cha của hai đứa trẻ mười hai và tám tuổi.

Bà Goldberg báo tin là sẽ đáp máy bay đi Paris.

○○○

Lúc mười một giờ trưa chuông điện thoại reo vang, Đó là Lucas.

— Alô! Tôi đang ở ngã ba Ba goá phụ. Tôi gọi cho sếp từ xưởng sửa chữa ôtô, cách nhà của Andersen chừng hai trăm mét. Người Đan Mạch đã về tới nhà... cổng đã khoá chặt. Không có gì đặc biệt...

— Người em gái thì sao?

— Vẫn ở trong nhà, nhưng tôi không nhìn thấy...

— Xác của Issac Goldberg hiện ở đâu?

— Ở nhà xác Etampes...

Maigret trở về nhà ở phố Richard Lenoir.

— Ông có vẻ rất mệt!

Vợ ông nói đơn giản như vậy.

— Bà chuẩn bị vali giúp tôi. Chú ý bộ complet và giày thay đổi.

— Ông đi có lâu không?

Có món ăn nấu vội trên bếp. Trong phòng ngủ, cửa sổ để ngỏ. Chăn nệm được mang đi phơi. Bà Maigret chưa kịp chải đầu.

— Tạm biệt.

Ông ôm hôn vợ. Khi ông đi ra thì bà nói với:

— Ông mở cửa bằng tay phải...

Ông vẫn mở bằng tay trái. Đó là một thói quen. Bà Maigret hãy còn mê tín.

— Giải quyết vụ nào vậy? Một băng cướp?

— Tôi không biết.

— Ông đi có xa không?

— Tôi cũng chưa biết nữa.

— Ông hãy thận trọng, đúng không?

Ông xuống cầu thang và quay lại vẫy tay. Trên đường phố, ông gọi một chiếc taxi.

— Đến ga Orsay... Hay thôi... Từ đây đến Arpajon hết bao nhiêu tiền?... Ba trăm francs kể cả lượt về ư?... Nào đi!

Cái đó ít khi xảy ra. Nhưng ông đang rất mệt. Không thể cưỡng lại giấc ngủ đang đè nặng trên đôi mi mắt ông.

Có phải ông phần nào đã bị ảnh hưởng không? Không phải lý do ở chỗ ông mở cửa bằng tay phải. Cũng không phải vì câu chuyện mất chiếc xe một cách khác thường của Michonnet đã tìm thấy cùng với một xác chết trong nhà để xe của Andersen. Chính vì nhân cách của người này làm ông băn khoăn.

Mười bảy tiếng đồng hồ bị nướng chảy, những tên kẻ cướp bị thử thách, những kẻ ranh mãnh đã có mặt trong các đồn cảnh sát của Châu Âu không thể kiên trì trước một thử thách như vậy. Có phải chính vì cái đó mà Maigret đã thả Andersen ra không!

Xe chạy đến ngoại ô Hoàng Hậu thì ông đã ngủ. Tới Arpajon thì người lái xe đánh thức ông khi xe đậu trước một ngôi chợ mái che lợp rạ.

— Ông nghỉ ở khách sạn nào?

— Cho tôi đến ngã ba Ba góa phụ.

Một đoạn lên dốc mà vỉa hè nhem nhuốc dầu mỡ trên quốc lộ, hai bên có những tấm biển quảng cáo của những khách sạn lớn hoặc những hãng xăng. Một xưởng sửa chửa xe hơi ở phía nam cây xăng sơn màu đỏ. Bên trái là đường đi Avrainville có một biển chỉ đường. Xung quanh là cánh đồng bát ngát.

— Đây rồi! - Người lái xe nói.

Chỉ có ba ngôi nhà. Trước hết là xưởng sửa chữa ôtô, nền nhà bằng thạch cao, xây vội trong cơn sốt dịch vụ. Một chiếc xe thể thao lớn, sơn sáng loáng đang lấy xăng. Gã thợ máy đang chữa một chiếc xe của cửa hàng thịt.

Trước mặt là một ngôi nhà xây bằng đá vôi silic, kiểu biệt thự, xung quanh có hàng rào cao hai mét. Một tấm biển bằng đồng khắc dòng chữ: Emile Michonnet, bảo hiểm.

Ngôi nhà còn lại, ngôi nhà Ba goá phụ, cách hai ngôi này hai trăm mét. Tường bao quanh nên người ta chỉ nhìn thấy lầu một, mái lợp đá bằng và một vài vòm cây xinh đẹp. Ngôi nhà này xây cách đây ít nhất là một thế kỷ. Đây là một ngôi nhà nông thôn đẹp của thời trước, ngoài nhà chính còn có nhà cho người làm vườn, chuồng ngựa, sân nuôi gà vịt... Một bậc thềm năm bậc hai bên có hai cây đèn bằng đồng dẫn lên tiền sảnh ngôi nhà chính. Một bể cạn khô khốc. Một ống khói lò sưởi có một vệt khói xanh bốc cao. Đó là tất cả.

Phía xa là cánh đồng, một ngọn núi, các trang trại và bìa rừng. Và trên con đường bóng loáng những chiếc ôtô ngược xuôi, tránh nhau hoặc đỗ lại.

Xuống xe, tay xách vali, trả tiền cho người lái xe đang sửa soạn quay đầu xe để trở về Paris, Maigret đi về phía xưởng sửa chữa ôtô.

GIỚI THIỆU - Chương 1

Tiến >>


Nguồn: Lê- Hà - NXBCông an Nhân dân, 2004
VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 7 tháng 4 năm 2020