Đất nước đứng lên

nguyên ngọc

Phần thứ nhất
Chương I

Ơ mai Liêu ơi, suốt lúa chưa nhiều, không đau tay đâu. Phải suốt cho mau chớ. Suốt lâu mai mốt thằng Pháp tới rẫy nó lấy hết hột lúa, không có mà ăn, bụng đói đi vào rừng đào cái củ mài, khổ lắm đấy!

Hai chị em vừa suốt lúa vừa hát:

Lúa ta đã chín vàng

Chim ơi chim hãy bay đi!

Này con chim phí, chim kơ-tía

Chờ khi ta cúng giàng xong rồi

Chim hãy về đây ăn hạt lúa rơi

Lúa đó là của lũ chim

Còn lúa này là của ta

Vợ chồng ta mai chiều mang gùi ra rẫy

Khổ nhọc làm nên hạt lúa này…

Gùi lúa của hai người mang sau lưng mỗi lúc một đầy. Liêu quay lại nhìn Du hai ba lần, ngập ngừng, rồi đi sát lại gần Du, hỏi:

- Du ơi, khi mai đi ra rẫy, Du có ghé múc nước ở suối Thi-om không?

- Có múc ba trái bầu, bốn trái bầu đó, để trong nhà rẫy đó. Liêu có uống vào lấy mà uống.

Liêu lắc đầu, đưa một ngón tay vén tóc phủ xuống trán:

- Không uống, không khát nước đâu… Nè, Du đi ra nước suối Thi-om, thế Du có thấy anh Núp lưng đeo gùi, tay cầm cái rựa, đi xuống phía suối Đất-hoa không?

- Có thấy. Anh Núp đi Đê-pô mua muối cho mẹ đấy.

Liêu không suốt nữa, cứ vân vê bông lúa miết, sau mới nói nhỏ:

- Không phải đâu, Du à. Anh Núp đi An-khê đó.

Đôi lông mày Liêu nhíu lên:

- Làng Kông-hoa mình không theo Pháp, nó kêu đi xâu, không đi, nó kêu đi thuế, không đi. Nó đánh, mình bỏ chạy trong núi, thế mình đi An-khê gặp nó, nó có bỏ tù không hở Du?

Du cũng không biết:

- Nó biết chắc nó bỏ tù đó… nhưng mà anh Núp không đi An-khê đâu, mẹ anh Núp nói với tôi anh đi Đê-pô mà.

- Anh Núp nói với mẹ không thiệt cái miệng đâu. Cái bụng anh muốn đi An-khê, cái chân anh đi An-khê, mà cái miệng anh nói với mẹ là anh đi Đê-pô thôi… Du ạ, anh Núp nói với tôi là anh đi An-khê mà…

- Đi An-khê làm gì hè?

- Anh Núp muốn đi coi thằng Pháp thử.

- Coi thằng Pháp à, coi sao được nó, nó bỏ tù làm sao?…

Liêu hỏi Du để đỡ lo lắng. Nhưng hỏi rồi lại càng lo lắng hơn.

Buổi sáng nay, Liêu mang gùi ra rẫy, đến nước suối Thi-om thì gặp anh Núp. Anh Núp đứng trên hòn đá, nước chảy dưới chân. Nước chảy gặp hòn đá, nó tức quá, sôi bọt lên trắng xoá. Anh Núp lấy tay làm cái chén, đang uống nước suối. Anh đưa cho chị Liêu một cái “chum”[2] rất đẹp.

- Cho em đấy.

Liêu cầm cái chum, hai má đỏ, buộc thử ngang bụng, cúi xuống giấu hai con mắt đen láy, nói:

- Khi hôm Liêu nghe anh thổi kèn đing-nam, hay quá… Bây giờ, anh đi đâu?

- Anh đi An-khê.

Liêu mở tròn hai con mắt lớn:

- Đi An-khê làm chi? Anh không sợ thằng Pháp à? Tháng trước lũ làng Ba-lang không chịu đi xâu, nó tới bỏ bom chết ba mươi người. Ngày bữa kia, nó bắn làng Đê-tùng trong nhà rông chết mười bảy người. Nó ghét người Ba-na mình lắm, anh đi coi nó làm chi?

Núp lấy ngón chân tẩy một cái rêu trên hòn đá:

- Nó làm chết người Ba-na mình nhiều quá, Liêu ạ. Anh đi coi thử đánh có được không… Thôi, ông trời lên cao rồi, anh đi cho kịp.

Liêu không hiểu gì cả, đứng nhìn theo, thấy cái tóc của Núp gió thổi bay bay, rồi mất vào trong lá cây màu xanh. Liêu tháo cái chum ra, nhúng xuống nước cho dẻo sợi giang, quấn tròn lại, giấu thật kỹ vào đáy gùi, rồi leo lên đường, đi ra rẫy.

Đi ngang qua rẫy của anh Núp. Liêu dừng lại ngó vô. Lúa của Núp chín rồi, bà mẹ anh đang suốt, cái lưng cong xuống. Cái rẫy của anh Núp tốt quá, to quá, to nhất làng Kông-hoa. Bề dài nhiều sải tay lắm, đếm lộn nhiều lần, đếm không hết. Bề ngang cũng nhiều sải tay lắm, đếm cũng không hết. Trước kia ở đây có nhiều cây to, ba bốn người nối tay nhau ôm không hết cái bụng cây, có nhiều hòn đá to, bằng con heo cũng có, bằng con trâu cũng có. Anh Núp không có cha từ năm lên hai tuổi, chỉ còn mẹ già, em nhỏ, thế mà giỏi quá. Một mình chặt miết cũng ngả được cây to, đẩy được hòn đá, cho lửa ăn cái rừng, tỉa lúa, tỉa bắp xuống, làm ăn no đủ nhất làng. Lũ già làng như bok[3] Pa, bok Sung thương anh Núp, tối ngồi ở nhà rông, gõ ống điếu xuống cối gạo, khen:

- Núp con người tốt, biết làm ăn, thanh niên trong làng làm rẫy không ai bằng Núp. Lũ làng có ai đau, Núp trước tiên đi vô rừng hái cái lá tốt về cho uống mau lành; lũ làng có ai chết, Núp trước tiên đi vô núi tìm cái cây to về làm hòm. Con người có cái tay giỏi, đan cái gùi cũng được, đan cái rổ cũng được. Già làng nói biết nghe lời, tốt lắm!…

Liêu nghĩ mãi quên cả suốt lúa. Du quay lại, thấy Liêu đứng lặng một chỗ, tay cầm cái bông lúa, mắt ngó chăm chăm. Buổi mai này, lục trong gùi của Liêu thấy cái chum giấu kỹ trong đó, biết là chum của anh Núp cho, tự nhiên Du cũng hơi buồn, ngực hồi hộp, từ mai giờ ít muốn nói chuyện. Nhưng bây giờ thấy Liêu lo, trong bụng Du chỉ thấy thương Liêu hơn. Du rón rén đi tới sau lưng Liêu, hù một cái. Liêu giật mình, suýt đổ cả gùi lúa. Hai chị em ôm nhau cười giòn tan. Du chỉ vào mặt Liêu.

- A, bắt được rồi, bắt được rồi, con mắt mày ngó cái bông lúa mà cái bụng mày nghĩ tới anh Núp, phải không?

Liêu nắm chặt lấy hai tay Du, hai má đỏ lên, tóc đổ xuống trán, lắc đầu chối:

- Không phải đâu! Không phải đâu!

༺༒༻

Núp lội qua suối Thi-om, đi một đoạn đường rừng, tới con suối lớn Đất-hoa. Bên này suối Đất-hoa là làng Kông-hoa của Núp, bên kia suối Đất-hoa là làng Ba-lang. Hai làng ở gần nhau, ngày cúng lúa mới, ăn cơm mới, thường qua lại đánh chiêng với nhau nên quen. Hôm nay lũ người Ba-lang đi bắt cá ở suối Đất-hoa nhiều.

Ba-lang trước nay cũng không chịu đi xâu, nộp thuế cho Pháp, Pháp đem máy bay đi tìm. Lũ người nhỏ không biết, chạy ra coi. Nó thả bom xuống. Bom nổ ra lửa. Lửa ăn cả rừng, cả người. Mẹ bồng con, tay con còn chỉ cái máy bay, cả mẹ cả con thành cục than. Ông già chết không còn râu, không còn tóc, nằm queo trên hòn đá. Ba mươi người không biết sống nữa rồi. Lũ[4] người còn lại rúc trong hốc đá không dám đi ra rẫy, ăn trái cây như con thú trong rừng. Pháp cho người theo nó tới nói:

- Về đầu Pháp đi, Pháp còn trái bom có thứ lửa ăn được cả hòn đá nữa, mai mốt Pháp còn đi thả tất cả núi rừng.

Ba-lang phải về đi xâu, đi thuế. Còn một số người chưa chịu về, trốn ở hai bên bờ suối Đất-hoa, nghe máy bay kêu thì xuống nước trốn lửa. Không có gì ăn, chỉ còn da, không còn thịt.

Từ đời ông đời cha, người Ba-na đã khổ như thế này rồi. Đi xâu đi thuế cho Pháp hai tháng, ba tháng, bỏ rẫy, chết người, nhớ núi, nhớ suối. Không chịu nổi, phải chạy vô núi trốn. Trốn trong núi một tháng, hai tháng. Pháp đi tìm ra, lại phải về đi xâu, đi thuế. Miết miết như thế, không biết khi nào hết…

Qua suối Đất-hoa, Núp gặp một ông già cõng một đứa con nít. Ông già không có áo, không có khố mặc, áo khố Pháp đốt cháy hết rồi, chỉ có một miếng vỏ cây đập dẹp đeo trước bụng. Núp nắm tay thằng bé, hỏi:

- Tên nó là gì?

- Tên nó là Xá đấy.

- Cha mẹ đâu?

- Cha mẹ đi xâu cho Pháp chết mất rồi.

Em ruột Núp cũng tên là Xá. Em Xá và mẹ rồi cũng như thế này. Núp cắn môi, bỏ đi, quên chào ông già.

༺༒༻

Núp đi suốt ngày mới tới Đê-pô. Hỏi Đê-pô không có muối, nhờ người Đê-pô dẫn đi An-khê, Đê-pô là làng ở gần An-khê, từ đời ông bà đã có đánh Pháp, sau đánh không nổi, phải về ở đây. Người làng Đê-pô nhận Núp là bà con, dẫn đi An-khê, Pháp sẽ không hỏi gì…

Đi càng tới gần An-khê, rừng càng thưa dần. Từ nhỏ quen đi trong rừng rậm, bây giờ ngó lên thấy ông trời đất rộng, núi bốn phía thấp xuống, tự nhiên Núp nghe lành lạnh. Núp đi chậm lại, nghĩ:

- Mẹ biết mình đi An-khê, chắc mẹ muốn khóc lắm. Pháp bắt mình, chắc mẹ chết quá.

Có khi đang đi, Núp đứng lại, quay ngó phía sau lưng, phía hòn núi Chư-lây. Người Đê-pô dẫn đường hỏi:

- Sao đó, không đi nữa à?

- Không phải đâu… đi chớ, con kiến cắn cái chân gãi một chút…

Phải đi chớ, thế nào cũng phải đi! Cứ nhớ tới đêm qua nói chuyện ở nhà rông, thì Núp lại nhất định phải đi, đi cho tới An-khê.

Đêm hôm qua, Núp gùi củi ở rẫy về trễ, ăn cơm xong lên nhà rông[5], thanh niên đã họp đông đủ. Ghíp đánh đờn tơ-rưng. Mai Du hát bài hát nói cái đất nước Ba-na tốt đẹp:

Ta luyến ta thương

Đất nước ông bà

Cái nơi làm rẫy,

Cái bến nước ăn

Cái làng cũ, cái nhà xưa

Nơi bãi cỏ xanh xanh

Có con trâu con bò gặm cỏ.

Ta luyến ta thương

Dòng suối nước trong

Và rừng ta đi về lấy cây suốt cá

Rừng ta đẹp chim bay về làm tổ

Nước ta trong bờ suối nở hoa rừng…

Bok Sung gõ ống điếu xuống nhà sàn cho lửa ăn thêm nhiều củi nữa, ngọn nó cháy to lên, rồi như thường lệ mọi đêm, bok bắt đầu kể chuyện cho lũ thanh niên nghe. Đêm nay bok Sung kể chuyện gươm ông Tú.

Chuyện này xảy ra đã lâu lắm rồi. Ngày nay, ông Tú đã chết, nhưng sông, núi ông Tú vẫn còn. Bok Sung đưa một ngón tay ra hiệu cho mọi người im lặng, lắng tai nghe. Trong đêm núi rừng thanh vắng, xen lẫn tiếng lửa tí tách, nghe rõ ràng có tiếng nước suối chảy rì rào. Bok Sung chậm rãi nói:

- Có nghe rõ không?… Đó là tiếng nước suối Thi-om. Nước suối Thi-om chảy về nước suối Đất-hoa. Nước suối Đất-hoa chảy về nước con sông Ba. Nước con sông Ba chảy qua làng ông Tú, rồi còn chảy xa nữa chảy miết xuống đến chỗ rẫy của người Kinh, rồi chảy ra một con sông rất lớn, không có bờ, người Kinh gọi là biển…

Lũ thanh niên ngồi nghe bok Sung kể chuyện, tưởng như thấy rõ ràng ông Tú trước mắt rồi. Ông Tú người to lớn, râu lưa thưa, con mắt ướt mà ngó thẳng, trên khố giắt một cái gươm dài. Đất nước mình, Ba-na, Ê-đê, Kinh, M’nông, Xơ-đăng… không ai có cái gươm như gươm ông Tú. Cái gươm đó không phải là gươm thường, đó là một cái gươm giàng[6]. Có cái gươm đó, không ai dám tới lấy đất nước mình, bắt người mình đi xâu, nộp thuế. Tự do đi làm rẫy, tự do đi bắt cá dưới suối, đi săn con thú trên rừng, ăn no, mặc đẹp, đánh chiêng, thổi kèn, bao nhiêu tre lồ ô trong núi đốn về làm đờn tơ-rưng, mùa lúa mới đánh đờn vui chơi cho hết một ông trăng… Cũng có một lần Pháp tới kêu người Ba-na đi xâu. Ông Tú đem gươm ra đánh, Pháp thua chạy hết cả… Nhưng có một bữa, trời mưa to gió lớn, sấm sét. Nước sông Ba to lên, chút nữa ngập hết rẫy làng. Ông Tú đem gươm ra múa, đánh mưa gió, cứu dân. Mưa gió phải chịu thua. Nhưng ông Tú múa mạnh quá, rớt mất cái lưỡi xuống sông Ba, chỉ còn cái cán cầm trong tay. Nước sông Ba chảy, trôi lưỡi gươm về dưới xuôi, người Kinh lấy được. Người Kinh giữ cái lưỡi, người Thượng giữ cái cán, hai người ở xa nhau, Pháp tới không có cái gì đánh nên phải thua. Pháp lấy được đất nước mình, bắt mình phải đi xâu, nộp thuế…

Lũ thanh niên ngồi nhìn chăm chăm vào đôi mắt sâu và đen của bok Sung: chính đôi mắt ấy của bok đã nhìn thấy ông Tú đấy! Bok Sung thong thả vo một viên thuốc, nhét vào ống điếu, bẻ một cái nẹp ở sàn nhà, bắt lửa châm thuốc hút phà khói dày đặc. Cả cặp mắt sâu, cả hai gò má cao và nhăn, cả chòm râu dài và bạc của bok chìm mất trong khói. Bok Sung đợi cho khói tan dần, lũ thanh niên hết bàn tán xôn xao mới nói tiếp:

- Bok Thiêng là ông nội tôi, bok Klăng là cha tôi dặn con cháu: muốn đánh Pháp phải đi tìm người Kinh, chắp lại cái gươm thì mới đánh thắng…

Bok Sung kể hết chuyện, đêm đã khuya. Con chim chao-ao bay ngoài trời kêu “Chao ao! Chao ao!” Con cọp “bép” trên núi Chư-lây. Lũ già làng về đi ngủ cả. Chỉ còn thanh niên ở lại nhà rông, hơn mười người, ngồi lặng quanh bếp lửa. Nước suối Thi-om cứ chảy rì rào, rì rào trong đêm tối. Nước suối đó đi miết một đêm nay, sáng mai thì tới con sông Ba, trưa mai chắc tới ngang làng ông Tú… Ông Tú chết đã bao nhiêu năm nay rồi? Tại sao người Ba-na không ai biết đi tìm người Kinh để chắp lại cái gươm? Cái lưỡi gươm đó bây giờ lạc đi đâu rồi? Những lần đi làm xâu ở An-khê, người Kông-hoa như Núp, như Ghíp, như bok Pa… đều đã gặp người Kinh. Người Kinh cũng phải đi xâu, đi thuế cho Pháp, cũng khổ thế, có ai biết lưỡi gươm họ để đâu? Không có gươm ông Tú, đất nước khổ đến khi nào mới thôi? Cách đây mười năm, 1925, có người M’nông tên là Ma-Trang-Lơn[7] nổi lên đánh Pháp ở Lấc. Nhưng rồi sau cũng phải thua, cũng phải đi xâu, đi thuế. Chắc bok Ma-Trang-Lơn cũng không tìm được gươm ông Tú…

Lửa cũng suy nghĩ, nó thấp ngọn xuống. Cả nhà rông im lặng.

Gia nói trước tiên:

- Lúa trên rẫy chín hết rồi, chắc thằng Pháp sắp đi lùng.

Câu nói đột ngột làm cho mọi người lo lắng. Xíp ngồi trong bóng tối, đập một con muỗi, nói như nói một mình:

- Làng Ba-lang như cái cửa, làng Kông-hoa như cái nhà. Tháng trước Pháp thả bom Ba-lang, Ba-lang thua nó rồi. Chắc tháng này nó đánh đến Kông-hoa mình.

Ghíp, người thanh niên thổi kèn hay nhất trong làng, cũng ngồi trong bóng tối, trùm chăn kín đến cổ, không thấy mặt, chỉ thấy đầu tóc quăn. Ghíp thở dài:

- Sắp mất cái nhà, cái rẫy rồi, sắp đi vô rừng đào củ mài ăn rồi, khổ quá. Lúa ngoài rẫy đó không biết có ăn được không. Giàng bắt thằng Pháp đi, ác lắm!

Một người đứng dậy, giọng nói ồ ồ:

- Năm nay không chạy nữa, phải đánh nó đi, đánh nó chết mình mới có lúa ăn. Ông bà trước đánh Pháp, sao bây giờ mình không đánh. Chạy miết không sống nổi đâu. Chết hết người Ba-na còn gì.

Người vừa nói câu đó là một thanh niên vạm vỡ, quấn chăn, ngậm ống điếu, đứng che cả bếp lửa. Lửa cháy bập bùng soi bóng anh lúc to lúc nhỏ lên tường nhà rông. Anh thanh niên có cặp mắt ướt, râu lún phún từ mang tai đến cằm.

Ghíp thở dài, trả lời anh:

- Đê[8] Núp ơi, đánh Pháp không được đâu. Phải chạy nữa thôi. Ông bà ngày trước cũng đánh không nổi, thua rồi đó.

Núp rút cả cái ống điếu ra khỏi miệng, quay lại hỏi:

- Tại sao đánh không được?

Gặp đôi mắt sáng của Núp nhìn chọc thẳng vào bóng tối, Ghíp đã ngồi chỗ tối rồi, còn tụt lui vào bóng tối sâu hơn nữa. Ngồi xa lửa nghe hơi lạnh dưới sàn nhà thổi lên, thấm vào trong chăn, Ghíp càng rụt cổ lại, không trả lời.

Nhong, anh thanh niên lớn tuổi nhất, xếp lại mấy cây củi, chậm rãi nói:

- Pháp có xe, có máy bay, có súng nhỏ, súng lớn, ông bà đánh không được vì bắn nó không chảy máu đâu.

Không khí nhà rông trở nên ồn ào. Kẻ nói Pháp cũng là người, bắn nó cũng phải chảy máu. Người nói nó như hòn đá, như cái cây, nó là Giàng. Trên trời nó đi cũng được, dưới nước nó đi cũng được, đánh trúng nó, nó không có máu. Ngày trước bok Klăng đánh, nó đem máy bay tới bay trên làng, bok Klăng lấy ná bắn trúng máy bay, cũng không thấy chảy máu, không thấy chết.

Cãi nhau mãi tới lúc con chim chèo bẻo kêu. Ghíp vẫn thở dài, lắc đầu. Lũ thanh niên đều nghe theo Ghíp và Nhong. Chỉ còn một mình Núp chưa tin. Bàn tay to và đen nắm trùm cả đầu ống điếu còn nóng, Núp nhìn lửa, nói như nói với chính mình:

- Để coi thử đã…

༺༒༻

Đêm đó, chị Liêu nằm nghe nhiều tiếng đờn kơ-si réo rắt như tiếng gió thổi qua rừng sim. Nhưng Liêu cố chong tai lắng nghe không thấy có tiếng đờn của Núp. Liêu quen tiếng đờn đó lắm. Nghe tiếng đờn đó, tự nhiên trong bụng muốn trở dậy đi ra tỉa lúa cho mau xanh, muốn đi lên núi tìm con nai, tay muốn siêng dệt cái vải, đan cái rổ, cái gùi, và muốn thương nhau…

Núp không ngủ được. Sáng hôm sau, anh dậy sớm mang gùi, cầm rựa nói với mẹ:

- Ghè[9] muối nhà mình hết rồi. Con đi Đê-pô mua muối. Pháp có đi lùng cũng có muối ăn với rau, khỏi đói.

Mẹ dặn Núp:

- Pháp không thương người mình đâu, con ạ. Con đi phải để cái lỗ tai nghe tiếng chân nó, nó muốn giết người Ba-na mình lắm.

Núp thương mẹ quá, anh muốn nói thật:

- Mẹ ơi, con đi An-khê đây.

Nhưng nghĩ: mẹ biết mình đi An-khê chắc mẹ khóc lắm. Mẹ khóc, chân mình đi không được. Nên lại thôi.

Đi qua rẫy, thấy lúa tốt, tức trong bụng quá:

- Giàng bắt thằng Pháp đi, mày làm khổ mẹ tao. Tao đi coi mày cho kỹ, mai mốt phải đánh mày chảy máu mới được!

[1] Mai: chị (tiếng dân tộc Ba-na).

[2] Chum: một thứ trang sức của phụ nữ Ba-na, nịt ngang bụng. Chum làm bằng nhiều sợi giang vót nhỏ rất công phu. Người thanh niên có khi bỏ hàng tháng làm một cái chum tặng người yêu. Cho nhau cái “chum” là dấu hiệu tỏ tình yêu.

[3] Bok: ông, bác.

[4] Lũ: tiếng Ba-na, chỉ số nhiều. Lũ người: những người, nhiều người.

[5] Nhà rông: nhà “câu lạc bộ” chung của một làng ở Tây Nguyên, thanh niên, phụ nữ đêm đêm tới đó ca hát, nói chuyện.

[6] Giàng: trời, thần…

[7] Ma-Trang-Lơn: một vị anh hùng cứu quốc dân tộc M’nông.

[8] Đê: anh.

[9] Ghè: cái chum, cái lu, cái hũ to.

Phần thứ nhất
Chương I

Tiến >>

Nhà xuất bản Kim Đồng 2006
Nguồn: tve-4u
Được bạn: mọt sách đưa lên
vào ngày: 9 tháng 10 năm 2020