Trong khi người người dạo phố thì cô ngồi bên cửa sổ, đắn đo giữa một chùm nho pha lê và một bông dành dành tươi, không biết nên gài món đồ nào lên vai áo. Đúng lúc ấy, có tiếng ai đó gõ lên cánh cửa căn phòng nằm đối diện phòng lễ tân.
Cho dù chọn món đồ nào, cô cũng biết nó sẽ trở thành một trào lưu lan khắp thành phố. Hàng trăm cô gái trẻ sẽ đua nhau đeo nho pha lê hoặc hoa dành dành tươi những tuần sau đó.
Khó mà tin nổi mới mấy năm trước, chẳng ai quan tâm cô gắn thứ gì lên vai. Thật ra thì chẳng ai đoái hoài đến cô chút nào. Hồi ấy, cô vẫn còn đi đôi giày bệt mòn vẹt và liên tục bị mấy hàng ăn ven đường xoàng xĩnh tại Detroit cho thôi việc. Còn giờ đây…
Cô không thể ngừng quay đầu lại để ngắm nó ngoài cửa sổ. Đó là minh chứng, là biểu tượng cho thấy cô quan trọng nhường nào, cho dù địa vị này có ngắn ngủi đến đâu. Chính cái hình bóng ngoài kia.
CASINO HẠNG SANG
KIKI WALKER
en la gran revista de arte (trong đêm nghệ thuật hoành tráng)
“TRIC-TRAC”
Biển quảng cáo ấn tượng nhất thành phố nổi trên nền trời xanh cobalt của buổi chiều muộn. Trong buổi diễn mở màn tuần sau, khi dòng điện truyền vào, đến cả những người sống ở đầu kia quận Alameda cũng sẽ thấy được tên cô trên màn đêm.
Đã có nhãn hiệu nước hoa và sơn móng tay đặt theo tên cô rồi, tất nhiên họ phải trả tiền mới được lãnh vinh dự ấy, và cả thức uống mới nhất tại quán bar Inglaterra sang trọng nữa, cocktail Kiki Walker (đầu đỏ rực và thấu tận óc
, theo như cách giải thích của người pha rượu). Suốt mùa đông
vừa rồi (từ tháng Sáu đến tháng Chín), cô đi diễu như nữ chúa khắp thành phố lớn thứ ba miền Nam kênh đào Panama này, với xe hơi và tài xế riêng, người hầu riêng và phòng khách sạn hạng sang. Đối với một cô gái đàn ca mua vui cho mấy quán xá Detroit bỗng vụt tỏa sáng thành một ngôi sao sau một tour diễn rong, điều đó không tệ. Không tệ chút nào.
Cô vẫn chưa hiểu lắm là nhờ đâu mà mình được như thế này. Một chút tài năng nhảy múa, một xíu tài nghệ ca hát và cực kỳ nhiều may mắn đã hỗ trợ cô. Chủ yếu là cô đã vô tình ở đúng nơi, đúng lúc và không có đối thủ cạnh tranh. Hồi làm tại Detroit, bài hát của cô bị coi là rẻ tiền, nhưng tại đây thì chẳng ai hiểu ca từ nên thành ra chúng nghe có vẻ sâu sắc. Hồi ở Detroit, mái tóc đỏ của cô xuất hiện nhan nhản khắp nơi, nhưng ở đây nó lại trở thành mặt hàng hiếm. Và cô cũng phải thừa nhận rằng có khả năng, khả năng nhỏ thôi, là Manning cùng mấy cái trò điên rồ của anh ta đã góp phần be bé trong việc thu hút sự chú ý của công chúng về phía cô.
Kiki không muốn nhớ về cuộc gặp đầu tiên của họ. Khi ấy Manning ngồi tại một quán cà phê ven đường, râu ria chưa cạo và cổ áo thì dơ dáy; còn cô thì tạt qua quán xem họ có cần tuyển thu ngân, hay thậm chí bồi bàn không. Anh ta mời cô một tách cà phê, bởi vì vẫn còn đủ tiền mua thêm một tách; còn cô trông có vẻ đang cần đến cà phê. Nửa tiếng sau, lúc cả hai rời bàn đứng lên, anh ta đã trở thành đại diện truyền thông của cô. Hai tuần sau, Kiki có công việc đầu tiên và Manning có một cái cổ áo sạch.
Mình đã giúp anh ta thành danh, cô hay ngắt quãng dòng hồi tưởng khó chịu kia ở đoạn này.
Chuyện anh ta góp phần tạo nên thành công của cô nghe thật không tưởng, chẳng đáng nghĩ đến dù chỉ một giây. Bất kể ai đã giúp ai thành danh, chỉ có điều này là chắc chắn: Giờ cả thành phố đang phát điên lên vì cô.
Tiếng gõ cửa lại vang lên.
“Maria, chắc là Senor Manning đấy,” cô gọi chị người hầu. “Cho ông ấy vào đi.”
Cô nghe tiếng then kéo được mở ra, nhưng thay vì câu chào khe khẽ quen thuộc, chị hầu gái lại rú lên chí mạng. Có tiếng bước chân chạy rầm rập, tiếng ghế đổ cái rầm, như thể ai đó vừa ngã lăn ra.
Kiki vội xoay người trên băng ghế, tò mò đứng dậy. Trước khi cô kịp làm gì khác, nó đã lộ diện. Cảnh tượng đáng kinh ngạc đến độ tâm trí dứt khoát không tin nổi vào hình ảnh mà cặp mắt thu được, ngay cả khi nó đang lồ lộ trước mặt. Một cái đầu áp sát mặt đất, bấy giờ đang chui qua cửa, tiến về phía cô. Trong khoảnh khắc hoảng loạn đầu tiên, cô chỉ có thể nhận ra đây là đầu của một con vật họ mèo. Mấy từ báo đốm
, báo hoa
nối đuôi nhau lướt qua bộ óc đờ đẫn vì sốc của cô.
Bộ lông đen thẫm, cặp tai nhọn ép phẳng, mõm gí sát thảm, con vật bước đến rất nhanh, tấm thân thuôn dài gợn sóng một cách uyển chuyển. Cô chỉ nhịn được đến lúc ấy trước khi la hét thất thanh, hòa cùng tiếng hét của chị hầu gái. Cô quay lại và nhảy vọt lên bàn trang điểm với sự nhanh nhẹn đầy bản năng của một vũ công. Nước hoa, phấn hộp và đồ trang trí rơi tứ tung xuống khắp sàn nhà, một hộp nhạc nhỏ lập tức ngân nga ngay khi chạm đất. Cô đứng tít trên đó múa may loạn xạ, tóm lấy phần váy gần đùi và vung vẩy nó lia lịa để xua đuổi nỗi kinh hoàng kia.
Chỉ đến khi ấy, cô mới để ý cái rọ mõm siết chặt bộ hàm con vật cùng sợi dây buộc đang căng ra, và cả gương mặt đậm chất Trung Tây quen thuộc của Jerry Manning đang nhòm cô từ phía sau. Tiếng la hét trở nên tròn vành rõ chữ hơn, nhưng không giảm âm lượng chút nào. Chắn giữa họ là cái thân mình duyên dáng, uyển chuyển, uốn éo chẳng khác nào loài bò sát của con vật. Bấy giờ nó đang kéo căng dây buộc, bụng áp sát sàn, các thớ cơ vai mạnh mẽ nổi gồ lên dưới lớp lông đen mượt mà, đuôi giật liên hồi, chân tìm cách vồ lấy cái hộp nhạc đang phát ra một giai điệu trong trẻo như tiếng sáo.
“Lôi nó ra khỏi đây!” Kiki rú rít như đang ngân quãng tám. “Manning, anh mắc chứng quái gở gì thế, sao lại mang cái thứ đó vào trong này?”
“Nó sẽ không làm hại cô đâu,” Manning tìm cách giải thích, đẩy cái mũ cối lên qua vầng trán. “Chẳng việc gì phải sợ cả. Ban nãy, chính tôi đã ngồi cùng nó trong xe chở nông sản suốt chặng đường đến đây. Con báo đã được thuần hóa hoàn toàn. Nó vốn được một tay sống ở ngoại ô nuôi dưỡng từ khi còn bé tí mà.”
“Rồi, thế anh mang nó đến chỗ tôi làm gì?” Ít nhất cô cũng đã ngừng la hét.
“Tôi tin là trong lúc thực hiện chuyến ngao du hàng ngày quanh khu Alameda, sẽ là ý hay nếu cô dắt theo con vật này.”
“Dắt theo cái thứ đó ấy hả? Không bao giờ! Còn lâu tôi mới đi cùng nó ra cửa, chứ đừng nói là ngồi cùng một xe với nó rong ruổi khắp Alameda! Giờ nghe cho rõ đây, Manning, tôi bắt đầu thấy mệt mỏi với sóng não nhà anh…”
Anh ta tranh thủ đưa một tay lên châm điếu thuốc. “Hãy nghĩ thử mà xem, cô sẽ gây dậy sóng cỡ nào? Chỉ cần bước xuống khỏi xe với con báo bên cạnh, ghé vào quán Globo nhấm nháp vài hớp Martini trong mấy phút thôi. Chuyện ấy có gì khó khăn nhỉ? Tôi đã cài cắm nhiếp ảnh gia khắp quán để chụp cảnh cô dắt theo nó rồi. Tôi có thể giúp cô độc chiếm toàn bộ trang đôi của tờ Grafico Chủ nhật tới này, lão Herrera đã bật đèn xanh. Nguyên hai trang ảnh in ống đồng xanh, chỉ dành riêng cho cô. Nhìn này, tôi còn kiếm cho cô cả một cây roi vàng để mang cho đủ bộ.”
“Anh tử tế với tôi quá!” Cô giận dỗi nói.
“Chuyện này chỉ tốt cho cô, chứ không phải cho tôi,” anh ta dỗ ngon dỗ ngọt. “Tuần tới cô diễn mở màn rồi. Dân Mỹ Latin thích các siêu sao trông phải thật khác biệt. Cô muốn tour diễn thành công vang dội phải không?”
“Tôi muốn tham gia biểu diễn, chứ không phải nằm băng bó đầy người trong một bệnh viện nào đó,” cô nói. “Mọi thứ đã chuẩn bị xong xuôi hết rồi, giờ tôi còn cần chiêu trò làm gì nữa? Nếu là lúc mới bắt đầu sự nghiệp thì lại khác.”
“Chẳng bao giờ cô xong xuôi trong cái ngành này được đâu. Thôi nào, Kick, chịu chơi đi. Xem này, nhìn tôi một tí nhé.”
Con vật đang nằm ườn một bên, lười nhác liếm láp bên chân. Anh ta cúi xuống, gập ngón trỏ lại và nhẹ nhàng vuốt lớp lông mượt dưới bụng nó mấy lần. Nó lập tức lật ngửa lên theo đúng kiểu bọn mèo nhà, bốn chân giơ trên không, khẽ khàng tìm cách gạt ngón tay anh ta ra.
“Cô không thể kiếm được con báo nào thuần hơn con này đâu. Cứ thử dắt nó xem. Chỉ cần thử thôi, xem cảm giác thế nào.”
Anh ta vươn ra và chộp lấy bàn tay hãy còn ngại ngần của cô, luồn vòng dây buộc qua mấy ngón tay.
Kiki vẫn đứng im trên bàn, trong lòng đã bắt đầu xuôi xuôi, dù không biểu hiện đồng tình ra mặt. Váy cô đã được thả xuống như cũ. Anh ta buông tay, sợi dây dắt nằm hoàn toàn trong lòng bàn tay cô.
“Tôi sẽ ngồi trong một cái taxi ngay đằng sau và theo sát cô suốt cả chặng đường.”
Riêng việc này thì cô kiên quyết rắn mặt, “Ồ không, anh sẽ không làm vậy. Hoặc anh đi cùng xe với tôi và ngồi trên ghế trước, hoặc là tôi sẽ ở lì trong này không thèm ló mặt ra đường.”
Anh ta để dành lập luận hiệu nghiệm nhất của mình vào phút chót. Bằng kinh nghiệm bản thân, Manning biết chắc nó sẽ thuyết phục được cô ngay lập tức. Anh chàng này quả là một nhà tâm lý học ranh mãnh.
“Cô nhìn mà xem, con báo hợp với bộ đồ cô đang mặc chưa kìa! Cô phải tận mắt thấy mình với nó hợp thành một bộ đôi ấn tượng ra sao! Xuống dưới này một phút thôi, Kick, đứng cạnh nó và nhìn vào gương đi! Đến cả hai vị nữ hoàng Zenobia và Cleopatra cũng không thể sánh được bằng cô!”
Anh ta giơ tay lên đỡ cô xuống. Có vẻ đòn tấn công đã phát huy tác dụng. Tiếp tục liếc con báo đầy ngờ vực, Kiki dè dặt chúc mũi chân xuống, chuẩn bị đặt chân lên sàn một lần nữa.
“Chết tiệt,” cuối cùng cô thốt ra, chút bỗ bã từ những tháng ngày lăn lộn ở Detroit tái trỗi dậy, “tôi thật đúng là biết hi sinh vì nghệ thuật!”
Chuyến viếng thăm quán Globo của cô luôn là một sự kiện đình đám, nhưng lần này nó phải là một cú sốc choáng váng. Khách khứa đến nhấm rượu khai vị ngồi tràn ra tận ngoài vỉa hè có mái che. Tất cả những nhân vật tiếng tăm trong thành phố đều lai vãng đến quán, nơi đây là phòng trưng bày cá tính của mọi nữ diễn viên.
Theo yêu cầu của cô, Manning, hiện đang ngồi tại ghế phụ lái trên chiếc Packard, đã phải kín đáo vắt dây buộc qua ghế và giữ chắc con báo đến tận phút chót. Khi họ đến nơi, anh ta mới chuyển chiếc dây cho Kiki lúc cô chuẩn bị rời xe. Người tài xế hăng hái xuống trước, chạy vòng ra sau mở cửa. Cô đứng dậy trong khoang xe, giữ thế chỉ vừa đủ lâu để tất cả mọi người có thể thấy rõ bản thân, sau đó sửa soạn bước xuống. Đến đây xảy ra một chút sự cố, nhưng chỉ thoáng qua rồi được lấp liếm đi nhanh chóng. Con báo đứng giữa cô và cánh cửa, ban đầu nó không chịu đi, cô sẽ phải bước vòng qua đầu nó mới ra ngoài được.
“Lấy chân thúc nó đi!” Manning hạ giọng nhắc.
Cô rón rén lấy mũi giày thúc vào sườn nó một cái. Rồi lại thêm một cái nữa. Con vật miễn cưỡng đứng dậy, hơi lảo đảo, sau đó nhảy tọt lên hè như cột nước đen tự nhiên phụt ra, giật mạnh tay cô một phát, khiến Kiki phải khó khăn lắm mới che giấu được bối rối. Cô bước theo nó, mỉm cười duyên dáng như thần Vệ Nữ.
Đây là lần đầu tiên con báo tiến vào tầm nhìn trọn vẹn của đám đông trong quán. Từ nãy đến giờ, nó nằm khuất dạng trên sàn xe. Hàng chục cổ họng đồng thanh bật ra tiếng rì rào kinh ngạc, tạo thành dàn đồng ca trầm trầm và mơ màng. Hàng loạt lời bình phẩm đầy phấn khích dồn dập vang lên.
“Mira! Mira! (Kìa! Kìa!) Nhìn xem cô ấy dắt gì theo kìa!”
Câu này được lặp lại xung quanh, từ ghế này sang ghế khác và từ bàn này sang bàn khác. Những người ngồi xa đứng hẳn dậy để nhìn rõ hơn. Đám phụ nữ rú lên, tỏ vẻ hoảng sợ và thất kinh.
“Ay, que horror! (Ôi, kinh khủng quá!) ”
“Que barbaridad! (Thật hoang dã!) Cô ta định dắt nó vào đây sao?”
Và họ chuẩn bị sẵn tinh thần nhảy lên né đường.
Người người bắt đầu túm tụm lại, cẩn thận giữ khoảng cách.
“Ở im đấy, đừng để tài xế đánh xe đi chỗ khác.” Cô thì thầm với Manning, nét căng thẳng lấp ló đằng sau mặt nạ tươi cười điềm tĩnh và thoải mái.
“Anh ta không thể đỗ ngay trước mặt tiền quán, chúng ta đâu được phép dừng xe ở đây. Bọn tôi ở ngay cuối phố thôi. Sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra cả, cô chỉ cần đi đến bàn và ngồi xuống.”
Tiếng xe nhả thắng ngay sau đó dường như khiến cô đóng băng tại chỗ. Thấy vậy, Manning vội cảnh báo, “Đừng đứng ngây ra thế, Kick. Cô đang ở trên sân khấu. Cô đang lên sóng truyền hình. Mọi người đều đang nhìn về phía cô đấy.”
Chiếc xe phũ phàng lướt đi buộc cô phải tự thân xoay xở. Cô nhẹ nhàng dùng cây roi đồ chơi chạm vào con vật. Nó ngoan ngoãn đi trước, có lẽ bị thu hút bởi mùi đồ ăn tỏa ra trên bàn. Những người ngồi gần nhất thận trọng lùi ghế lại khi con báo bước dọc lối đi hẹp giữa các bàn, đôi lúc bộ lông của nó khẽ cọ vào chân họ.
May mắn thay, quãng đường cần đi không quá xa. Đến cái bàn quen thuộc đã được đặt sẵn, cô dừng lại, đồng thời khẽ kéo ngược dây dắt ra sau để bắt con báo ngừng bước. Cô ngồi xuống chiếc ghế lưng mây do cậu bồi bàn kéo ra, dáng điệu hờ hững đầy quyền quý. Cậu ta thận trọng đứng phía sau cô để nhận yêu cầu chứ không vòng ra bên kia bàn.
“Một Martini seco (sếch),” cô gọi đồ uống, vắt tréo chân, nhìn xung quanh với vẻ lạnh lùng đài các mà những quý cô thường tỏ ra khi đến những nơi sành điệu. Đồng thời, với một hoặc hai cú giật dây, cô đã khiến con báo nằm bẹp dưới chân mình sau vài giây lưỡng lự. Tuy nhiên, cái bàn hình ống vẫn nằm giữa cô và con vật. Nó nằm im, như thể vừa bị cơn mệt mỏi khác thường xâm chiếm, riêng đôi tai vẫn giật giật trước tiếng còi taxi từ ngoài phố vọng vào.
Như thể đã bàn với nhau từ trước, những người ngồi gần cô ý nhị lui ra xa. Họ chuyển sang bàn bên cạnh, hoặc xoay ghế lại để hướng mặt về phía con vật, quyết không ngồi quay lưng với nó. Cuối cùng, một mình cô ngồi tại tâm điểm của vòng tròn nhỏ trống vắng. Ngay cả cậu bồi bàn cũng đi vòng ra sau lưng và đặt đồ uống qua vai cô.
Dẫu vậy, Kiki vô cùng thích thú khi thấy bản thân thu hút biết bao nhiêu sự chú ý. Mọi người đều không thể rời mắt khỏi cô, hay nói đúng hơn là con vật đi cùng, dù sao cũng như nhau. Cô lấy một điếu thuốc lá đầu lọc vàng, môi giữ nó chĩa lên trời để tìm lửa. Một que diêm từ đằng sau chìa qua vai cô, sẵn sàng phục vụ.
Đám báo chí mà Manning đã cài cắm sẵn như bước ra từ thinh không, túm tụm quanh cô. “Cô có thể phát biểu đôi lời chứ, Senorita Walker?”
“Sí, como no. (Vâng, được thôi.) ” Cô vui vẻ đáp.
Một người khuỵu một bên gối xuống, chĩa ống phản quang về phía cô. “Fotografo (Một kiểu ảnh nhé), Senorita Walker?”
“Được, anh chụp đi.”
Ánh đèn chớp khiến con vật cảm thấy khó chịu. Nó co mình, sợ sệt nhích sát lại dưới gầm bàn.
“Cô gọi nó là gì, Senorita Walker?”
“Nhóc Bự. Nghĩa là chamaco.” Đoạn này là ứng khẩu, xét cho cùng cô cũng là nghệ sĩ mà.
“Cô nuôi nó lâu chưa, Senorita Walker?”
“Chưa, tôi mới nhận được nó hôm nay. Một người bạn gửi nó cho tôi.”
Khóe mắt tay nhà báo lóe lên ánh nhìn ranh mãnh. “Gọi đây là một người bạn đặc biệt được không nhỉ, Senorita Walker?”
Kiki cụp mắt xuống, hờ hững xoay que tăm cắm qua trái ô liu trong ly. “Gọi thế cũng được,” cô đồng tình.
“Cô cho nó ăn gì, Senorita Walker?”
Cô cứng họng trong mấy giây. “À, linh tinh chút này chút kia thôi.” Kinh nghiệm đứng trên sân khấu đã hỗ trợ cô.
Đúng lúc ấy, có chuyện xảy ra. Sau này, trong những lời kể về nguyên cớ vụ việc, chẳng phiên bản nào giống nhau cả. Người thì nói khi ấy, một con chó Bắc Kinh trên chiếc xe đi ngang qua nổi cơn sủa loạn, khiến con báo hăng máu. Người khác lại bảo, trong lúc Kiki trả lời phỏng vấn, ai đó ở bàn khác đã nghịch ngợm quăng cho con báo miếng thịt nhỏ để xem nó phản ứng ra sao. Nhưng cũng có người tin rằng mấy ánh đèn chớp chớp, nháy nháy từ mớ thiết bị chụp ảnh cũng đã khiến thần kinh con báo căng thẳng quá sức chịu đựng.
Dù nguyên nhân là gì chăng nữa, chuyện cũng đã xảy ra mà không hề có tín hiệu cảnh báo. Cặp chân đang gập cong của con báo bỗng bật dậy như lò xo thép. Chẳng hiểu từ đâu phát ra tiếng gầm kinh dị vang vọng khắp khu mái hiên. Cái bàn đổ nhào, kéo theo Kiki cùng cái ghế ngã cùng. Đám phóng viên chạy túa đi như vỏ trấu trước gió.
Cơn hoảng loạn bùng lên khắp các bàn chật nêm người như lửa bén vào rơm. Đám đông hỗn loạn chà đạp nhau chạy về cuối phòng, để có thể đóng cửa lại cố thủ, cho dù những cánh cửa chủ yếu được làm từ kính. Đám phụ nữ rú lên, không phải để tỏ vẻ nữa; còn cánh mày râu thì gào khản cổ. Khay đĩa của bồi bàn rơi đổ loảng xoảng và vang rền tiếng thiếc, bàn ghế bị hất đổ khắp nơi, ly cốc vỡ toang. Mấy người tụt lại phía sau va vào nhau, đôi lúc ngã khuỵu xuống trong lúc chen lấn với những người chạy đằng trước. Cuối cùng, một khung kính cửa trước hiên rung lên rồi vỡ nát giữa cảnh nháo nhác. Chẳng ai biết chắc con báo đang ở đâu hay đang làm gì, cũng không ai dừng lại tìm hiểu mấy điều ấy.
Kiki, bấy giờ đang gào thét như hóa rồ, không thể dành ra dù chỉ một phút để thoát khỏi tư thế mình đang mắc kẹt. Cô ngã sấp lưng, còn cái ghế lại ngã ngửa, khiến chân cô bất lực chĩa lên trời. Kiki thoáng thấy một hình ảnh rùng rợn: Cái đầu đen giận dữ đang lừ lừ phía trên cơ thể cô, tai ép sát đầu, hàm mở toác hung hãn, bất chấp cái rọ mõm vẫn giữ rịt lấy mõm, để lộ bộ nanh nhọn hoắt.
Không có thời gian làm gì hết. Một bình xịt khoáng dày bằng thủy tỉnh xanh có lưới thép bọc ngoài, chưa sứt mẻ gì, rơi từ trên bàn, lăn về phía cô. Kiki vội vồ lấy, ấp nó sát ngực, nhắm mắt, thở hắt ra và điên cuồng xịt tứ phía. Không rõ hành động ấy đã giúp cô bảo toàn tính mạng, hay con vật đang hoảng sợ đến mất trí kia vốn không định tấn công cô mà chỉ muốn tìm đường bỏ chạy. Vấn đề này cũng nằm trong nhóm câu hỏi mà sau này không ai đưa ra được câu trả lời thỏa đáng.
Vài giây sau, trong lúc mắt vẫn nhắm nghiền để tránh nhìn vào con vật mà mình vô phương trốn thoát, chất lỏng trong cái bình cạn dần, cô cảm thấy có mấy bàn tay đang đỡ mình dậy. Đó là bàn tay những người muộn màng quay lại giải cứu cô sau khi khoảnh khắc nguy kịch nhất trôi qua.
“Nó đâu rồi?” Cô rùng mình, mở mắt, thẫn thờ nhìn khung cảnh tan hoang xung quanh.
Tiếng thắng xe đang rít lên náo loạn ngoài đường. Có ai đó chỉ tay. Thần kỳ làm sao, con báo đã xoay xở chạy xuyên qua dòng xe đông đúc của buổi chiều muộn để sang bên kia đường mà không hề hấn gì. Cô vừa kịp nhìn thấy ở xa tít, tấm thân đen thẫm dẻo dai ấy chui tọt vào con hẻm hẹp như đường chỉ, chẳng khác nào một kẽ nứt giữa hai tòa nhà, và biến mất vào không gian tăm tối.
“Cô định bắt nó lại kiểu gì đây, senorita?” Ai đó buông ra câu hỏi ngớ ngẩn, tay vẫn lấy mũ quạt cho Kiki trong lúc cô đặt ly nước lên môi.
Kiki thô bạo đập tay xuống, mặt méo xệch, nước mắt đầm đìa. “Tôi không muốn bắt nó lại!” Cô gào lên man dại. “Tôi không quan tâm nếu nó đi mất dạng! Nhìn tôi này!”
Cô bất lực cào mớ tóc rối bù đang xõa xuống hai vai. “Dìu tôi quay lại xe đi,” cô sụt sịt nói. “Tôi muốn về nhà…”
Được hai người đàn ông đỡ, cô lảo đảo bước ra mép đường và chiếc Packard chạy lại gần. Phước bảy mươi đời cho Manning là anh ta không còn ngồi trong xe nữa. Anh ta đã nhảy ra ngoài, cùng với vài người to gan lớn mật trong đám đông đuổi theo con báo.
Kiki yếu ớt ngã phịch xuống ghế sau, vẫn thút thít khóc, hoặc ít nhất cũng đang nổi điên như đang khóc, với chiếc khăn tay che miệng. Lần này không phải diễn trò, thần kinh vừa lãnh một cú sốc nặng và cô đang hành động theo cảm xúc thật.
Để cuộc ngao du thảm họa này thêm trọn vẹn, hầu hết đám đông đã tràn ra phần sân ngổn ngang mảnh vỡ trước quán cà phê và khó chịu ra mặt với cô. Xem chừng họ đổ lỗi cho Kiki vì đã phá hỏng bữa rượu khai vị, tiếng rít với tiếng la ó vang lên rõ mồn một. Và việc bị một đám người Latin la ó cũng hệt như phải lãnh gạch đá và trứng thối từ đám dân miền Bắc.
Quý cô tóc tai bù xù, mất hết thể diện và tinh thần chấn động tột độ kia được đưa đi khỏi nơi cô vừa lãnh một phen ê chề.
Hàng tá người thấy rõ con báo lao vào ngõ hẻm cuối đường Alameda. Điều ấy không có gì phải nghi ngờ. Con hẻm này hẹp như khe núi, ngoằn ngoèo dẫn qua các tòa nhà bỏ hoang. Bên trong là khu nhà cũ kỹ, một trong những tàn dư nằm rải rác của mọi thành phố lớn, cho dù nó nằm ngay sát khu phố Alameda sành điệu và hiện đại bậc nhất.
Vậy thì, cũng không khó khăn mấy để bám theo con vật sang đầu bên kia con hẻm, bắt kịp và ghìm chân nó, dù ta không thể tự thân tóm nó trước khi cảnh sát đến. Hoặc ít nhất cũng sẽ giữ được nó trong tầm mắt.
Có điều mọi chuyện lại không diễn ra như vậy.
Lúc ấy đang buổi hoàng hôn, cảnh vật trông khá rõ nét dù đã nhuốm màu xanh thẫm. Quãng đường cần đi chẳng xa xôi gì. Không chỉ vậy, mấy nhân vật ham hố phiêu lưu trong đám đông vừa vây quanh Kiki tại quán Globo, do Manning dẫn đầu, chỉ chạy sau con báo mấy giây.
Vậy mà con vật đi biệt tích, như bị nuốt chửng, mất dạng vào đâu đó trong ngõ tắt ngắn ngủi này, giữa một trong những khu nhà san sát và tách biệt nhất thành phố! Khi đám người truy bắt kia, chạy đầu vẫn là Manning, xộc ra ngoài Plaza de los Mártires (Quảng trường Người Tuẫn Đạo), một quảng trường nhỏ và nhộn nhịp với hàng cọ bao quanh, nằm đầu bên kia ngõ hẻm, họ nhận thấy dường như ở đây vừa xảy ra hiện tượng loạn thị hàng loạt. Mặc dù đôi khi vẫn xảy ra trường hợp người ta hoảng sợ hay kích động thái quá mà sinh bệnh, nhưng lần này đó không phải là nguyên nhân. Quảng trường tấp nập khách qua đường, nhưng chẳng ai nhìn thấy hay nghe được gì bất thường cả, chứ đừng nói đến thứ nổi bật là một con báo đen tuyền nhào đầu ra ngõ hẻm và lao vào giữa đám đông. Từ miệng hẻm rẽ ngoặt hơn một mét, một thằng bé đánh giày đang quỳ gối, nhìn chăm chăm vào bàn chân giơ cao của ông khách. Cả hai ở gần đến mức con báo mà phóng ra thì kiểu gì cũng tạt gió khiến họ ngã lăn. Đấy là nếu nó thực sự chui qua đây. Cả hai đều ngạc nhiên, nói rằng chẳng có gì xuất hiện hết. Sau đó, vì không chắc mình đã nghe đúng, họ ngơ ngác hỏi lại, “Một con gì kia?” thầm nghĩ Manning và mấy người này chắc hóa điên rồi.
Cách đó không quá xa, một nhóm người đang tràn trề hi vọng theo dõi danh sách xổ số như thường lệ. Bàn dân thiên hạ nườm nượp lên xuống mấy toa xe điện ồn ã, tưởng như luôn chạy kín trong quảng trường cả ngày lẫn đêm, dây dẫn trên đầu xe bắn ra những nháng chớp màu lam mỗi lần dịch chuyển.
Quảng trường vẫn như mọi ngày.
Trong lúc phần đuôi của đội truy bắt vẫn đang tràn vào con hẻm từ mạn Alameda và gây tắc nghẽn, Manning cùng những người đi tiên phong tìm cách lèn qua họ để quay trở lại, vừa đi vừa loan tin con báo không chui ra ở đầu bên kia.
Đến lúc ấy mới có ba anh cảnh binh trễ tràng xuất hiện, tay vung vẩy, mồm thổi còi toét toét, tiếp quản sự việc. Cuộc truy bắt ấy, đúng hơn là vấn đề ấy, bởi vì muốn truy bắt thì anh phải có thứ gì đó chạy đằng trước để đuổi theo, giờ đã chính thức vào tay giới công quyền. Lời giải thích cho sự lề mề của họ không đến nỗi khó chấp nhận: Lúc mới nghe báo thì họ không tin dù nửa chữ. Một vụ cướp đường nghe còn có lý. Hoặc vụ chém nhau chẳng hạn. Nhưng một con báo sống chạy loạn giữa phố ư? Nơi này là Ciudad Real. Khôn hồn thì tìm chỗ nào đó ngủ cho bớt hơi men đi, không là họ cho xộ khám luôn đấy.
Manning tạm thời để mặc họ tự loay hoay, vật lộn lách về bên đường Alameda. Anh thử đi tìm nhân vật đã cho mình mượn
con báo kia. Đó là một viên quản đốc trang trại tên Cardozo, người đáng lý sẽ mang xe chở nông sản đến gặp anh tại một góc phố kín đáo và mang con vật đi ngay khi Kiki đã xong việc với nó.
Anh chỉ mất vài phút để đến chỗ hẹn, phát hiện tin tức loan truyền còn nhanh hơn cả mình.
“Con báo chạy mất rồi,” anh vừa thở hồng hộc vừa thông báo. “Nó tách khỏi cô ta và suýt nữa giết luôn cô ta trong lúc hỗn loạn! Người ta đang tìm nó ở chỗ đám đông đằng kia.”
“Tôi biết, có người báo cho tôi rồi,” Cardozo cáu kỉnh đáp. “Chắc đã có ai làm gì khiến nó nổi cơn như thế. Tôi đã bảo anh đừng hành nó quá mức mà. Tôi tưởng anh nói sẽ ở cạnh nó, suốt thời gian cô ta dắt nó ra ngoài.” Ông ta trông thực sự bất mãn trước tin con báo bị sổng, như thể bản thân đã có tình cảm gắn bó với nó.
“Tôi chỉ ở cách đó không quá hai thân xe,” Manning sửng cồ lên, “và ngay lúc ấy tôi cũng không thể chạy kịp đến chỗ cô ta để ngăn con vật lại! Tôi đã thấy nó làm gì. Nó nhảy vọt lên người cô ta, lý do duy nhất cô ta thoát chết là nhờ chai xịt khoáng trong tay để phun về phía nó. Tôi tưởng anh bảo con báo đã được thuần hóa và khá vô hại, không phải lo lắng gì mà! Nếu lúc ấy nó xé xác cô ta ra thì có phải lớn chuyện rồi không?”
“Suốt thời gian chúng tôi nuôi con báo ở estancia (trang trại), nó hết sức ngoan ngoãn. Thằng con nhà ông bếp suốt ngày chui vào trong bãi quây và chơi với nó hàng giờ liền.”
“Khi nào cơ, hai tháng trước hả?” Manning cay đắng nói. “Có thể lúc ấy nó đang lớn. Giờ thì nó chắc chắn trưởng thành rồi!”
Anh chấm dứt cuộc bàn luận, bởi vì giờ đây chuyện đã như bát nước đổ đi. “Thôi nào, đứng đây tranh cãi việc này chỉ vô ích. Tôi chạy đi tìm anh vì tôi tin anh có thể giúp đỡ bắt nó lại.”
“Tôi tính sẽ trói con báo lại trên đường về nên có để cái thòng lọng sau xe,” Cardozo đồng tình. “Tôi sẽ mang nó theo, có lẽ sẽ hữu ích.”
“Con báo biến mất đâu đó trong kia,” Manning bảo, trong lúc họ chạy bộ trở lại khu vực huyên náo. “Anh nghĩ nó chạy đi đâu?”
“Muốn biết điều đó thì anh phải trở thành một con báo,” ông quản đốc trang trại ráo hoảnh đáp lời.
Lúc họ đến nơi, trật tự đang nhanh chóng trở lại với đám đông hỗn loạn, nhưng con báo vẫn chưa xuất hiện. Ba anh cảnh binh giờ đã tăng thành năm và chỉ lát sau đã thành bảy người. Tiếp đó, một trung úy cảnh sát chạy đến dẫn đầu chuyến tham quan safari ngay trên những tuyến đường của thành phố. Thậm chí còn có một xe cứu hỏa ở đây, nhưng chỉ để người ta lấy cái đèn pha công suất cao, loại đèn mạnh nhất có thể dùng được, chiếu vào trong con hẻm. Nó soi tỏ miệng hẻm bằng luồng sáng xanh nhợt nhạt rất kỳ dị, khiến sự kiện càng quái đản hơn. Mãi đến cuối cùng, nhưng cũng không quá lâu, họ mới cho gọi viên quản lý sở thú đến để nhờ tư vấn về kỹ thuật và nêu đề xuất, bởi ông ta được coi là chuyên gia trong lĩnh vực này.
Có những việc hiển nhiên được thực hiện đầu tiên. Dân tình được yêu cầu rời khỏi ngõ hẻm bằng màn múa may dùi cui và những câu cảnh báo liên tục, “Lùi lại ngay. Không ai được phép vào trong, nguy hiểm lắm. Có khả năng con báo sẽ bất ngờ xuất hiện và tấn công đấy.”
Hầu hết mọi người không cần phải giục đến lần thứ hai. Sau một lúc bối rối mò đường ra, ngõ hẻm đã được dọn quang. Dây thừng được căng hai bên đầu hẻm để giữ nguyên hiện trạng.
Tiếp theo là yêu cầu tất cả người dân sống dọc con hẻm đi ra ngoài, vì cảnh sát phải khám xét từng nhà. Một lần nữa, mệnh lệnh ấy không cần lặp lại. Từ trong các căn hộ tồi tàn, người dân hoảng sợ di tản đầy hỗn loạn, xách theo chuồng chim, dụng cụ làm bếp, thậm chí cả chậu cây cảnh.
Đám người này được đích thân viên trung úy cảnh sát thẩm vấn khi xếp hàng đi ra. Cuộc điều tra về cơ bản chẳng mang lại kết quả gì. Không ai nhìn thấy con báo chạy đi đâu. Nó phóng vọt qua bất chợt đến mức mọi người chẳng kịp chạy đến cửa sổ. Họ tò mò ngó ra bởi âm thanh huyên náo của đám người đuổi theo con báo chứ không phải vì tiếng động do nó gây ra.
Hai hay ba người thừa nhận nhìn thấy con vật tiến lại từ đằng xa, mặc dù họ không nhận ra nó là giống gì. Trong bóng tối, họ nhầm nó với một con chó dại lông đen khá lớn. Nhưng những người này cũng chẳng giúp ích được gì nhiều, tất cả cùng đưa ra một câu trả lời cho dù khi ấy họ ở ngay giữa con hẻm.
“Ừ thì tôi đã thấy con vật khi nó lao về phía mình. Nghe tiếng la ó đằng sau là tôi biết chẳng phải thứ tốt lành gì. Nó chạy đi đâu ấy hả? Ông nghĩ là tôi đứng ở đấy để tìm hiểu à? Tôi chui ngay vào khung cửa gần nhất và đóng sầm cửa lại. Đến lúc tôi nhòm ra thì nó đã biến đi đâu mất rồi.”
Cuối cùng, gần đến cuối dòng người di tản, họ vớ được một bé gái tầm mười tuổi hứa hẹn hỗ trợ được cuộc tìm kiếm. Trong chốc lát, họ tưởng rằng sẽ có chút manh mối. Cô bé khẳng định đầy tự hào là đã kịp nhìn thấy con báo, bởi cô bé vốn thò đầu ra ngoài cửa sổ từ rất lâu rồi.
“Cháu thấy có thứ gì to và đen chạy dọc hẻm, từ tận đầu kia kìa.”
Cả hội đồng vội vã tụ tập lại.
“Nó chạy đi đâu? Nó biến vào chỗ nào thế?”
“Cháu không biết. Cháu chạy vào trong để gọi em trai ra xem cùng. Khi quay lại thì nó không còn ở đó nữa.”
Thế là hội đồng lại tẽ ra, hệt như quả đậu ván chín tách hạt.
Viên trung úy phụ trách quyết định phải lùng sục từng nhà thì mới xua được con báo ra. Giả thuyết khả dĩ duy nhất còn lại là nó đã tìm được một lối vào, khe nứt hay kẽ hở nào đó trên mấy bức tường mục nát, để lách vào trong. Con vật vẫn ẩn nấp đâu đó tại một trong những căn nhà tối tăm kia, có thể trong một tầng hầm, hay trong ống thông hơi không sử dụng, hoặc trong khoảng trống dưới cầu thang. Trú ẩn trong ngõ hẻm đầy ngóc ngách không có nổi ánh điện, con báo lặng lẽ thở những luồng hơi chết chóc.
Gần 8 giờ, cuộc lùng sục bắt đầu, xuất phát từ phía đầu hẻm đường Alameda. Khi đoàn người ra khỏi căn nhà cuối cùng sát sườn quảng trường Plaza de los Mártires thì đã gần nửa đêm, tay trắng vẫn hoàn trắng tay. Cuộc lùng sục thất bại hoàn toàn, hệt như cuộc rượt đuổi ban đầu. Họ đã rà soát rất kỹ lưỡng, dù không nên cơm cháo gì. Đám người lùng sục từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên trong các căn nhà nằm dọc hẻm, chiếu đèn vào từng xó xỉnh, gõ lên tường, thọc gậy lật tung thùng, hộp và các đụn rác, tay lăm lăm súng lục và dùi cui, sẵn sàng đối phó nếu con báo xuất hiện. Thế nhưng nó vẫn biệt tăm.
Đứng sau đoạn dây căng ở hai bên đầu hẻm, đám đông bấy giờ nhìn theo luồng đèn pha xanh lờ mờ, cùng nín thở mỗi lần thấy cảnh sát đi vào một căn nhà, quan sát ánh đèn pin lấp loáng qua cửa sổ, đánh dấu quá trình tìm kiếm theo từng tầng. Rồi họ chui ra, báo cáo với sĩ quan chỉ huy rằng “Không có trong nhà này,” đánh dấu căn nhà an toàn, sau đó lại tiếp tục vào căn nhà kế bên.
Cuối cùng, sau nhiều lần lặp đi lặp lại, kịch tính cũng dần tiêu tan. Lác đác vài người quay đi lo việc của mình, trời khi ấy đã tối. Đám đông đứng xem thưa dần, ai đó đề xuất nửa đùa nửa thật, rằng chưa biết chừng con báo đã chui vào khoang sau xe thồ hay xe tải nào đó hớ hênh, lúc tài xế về thì đóng cửa nhốt luôn nó và tình cờ đưa nó ra khỏi khu này. Lỗ hổng duy nhất của giả thuyết ấy là không có chiếc xe nào vô tình đậu ở đây, bởi lý do rất hiển nhiên là nơi này không đủ rộng cho bất cứ phương tiện chuyên chở nào, may ra chỉ có xe đẩy mới lọt nổi. Một người khác bảo, có khi nó đã nhảy lên khinh khí cầu và bay tít lên trời, khiến đám đông cười nghiêng ngả.
Sự hồ nghi bắt đầu len lỏi vào những khán giả vẫn cố bám trụ lại. Cảm thấy như bị nẫng mất cơ hội tham gia trò phấn khích vì ngóng đợi nãy giờ, họ quyết định xả ra cho đỡ tức.
“Khéo con báo chui vào nhà thờ cầu nguyện rồi!” Người nào đó khum tay nói với vào trong hẻm.
Cái nhà thờ nhỏ mà anh ta nhắc đến nằm ở cuối ngách cụt be bé gần quảng trường Plaza de los Mártires. Tuy không dài gì cho cam nhưng con hẻm vẫn kịp bẻ ngoắt hướng mấy lần. Tại một khúc quành, con hẻm như chia ngả làm đôi, nhưng thực chất hai nhánh chẳng thông đến đâu. Chặn đầu một bên ngách cụt ngắn ngủn là San Sulpicio, một nhà thờ tường vách mong manh được xây từ thời thực dân. Nói cách khác, đây chỉ là chỗ hõm hay một góc khuất, nằm tách khỏi đường hẻm chính và chỉ kéo dài vài mét.
Nhà thờ này là nơi mà con báo ít có khả năng chui vào trốn nhất. Lâu rồi không ai lai vãng đến đây nữa, nhà thờ đã bị bỏ hoang từ nhiều năm trước sau khi xảy ra trận động đất nào đó khiến nó hư hỏng ít nhiều. Tuy vậy, cánh cửa gỗ gụ vững chãi vẫn nguyên vẹn, cảnh sát phải loay hoay với xà beng và dùi đục gần nửa giờ mới cạy mở được. Đến người sống lâu nhất cũng không nhớ nổi nhà thờ đã từng mở ra lần nào chưa. Cuối cùng, khi cánh cửa đã chịu bật khỏi vị trí, họ chỉ thấy bên trong mớ ghế băng mục ruỗng và thạch cao rơi ngổn ngang, được bao quanh bởi bốn bức tường không mái, trăng sao chiếu xuống vằng vặc. Con báo không thể nào vào được bên trong, mà nếu có cũng chẳng thể thoát khỏi nhà ngục đá vuông vắn này.
Họ lại chui ra ngoài, phủi mấy ống tay áo trắng xóa bụi thạch cao, vừa ho vừa hắt hơi liên tục. Một người đang để tâm chăm sóc vết bọ cạp cắn trên mu bàn tay.
Lát sau, họ đã ra đến Plaza de los Mártires. Thế là cuộc lùng sục bất đắc dĩ đến hồi kết thúc.
Đám người hóng chuyện nhanh chóng tản đi mỗi lúc một nhiều. Tiếng chuông nửa đêm vang lên hết tháp chuông này đến tháp chuông kia. Ngọn đèn pha cứu hỏa bỗng tắt ngóm, xe cộ chuyển bánh rời đi. Dây dợ được tháo xuống. Người dân sống trong hẻm được phép trở về nhà. Đèn dầu, đèn parafin cùng nến nhấp nháy được thắp lên đây đó trong các căn nhà ám khói sau khi chủ nhân quay về. Nhiều người nán lại ngoài cửa nhà, tụ thành các nhóm nhỏ và bàn tán xôn xao. Hồi sau, những người này cũng giải tán, quay vào nhà đi ngủ. Con hẻm trở lại nhịp sống bình thường.
Hầu hết các sĩ quan cảnh sát đã được rút về. Mỗi đầu hẻm sẽ chỉ còn một sĩ quan ở lại canh gác suốt đêm, dù mục đích của việc này vẫn còn là dấu hỏi.
Buổi tối hôm đó dần khép lại, hệt như mọi buổi tối từ xa xưa tới giờ.
Dẫu sao thì cho đến lúc này, toàn bộ sự kiện vẫn có một điều duy nhất rõ ràng. Con báo chưa được bắt lại. Tức là nó vẫn đang tự tung tự tác đâu đó.
Sớm hôm đã lên và dưới ánh sáng ngập tràn phấn chấn, người ta bắt đầu có cách nhìn khác về vụ việc ấy. Ánh nắng rực rỡ, vàng ươm, giết chết nỗi sợ hãi và những điều hoang tưởng. Thật khó tin, một chuyện phi thường đến thế lại xảy ra được. Dẫu gì thì Ciudad Real cũng là thành phố của những người hoài nghi bẩm sinh.
Sau khi người ta nhấm nháp cà phê sáng và bỏ bụng pan dulce (bánh mì ngọt), có tin đồn loan ra rằng vụ việc kia chỉ đơn thuần là màn bịp bợm nhằm quảng bá danh tiếng do Walker và đại diện truyền thông của cô ta đứng sau. Giống như trò tìm nữ trang mất tích mà đám diễn viên hay sử dụng. Mặc dù tin đồn này chẳng nhắc gì đến chuyện con vật bốn chân nhanh nhẹn kia giờ ra sao, nó vẫn dễ dàng được chấp nhận và mọi người cứ thế rỉ tai nhau. Ngay cả những người đầu tiên chốt cửa cài then và lo lắng nhòm ra từ gầm giường vào đêm hôm trước, giờ lại trở thành những người đầu tiên tuyên bố, “Tôi biết ngay từ đầu mà. Ông cũng chẳng tin phải không?” Nghe đến đây, nhân vật được hỏi chuyện sẽ nhăn mặt, “Tất nhiên là không rồi, cậu tưởng tôi là ai?”
Bất chấp việc có hàng chục người chứng kiến tận mắt, tin đồn gần như đã thay thế sự thực. Ngay cả các nhân chứng cũng cảm thấy ái ngại sau thời gian liên tục khăng khăng nói rằng mình đã nhìn thấy con báo. Họ thầm băn khoăn, không biết có đúng mình đã nhìn thấy nó hay không.
Báo giới, những thước đo dư luận, cũng giúp lan tỏa quan điểm ấy. Tất cả đều đăng bài về vụ việc nhưng cách viết lại đầy hài hước và châm biếm. Các dòng tít được viết theo kiểu Cuộc đại loạn báo, Ai đang sở hữu con báo của cô Walker? Có thể mang trả khổ chủ được không? Khắp thành phố, người ta cợt nhả chào nhau, “Thế nào, chị thấy con báo chưa?”
Phía cảnh sát vẫn im hơi lặng tiếng, có khi còn muốn mọi chuyện diễn ra như vậy. Ít nhất điều này cũng không khiến dân chúng phát hoảng và cảnh sát đỡ phải nhận hàng chục tin báo sai lệch trong ngày. Hiện tại thì chẳng nhận được tin tức gì cả. Đáng chú ý là họ chưa từ bỏ cuộc tìm kiếm, dấu hiệu rõ ràng cho thấy thực sự có gì đó cần được làm rõ. Chỉ là phạm vi đã phân tán rộng hơn, người dân trong thành phố khó đoán được cảnh sát đang làm gì, bởi vì bây giờ họ không còn tập trung vào địa điểm cụ thể nào nữa, chẳng hạn như con hẻm hồi trước.
Trong khi ấy, Manning đã trải qua 24 giờ hết sức khó chịu. Anh không chỉ bị bắt giam gần như cả đêm ấy, bị cáo buộc vi phạm một sắc lệnh cổ xưa nào đó của thành phố, cấm đem động vật hoang dã ra diễu giữa phố khi chưa có giấy phép; sáng ra thì bị xách cổ lên tòa, bị khiển trách nặng nề vì hành động phi pháp và chịu một khoản tiền phạt nhỏ rồi mới được thả. Đồng thời, anh còn mất việc ở chỗ Kiki Walker.
Việc này đã được cô thông báo rất rõ vào cái đêm sau hôm diễn ra trò lố lăng kia, lúc anh tìm cách vào gặp nghệ sĩ của mình. Và qua khung cửa sổ con trên cánh cửa phòng khóa chặt ở khách sạn, giọng cô oang oang, to đến mức vài cánh cửa khác dọc hành lang cũng tò mò mở ra sau mấy giây.
“Anh gan to thật đấy, dám quay lại đây sau khi chuyện kia xảy ra! Để tôi nói cho anh biết, anh đã biến tôi thành trò cười của cả thành phố! Biến đi! Mang mấy ý tưởng đột phá của anh đi chỗ khác!”
“Nghe này, Kick, cô biết tôi không cố tình để xảy ra chuyện như thế mà,” anh cố gắng nói lý.
“Công nhận là anh đã cho tôi được lên mặt báo!” Giọng cô vẫn giận dữ vang lên. “Anh đã thấy tấm ảnh trên tờ Grafico chưa? Ngã giập mông, chân chĩa ngược lên trời, đang xịt một tia nước khoáng qua chân nữa chứ! Tuần sau, lúc bức rèm sân khấu được vén lên, đó sẽ là hình ảnh mọi người nhìn thấy chứ không phải màn biểu diễn trước mắt! Rồi họ sẽ cười nhạo và xua tôi khỏi sân khấu!”
“Tôi sẽ quay lại sau khi cô bình tĩnh hơn,” anh đều giọng nói. “Cô không cần làm to chuyện lên thế, để cho mọi người thò mặt ra khỏi phòng cười nhạo tôi.”
“Thế lúc tôi ở giữa phố Alameda, bị cả thành phố chứng kiến thì sao?”
“Được rồi, ngày mai tôi sẽ gặp cô,” anh nói, cố gắng bảo tồn quan hệ giữa hai người, dù nó đang trở nên mong manh cỡ nào. Dẫu sao đây cũng là cần câu cơm của anh.
“Anh sẽ không bao giờ còn gặp tôi nữa!”
Điều Manning không nhận ra và có thể cả Kiki cũng chẳng nhận ra, điều khiến cô nổi trận lôi đình không phải vụ con báo. Nguyên nhân sâu xa là cuộc gặp đầu tiên giữa họ. Anh đã chứng kiến cảnh cô nhẵn túi, mạt vận, không thể tự mua cho mình một tách cà phê. Cô không bao giờ tha thứ cho anh vì chuyện đó.
“Đây là tiền bồi thường hợp đồng. Giờ anh không có lý do gì để lảng vảng quanh đây nữa. Chúng ta cắt đứt quan hệ!”
Một vốc các đồng tròn lớn, peso bạc của Ciudad Real, văng qua khung cửa sổ và lăn khắp hành lang. Một vài người đứng ngoài cửa phòng giúp anh lấy chân chặn chúng lại. Một xấp tiền giấy chậm rãi rơi phất phơ phía sau.
Manning chấp nhận gạt bỏ sĩ diện, cúi xuống nhặt không sót đồng nào. Anh đã phải làm việc cật lực mới kiếm được chỗ tiền đó, trong khi công việc này không phù hợp với tính cách hay tài năng của bản thân. Anh cần chúng. Anh chưa biết sau này mình sẽ kiếm thêm tiền ở đâu.
“Thôi được rồi, Kick,” anh nói với vẻ tổn thương. “Nếu cô cảm thấy thế thì chúc cô may mắn.”
Cánh cửa sổ đóng sập lại với tiếng rắc gãy gọn. Anh dựng thẳng cổ áo khoác lên, tay thọc sâu trong túi và thiểu não lê bước đi.
Khi một người đàn ông mất việc, điều đầu tiên anh ta nghĩ đến thường là ra đường, làm một ly rượu để xoa dịu phiền muộn. Manning giờ cũng đang làm thế. Có điều, chẳng bao lâu anh nhận ra, đến quên cái chuyện khốn kiếp vừa rồi trong yên bình cũng chẳng được.
Manning ghé vào một quán cách khách sạn của Kiki mấy dãy nhà.
“Sao thế?” Ông pha rượu hỏi, miệng toét cười, tưởng vậy là niềm nở xã giao, “Anh đã tìm thấy con báo chưa?”
Manning chợt hạ ly xuống, tưởng như nó làm anh phát bệnh, tặng ông pha rượu một ánh mắt hằn học, như thể ông ta cũng khiến anh thấy phát bệnh nốt. Anh đập một đồng xu xuống bàn, quay người lẳng lặng bước ra ngoài và tìm quán khác.
Anh lại gọi rượu. Một lần nữa, anh pha rượu lại tìm cách giúp khách thấy thoải mái bằng câu mào đầu vui vẻ, “Tình hình con báo thế nào rồi?”
Một lần nữa, Manning lại hạ ly rượu uống dở, nhăn mặt và bỏ đi.
Đến quán thứ ba thì anh chặn mồm người pha rượu, “Tôi muốn hai thứ,” anh cay đắng nói. “Một ly Whisky cùng nước lọc và không phải nghe về chuyện con báo. Cậu làm thế giúp tôi được không, cố né cái đề tài kia ra? Tôi đến đây để quên nó đi.” Anh vạch một đường thẳng lên không, kéo dài ngang mặt mình. “Terminado (Kết thúc). Chấm dứt rồi.”
Nhưng mọi chuyện chưa dừng lại.
Màn đêm đầy bí hiểm phủ lấy Ciudad Real, dường như đang nín thở. Ba phần tư triệu con người và một cái bóng thuôn dài ẩn nấp đâu đó trong số họ, với cặp chân bước êm như nhung và bộ nanh sẵn sàng xé xác những kẻ xấu số nó bắt gặp…
BẰNG CHỨNG NGOẠI PHẠM
Tiến >>
NXB Văn Học & Phúc Minh - 5/2018
Nguồn: TVE-4U - VCTVEGROUP
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 4 tháng 4 năm 2022