Hai Sự Hiểu Lầm

prosper mérimée

dịch giả: ngọc hà

LỜI GIỚI THIỆU

Prosper Mérimée (1803 - 1890) sinh ở Pari trong một gia đình nghệ sĩ. Cha ông vừa là họa sĩ vừa là nhà bác học. Mẹ đẻ ông đã nuôi ông bằng cả những bài ca, những câu chuyện cổ khi còn bồng bế trên tay. Nhờ có tài kể chuyện dân gian, bà đã gây cho cậu con trai những tình cảm hào hứng, đồng thời bằng những nhận xét sâu sắc và châm biếm bà cũng sớm tạo ra trong trí ngây thơ sự tự kiềm chế và óc phân tích chớm nở.

.

Sau khi tốt nghiệp trường luật, Prosper Mérimée vào công tác ngay trong ngạch hành chính và đã giữ những chức vụ cao, song con người nghệ sĩ được vun trồng từ tấm bé vẫn sống mạnh mẽ và vươn lên trên cuộc đời công chức. Sau này công tác bảo tàng và khảo cổ lại là phương tiện giúp ông đi khắp đó đây, đến những miền đất lạ, tìm hiểu, sưu tập những kho tàng văn hóa và đời sống của nhân dân để xây dựng nên những tác phẩm độc đáo.

Tình bạn của Xtăng đan lúc Mêrimê mới mười chín tuổi đã ảnh hưởng nhiều đến tư tưởng và nghệ thuật của ông theo chiều hướng lãng mạn.

Trong tác phẩm đầu tay mà Mêrimê gán cho một nữ kịch sĩ Tây Ban Nha là Kịch của Clara Gazuyl gồm sáu vở kịch ngắn bằng văn xuôi, với ngòi bút trào phúng ông đã bắt đầu chống lại tầng lớp tăng lữ và nền quân chủ và cũng đã thể hiện một lối viết đặc biệt chặt chẽ và thanh đạm.

Năm 1827 ông xuất bản La Guzla gồm hai mươi tám bài hát và cũng nói là sưu tập những bài dân ca vùng Iliri (một vùng ven biển Ađriatic). Mêrimê đã từng ca tụng nhà đại văn hào Nga Putskin về tính hiện thực và đại chúng, thì ngược lại Putskin cũng đã cùng với nhà thơ Ba-lan Mickiêvic dựa vào La Guyzla để viết nên "Những bài hát của người Tây Xlavơ".

Rất say mê Sếchxpia, Prosper Mérimée đã dành công sức cho một số đề tài lịch sử như kịch Khởi nghĩa nông dân (1828) miêu tả với đầy thiện cảm phong trào khởi nghĩa của nông dân Pháp hồi thế kỷ thứ XVI, tỏ thái độ rõ ràng với những cuộc cách mạng dân chủ, và tiếp theo đó là vở Cácvagian.

Như nhiều nhà văn thời bấy giờ chịu ảnh hưởng của Oantơ Xcốt, Mêrimê cũng viết tiểu thuyết lịch sử; ông cho ra tập Biên niên thời Sác-lơ IX, gồm nhiều truyện dựng lại những cuộc chiến tranh tôn giáo ở thế kỷ XVI, tố cáo những sự tàn ác của những cuộc chém giết lẫn nhau rất dã man chỉ vì những nguyên nhân vô nghĩa. Tác giả cho rằng tôn giáo chẳng qua là một trò dối trá mà bọn tăng lữ và vua chú bày đặt ra. Tập truyện ấy có tiếng vang mạnh mẽ và làm cho Mêrimê nổi lên như một người đại diện dũng cảm của nền văn học tiến bộ Pháp, một người kế tục xứng đáng của Vonte và Điđơrô.

Song từ năm 1829, hình như sau một thời gian thử nghiệm, Prôxpe Mêrimê đã tìm ra một thể loại thích hợp với phong cách của mình và cũng phù hợp với việc thể hiện những chủ đề tư tưởng mà ông hằng nung nấu. Đó là thể loại những truyện ngắn và truyện vừa hết sức độc đáo đã làm cho Mêrimê nổi tiếng.

Mêrimê không dựng những tác phẩm lịch sử lớn mà đối tượng chủ yếu là xã hội phong kiến nữa. Ông bắt đầu chuyển hướng sang miêu tả những mẫu người, những tính cách, những đấu tranh nội tâm sâu sắc, những bi kịch tinh thần... nhằm lột tả một xã hội chứa đầy những mâu thuẫn không thể điều hòa giữa một bên là cả một chế độ mà đồng tiền và lợi ích vị kỷ ngự trị trên hết, một xã hội giả dối, bất lương, chà đạp và bóp nghẹt nhân phẩm, ngăn cản sự phát triển mọi giá trị chân chính, với một bên là những bản chất tốt đẹp, những tình cảm trong sáng, những khát vọng chính đáng và tinh thần vươn lên của con người.

Từ năm 1829 đến năm 1833, Mêrimê viết một loạt truyện ngắn đăng rải rác trên các tạp chí như Matêô Fancôn, Đánh chiếm đồn lẻ, Chiếc lọ cổ, Những trận đấu bò tót, Một cuộc xử tội, Ván tơric - tơ rắc, Tamangô v.v... Một số truyện được xuất bản lại trong tập La Môdaich. Tiếp sau đó cho đến năm 1845, ông viết những truyện Hai sự hiểu lầm, Những linh hồn trong luyện ngục, Vệ nữ thành I-lơ, Côlômba, Arxen Guyô, Carmen v.v... Ngoài ra, trong những chuyến đi ra nước ngoài ông còn viết Những bức thư từ Tây Ban Nha, Tùy bút về lịch sử La Mã...

Lên án chủ nghĩa thực dân - nô lệ, Mêrimê đã tạo ra một nhân vật điển hình của văn minh tư sản phương Tây là viên thuyền trưởng Lơ đu chuyên đi buôn nô lệ da đen. Đối với hắn mục đích cao nhất là lợi nhuận biện giải cho mọi phương tiện và thủ đoạn. Chiếc tàu mang cái tên thơ mộng "Hy Vọng" được trang bị những dụng cụ hiện đại như còng xích sơn véc-ni chống rỉ, những két sắt đựng nước ngọt để đi biển dài ngày, thiết kế khoang tầng sao cho gọn nhất mà lại chứa được nhiều người nhất, dù tầng đã cao đến tám mươi phân để những nô lệ có tầm vóc vừa phải có thể ngồi thoải mái! Tamangô, một thủ lĩnh da đen nhưng lại câu kết với Lơđu, cam tâm làm trung gian tàn nhẫn đổi mạng đồng bào mình lấy mấy cốc rượu và sẵn sàng bắn chết một người mẹ để dễ bán ba đứa con nhỏ. Nhưng cuối cùng Tamangô cũng rơi vào một chế độ nô lệ kiểu mới - chế độ nô lệ trả lương.

Trong tác phẩm của Prosper Mérimée vai trò và cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội tư sản chiếm một vị trí đặc biệt. Ngay trong giới thượng lưu, người phụ nữ cũng là nạn nhân của những sự giả dối của những cuộc buôn bán ái tình và hôn nhân.

Bi kịch tinh thần đó thể hiện sâu sắc trong Hai sự hiểu lầm mà Pushkin cho là một trong những truyện đạt nhất của Mêrimê.

Trong tác phẩm này, Mêrimê vạch mặt tính ích kỷ và chủ nghĩa cá nhân cao độ của bọn tư sản. Chồng Giuyli là một tên ích kỷ đến tận xương tủy, thô tục, khiếm nhã trong quan hệ xã hội cũng như đối với người vợ xinh đẹp và tinh tế của mình. Phương châm sống của hắn là hưởng lạc, và chỉ cần có đồng tiền và thế lực là có thể mua được tất. Hắn quan niệm về vợ mình cũng như vậy. Hắn chẳng mong vợ yêu mình như ngày mới cưới, và luôn nghĩ rằng một khi đã để

cho vợ sống tự do tùy ý thì ắt vợ cũng sẽ dung thứ cho những cái bậy bạ của hắn, kể cả kiểu "chồng ăn chả, vợ ăn nem".

Còn Giuyli vì đã trót đành cứ phải sống và thấy "không gì ghê tởm hơn những cái vuốt ve mà mình tránh cũng dở mà nhận cũng dở". Và nàng vẫn phải sống trong cái bề ngoài hạnh phúc giả tạo và danh dự hão huyền.

Nhưng rồi Giuyli đâu có thể tự ngăn cản được lòng mình trước tiếng gọi của tình yêu. Đã vội vã khi chọn một người chồng, nàng lại bồng bột khi gửi gắm trái tim cho một kẻ mà nàng tưởng rằng yêu nàng tha thiết. Những nỗi thất vọng và những trận bão lòng dữ dội đã xô đẩy nàng từ giã cõi đời một cách thê thảm.

Ngòi bút hiện thực của Mêrimê không chỉ coi Giuyli như một nạn nhân của cái xã hội xấu xa ấy. Nàng còn là một kẻ có trách nhiệm trong cuộc đời của chính mình. Những Anna Karênina ấy là sản phẩm của những xã hội phương Tây và mãi mãi gây trong lòng ta những niềm xót xa, cay đắng.

Vệ nữ thành Ilơ là một trong những tác phẩm đặc sắc của Prôxpe Mêrimê. Trong khuôn khổ câu chuyện có tính chất huyền bí ấy, tác giả đã đề cập đến một vấn đề sâu sắc hơn, đó là cái ác nằm trong cái đẹp. Cái đẹp phải đi đôi với cái thiện. Và cái đẹp càng ác bao nhiêu thì tác hại càng lớn lao bấy nhiêu.

Arxen Guyô đánh dấu một sự chuyển hướng mới của Mêrimê đi sâu vào những tầng lớp "cặn bã" trong nhân dân thành thị.

Nghèo túng, phải sống bằng nghề mãi dâm, Arxen Guyô vẫn mang bản chất chân thật, thủy chung. Sau cái chết của người mẹ đáng thương, Arxen nhảy từ gác cao xuống đường nhưng không chết.

Đờ Piên phu nhân, một người giàu có mộ đạo đem lòng từ thiện cứu chữa, cưu mang, và muốn đem đạo giáo để cải tạo linh hồn cho nàng. Nhưng khi Xalinhi, người yêu của Arxen (và cũng là người trước đã từng yêu Đờ Piên phu nhân) xuất hiện, thì phu nhân tìm mọi cách ngăn cản hai người gặp nhau với lý do để Arxen có thể yên tâm sám hối, và cố tin rằng nàng đã thấy rõ "tu là cõi phúc tình là giây oan".

Arxen chỉ con biết phục tùng, nằm nghe những bài kinh tụng nhàm tai của cố đạo và những lời thuyết giáo giả dối của "ân nhân". Arxen chờ đợi một niềm an ủi cuối cùng cho cả cuộc đời đau khổ của nàng là gặp lại người yêu mà nàng vẫn chung thủy. Nhưng lòng ích kỷ tàn nhẫn núp dưới cái vỏ đạo đức của Đờ Piên phu nhân đã cướp mất của nàng chút hạnh phúc nhỏ nhoi ấy và giết chết luôn cả con người tội nghiệp.

Tính hiện thực sâu sắc và chua cay trong câu chuyện thương tâm ấy đã gây nên những phản ứng điên cuồng của giới thượng lưu. Họ kêu gào đó là một chuyện dối trá, vô luân phi đạo và những đại diện xứng đáng của họ trong giới trí thức văn nghệ đã nhao nhao phản đối việc bầu Mêrimê vào Viện hàn lâm Văn học.

Những năm làm công tác khảo cổ, nghiên cứu về di tích lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, Prôxpe Mêrimê đã có nhiều dịp đi thăm các vùng hoang dã ở đảo Corxơ và các vùng lân cận ở Ý, Tây Ban Nha, đi sâu vào thực tế nhân dân và sưu tầm được nhiều vốn quý. Ông đã phát hiện ở những con người còn hoang dã và "lạc hậu" những bản chất tốt lành và đẹp đẽ mà ông ít tìm thấy trong những xã hội được tiếng là văn minh.

Ông tỏ ra đồng cảm, mến phục, yêu thương họ và chính vì thế mà ông đã viết nên những tác phẩm độc đáo, tuyệt vời với những hình tượng kỳ diệu. Ngay đối với bọn lục lâm, tướng cướp ở đó, ông cũng thấy rằng phần đông là do những hoàn cảnh rủi ro, những nỗi bất công mà bị gạt ra khỏi vòng pháp luật. Những con người khốn khổ ấy cũng biết trọng danh dự theo lối riêng của họ. Chính thành kiến tàn nhẫn chứ không phải lòng tham lam đã xô đẩy họ vào cuộc sống như hiện nay và họ không đến nỗi xấu như những người không ở rừng rậm.

Nhưng Mêrimê không sa vào những thị hiếu kỳ lạ, những chuyện ly kỳ rùng rợn, không lý tưởng hóa một cách tuyệt đối những con người hoang dã, trái lại đã thể hiện đúng đắn những vẻ đẹp tự nhiên đồng thời nêu lên những mặt lạc hậu, tiêu cực và những thói xấu của xã hội cũ và của nền văn minh tư sản.

Chỉ với hơn chục trang, Mêrimê đã khắc họa một cách vô cùng sâu sắc và mạnh mẽ tập quán và tính cách của những người dân Corxơ chất phác, chân thật, rất tôn trọng danh dự qua nhân vật Matêô Fancôn. Đứa con trai nhỏ duy nhất mà ông quý hơn vàng đã tham một chiếc đồng hồ vàng mà chỉ cho cảnh binh bắt một gã lục lâm lẩn trốn ở sân nhà mình. Đau xót, phẫn uất và lạnh lùng, nhà thiện xạ Matêô Fancôn đang tâm dùng mũi súng săn để trừng phạt con mình.

Người đọc cảm thương, nhưng không hề căm giận hay khinh ghét người cha, mà còn thấy kính phục, tuy vẫn thấy trong lòng ngậm ngùi, day dứt...

Truyện nổi bật nhất về đề tài Corxơ là Côlômba, một bản anh hùng ca bằng văn xuôi vừa trữ tình, vừa đậm đà hùng tráng.

Côlômba hiện lên như một hình tượng tuyệt vời của những người con gái Corxơ: đẹp đẽ từ nhan sắc đến tâm hồn và nghị lực, cái đẹp của những bông hoa rừng. Đảo Corxơ nổi tiếng về "Văng đétta", những truyện báo thù truyền kiếp, triệt để và khốc liệt. Cha của Côlômba là một anh hùng trong cuộc chiến tranh, một con người trung trực và dũng cảm đã bị những kẻ thù hèn nhát ám sát ngay quê nhà. Orxô, anh trai nàng, giải ngũ trở về không phải với mục đích trả thù. Nhưng Côlômba, mồ côi, lẻ loi, đau khổ không một phút nguôi chí báo thù cha. Cô gái xinh đẹp và thông minh ấy còn là một nhà thơ dân gian. Trái tim đa cảm ấy đã giúp cô phát huy được hết lòng dũng cảm, trí thông minh và cả những thủ đoạn để đấu tranh với kẻ thù, động viên và thuyết phục anh mình. Côlômba, đại diện của chính nghĩa, đạo lý và trí tuệ, đã dẫn dắt câu truyện, tháo gỡ nút mối và kết thúc tấn bi kịch cùng món nợ truyền kiếp bằng kỳ tích của anh nàng. Orxô bị phục kích bất ngờ, bị thương một tay vẫn một mình một súng diệt hai kẻ thù.

Một đỉnh cao nghệ thuật của Mêrimê là Carmen, một tác phẩm mà nhiều văn nghệ sĩ các nước đã dựa vào để sáng tác thành những vở ca kịch và vũ kịch.

Là một người bôhêmiêng, Carmen mang nhiều tính chất phức tạp và mâu thuẫn. Bên cạnh những thói xấu, cô gái đẹp đó rất thông minh và quyến rũ, có sức hấp dẫn khó mà cưỡng lại.

Người ta biết nàng nói dối mà vẫn tin và tuân theo cả cái tính tùy hứng đổi thay hơn cả thời tiết trên đỉnh núi của nàng. Song nét nổi bật trong Carmen là một tình cảm, một dục vọng mãnh liệt phi thường đi đôi với một nghị lực, một tinh thần cứng cỏi không kém, tinh thần độc lập, tôn trọng danh dự, bảo vệ tính tự do trong cuộc sống cũng như trong tình cảm mà nàng coi như thiêng liêng bất khả xâm phạm và có thể trả với bất cứ giá nào. Nàng là một kẻ sẵn sàng đốt cháy cả kinh thành để tránh một ngày tù tội và sẵn sàng đi thẳng đến cái chết, nhận một mũi dao của người yêu chứ không thay đổi ý chí.

Trong đời sống tinh thần của mình, Mêrimê mang nặng truyền thống của thế kỷ ánh sáng nên ông có thái độ thù địch đối với Giáo hội. Khuynh hướng này biểu hiện rõ trong nhiều tác phẩm mà tiêu biểu là "Những linh hồn trong luyện ngục".

Cốt truyện có vẻ như được xây dựng dưới ngòi bút của một người ngoan đạo, bất bình trước những hành động xúc phạm đến chúa của Đông Gioăng và hoan nghênh việc anh ta ăn năn sám hối trở về với Chúa. Nhưng kỳ thực đó chỉ là một thủ thuật mà Mêrimê đã sử dụng tài tình để phơi bày trước công chúng mặt trái đen tối của giáo hội.

Đông Gioăng là đứa con trai độc nhất của một gia đình thuộc dòng dõi quý tộc. Thuở bé cha anh thường kể cho anh nghe những chiến công tàn ác của mình để kích thích trí tưởng tượng của con. Bà mẹ lại là người ngoan đạo, thường đem những hình ảnh của những linh hồn trong luyện ngục bị hành hạ để răn đe và chuẩn bị cho đứa con mình sau này biết tìm về với Chúa.

Lớn lên được gia đình gửi đi du học, Đông Gioăng kết bạn với Đông Gacxia, một sinh viên ăn chơi hư hỏng, xảo quyệt tàn nhẫn và anh nhiễm ngay tính xấu của bạn. Họ cùng nhau lao vào con đường ăn chơi trác táng, con đường đi tìm những khát vọng yếu hèn nhục dục, không xứng danh Chúa. Họ lường gạt, quyến rũ và hủy hoại đời tư của nhiều phụ nữ, phản bội người yêu, can tội giết người. Để trốn tránh pháp luật, họ vào lính ở một nơi xa xôi. Nhưng trong quân ngũ họ tiếp tục phạm nhiều tội lỗi. Sau khi Đông Gacxia bị một đồng ngũ ám hại, Đông Gioăng xuất ngũ và tiếp tục con đường ăn chơi ngày xưa. Hình ảnh những linh hồn trong luyện ngục anh được nghe kể trước đây và hiện nay anh được ngắm lại trong bức họa tại ngôi nhà cũ anh trở về thăm, tuy có làm anh kinh hoàng nhưng không làm anh thức tỉnh. Thế rồi nhân dịp tìm thấy trong một tu viện dấu vết của người yêu cũ là Têrêxa mà cả gia đình bị anh làm cho tan nát, Đông Gioăng tìm mưu tính kế dụ dỗ cô và đánh tháo cô ra khỏi tu viện. Nhưng việc không thành. Bấy giờ anh mới tìm đến một tu viện khác quyết tâm ở hẳn đó để tu khổ hạnh, chịu mọi cực hình hành xác để chuộc tội cũ và trở về với Chúa. Nhưng chính trong chốn thánh đường tôn nghiêm này anh lại phạm tội giết người: trong một cuộc đấu kiếm, anh đã hạ sát địch thủ ngay tại tu viện. Nhưng hành động của anh đã được vị linh mục ở tu viện bao che và đánh lạc hướng để câu chuyện không bị vỡ lở và nhà tu khỏi mang tiếng...

Những linh hồn trong luyện ngục với tình tiết hấp dẫn ly kỳ đã vạch trần bản chất xấu xa của những người giả danh mộ đạo để che dấu cái thực chất "tâm xà" của họ, do đó có tác dụng tố cáo đanh thép giáo hội Thiên Chúa giáo.

Có người cho rằng Prôxpe Mêrimê chưa biết tìm những hình tượng đẹp đẽ trong các tầng lớp nhân dân cực khổ ở ngay thành thị, trong các phong trào cách mạng vô sản đã bắt đầu bùng nổ để xây dựng nên những điển hình tiêu biểu cho những sức mạnh đang lên của lịch sử. Điều đó phản ánh sự hạn chế về quan điểm lịch sử và ý thức giác ngộ của nhiều nhà văn thời bấy giờ và đó cũng là một thực tế xã hội khác nhau. Ngay Mêrimê về sau cũng xa rời quan điểm sáng tác của mình, viết một số truyện không đạt thậm chí còn kém cả về tư tưởng và nghệ thuật. Nhưng điều đó không hề làm giảm sút giá trị của những tác phẩm hay mà Mêrimê đã thể hiện một cách sâu sắc tính hiện thực phê phán và tinh thần nhân đạo chủ nghĩa.

Mêrimê chịu ảnh hưởng nhiều của những trào lưu tiến bộ và những nhà văn tiến bộ trong nước và nước ngoài. Sau này ông sáng tác ít đi và cũng đã mang nhiệt tình dịch một số tác phẩm của các văn hào Nga như Putskin, Gôgôn, Tuốcghêniép.

Prôxpe Mêrimê đã đóng góp một phần đáng kể vào kho tàng văn học Pháp và góp phần mở đường cho nhiều nhà văn hiện thực nổi tiếng sau này như Guy đờ Môpatxăng, Anatôn Frăngxơ

v.v...

Nội dung tư tưởng tiến bộ và tính hiện thực sâu sắc trong các tác phẩm của Prôxpe Mêrimê gắn liền với phong cách và nghệ thuật viết của ông cũng như với những thể loại mà ông sử dụng.

Mêrimê nổi tiếng không phải vì những vở kịch hay tiểu thuyết mà vì những truyện ngắn của ông.

Nếu trước kia Mêrimê chọn đề tài cho tiểu thuyết những bối cảnh lịch sử rộng lớn cả về không gian và thời gian, thì sau này ông đã chọn cho những truyện ngắn của ông những sự kiện nhỏ, những hoạt động nhỏ của xã hội đương thời, những con người bình thường với tính cách, tình cảm và diễn biến nội tâm, những bi kịch tinh thần, những vấn đề tưởng như nhỏ nhặt vô nghĩa lấy ngay trong thực tế cuộc sống để thể hiện một cách cô đọng nhất, sâu sắc nhất.

Như một nhà nghiên cứu văn học Pháp ví, người viết tiểu thuyết nhảy xuống nước, bơi suốt dòng sông với tất cả cảnh vật bao la bát ngát của nó, còn người viết truyện ngắn đứng trên b ờ sông với chiếc giá vẽ và tấm lụa. Anh ta rình chớp lấy một pha đẹp nhất cả về bố cục, ánh sáng, kỹ thuật lẫn biểu hiện của tình cảm và tâm hồn. Người viết truyện ngắt một bông hoa trong cả một lùm cây...

Mêrimê đã thành công trong kỹ xảo đó. Bằng con mắt quan sát sắc bén, tâm hồn nhạy cảm và bút pháp kỳ diệu, Mêrimê đã biết chọn những hình ảnh, những hoạt động điển hình nhất, đồng thời đi vào chiều sâu của những tình cảm thầm kín nhất của con người để vẽ lên một bức họa, một bức chân dung với cận cảnh rõ nét nhưng vẫn toát lên cả một tấm nền mênh mông, thăm thẳm.

Với quy mô hạn chế của truyện ngắn, Mêrimê đã sử dụng ngòi bút một cách chặt chẽ nhất, cô đọng và xúc tích nhất, không để một chi tiết thừa và gần như đi đến chỗ thanh đạm khô khan.

Văn tức là người, điều đó rất đúng với Mêrimê. Trong thế kỷ thứ XIX một số nhà văn Pháp quen mặc thả tâm hồn chơi vơi bi lụy, trải dài hàng chương hàng tập, thì cách viết như Mêrimê thật là hiếm và quý vậy.

Nhưng chớ tưởng lầm rằng Mêrimê khô cằn với lối viết của mình. Từng câu từng chữ, từng chi tiết chọn lọc kỹ càng và không thiếu mài dũa chứa đựng bao nhiêu tình cảm, suy nghĩ và đạo lý sâu xa. Đúng như Bandắc và Xanhtơ Bơ vơ nhận xét, ở Prôxpe Mêrimê là một tài năng sâu sắc và tuyệt diệu với một chút gì nghiêm khắc và chua cay.

Phong cách thanh đạm, khô khan của Mêrimê vừa mang tính chất cổ điển, hiện thực và khoa học của những thế kỷ trước, vừa có tính lãng mạn, trữ tình của thế kỷ ông. Có thể nói tính chất ấy đã "bảo quản" tác phẩm của Mêrimê và khiến nó bền vững.

Matêô Famcôn với hơn chục trang là một ví dụ điển hình.

Một nhà phê bình đã nói không ngoa rằng nếu như Mêrimê chỉ viết có một truyện đó thì có lẽ cũng đủ chiếm một vị trí xuất sắc trong lịch sử văn học nước Pháp, bởi vì từng ấy trang chữ của tác phẩm không tính theo số lượng mà tính bằng trọng lượng.

Côlômba và Carmen là những bài thơ, những bản trường ca sâu đậm hiện thực và chan chứa trữ tình. Những điển hình ấy vừa mang tính cách chung của xứ sở, của dân tộc, vừa mang tính cách riêng độc đáo đến nỗi khó trở thành như những nhân vật có thật, và người ta coi đảo Corxơ như của Côlômba, cũng như coi Carmen là những người bôhêmiêng.

Tình cảm con người đã được Mêrimê khơi dậy với tất cả sức sống mãnh liệt của nó và Tibôđê đã phải thốt lên rằng "Những truyện ngắn của Mêrimê là một bảo tàng của những tình cảm và khát vọng con người".

Anatôn Franxơ cũng nhận xét:"Dưới nụ cười châm biếm của Mêrimê bạn không thấy một tình cảm nồng nhiệt sao? Tác giả của Côlômba luôn luôn bị thuyết phục một cách chân thành vì những tình cảm chính đáng. Ông chỉ đòi hỏi những tình cảm đó phải thật sự và mạnh mẽ".

Tác phẩm của Prôxpe Mêrimê, quả như Emin Faghê nói, là "... những câu truyện thật trong sáng, thật súc tích, thật chứa chan, người ta đọc trong một giờ, người ta đọc lại trong một ngày,, và rồi chúng tràn ngập cả trí nhớ, buộc người ta phải ngẫm nghĩ mãi không thôi...".

ANH VŨ

LỜI GIỚI THIỆU

Tiến >>


Nguồn: Lê Hà - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 4 tháng 4 năm 2020