NAM MÔ QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT CỨU KHỔ CỨU NẠN

nguyễn minh trân

Hôm nay tôi muốn viết một bài về niềm tin phương đông được biểu hiện qua hình tượng là vị thần hay còn gọi Mẫu Thượng, đó là Quan Thế Âm Bồ Tát.

Quan Thế Âm Bồ Tát, Người là ai?. Tại sao khi gặp nạn hay khổ tâm thường người ta lâm râm khấn Người?

Bồ tát là từ được gọi tắt của Bồ đề tát thùy ( Bodhisatha) chỉ một ai đã giác ngộ đã tỉnh thức nhận biết về cõi hồng trần, vốn là nơi chốn xa xi náo nhiệt, gây bao nỗi ưu phiền cho con người.

Có phải Quan Thế Âm Bồ Tát thấu hiểu nỗi đau thế gian quyết ở lại nơi chốn ô trọc này, lắng nghe tiếng kêu than, cứu vớt thế giới này, phổ độ khắp nhân gian?.

Mặc dù có thể Ngài đã ở niết bàn mãi mãi không bao giờ trải qua kiếp người?.

Nhưng Ngài đã động lòng cảm ứng khi nghe tiếng kêu bi ai của con người đang trong rối ren vướng víu bao mối lụy ở đời. Ngài thông cảm bao nỗi đa đoan của người đời chúng ta, đôi khi trần trụi, đầy dục vọng, tham sân si, vị kỷ, tham sống, tham yêu, không tránh né diệt dục, dù phải chịu nhiều đau khổ mất mát?.

Có lần nào trong đời, chúng ta đã từng nghĩ rằng được ngài lắng nghe, cứu vớt?

Ngài đến với chúng ta bằng cách nào?. Làm sao chúng ta nhận biết?

Văn hóa Việt Nam cũng như các nền văn hóa lâu đời khác quan niệm rằng có một thế giới tâm linh song song với thế giới vật chất.

Có một điều gì đó thiêng liêng vô hình ngự trị chi phối thế giới hữu hình này!

Quan Thế Âm Bồ Tát là một trong những điều linh thiêng ấy.

Người ta tin rằng ngài có thể ứng biến, hóa thân, hóa độ cảm hóa chúng sinh vượt qua biển khổ.

Vì tình thương dạt dào lòng từ bi, bao la như biển cả nên hình tượng Quan Âm còn được gọi là Phật Bà Quan Âm hay Mẹ Quan Âm.

Sức mạnh vô hình màu nhiệm của Quan Âm giúp chúng ta vượt qua bão cát hồng trần thoát miền khổ đau dìu ta đến bến bờ bình yên hạnh phúc.

Có thể ngài hóa thân là một thân cây, một tấm ván mục, một can nhựa bập bềnh giữa dòng nước mênh mang để người sắp đắm bám làm phao mà sống hay ngài là một chiếc tàu cấp cứu vô tình hay hữu ý, xuất hiện kịp thời đúng lúc đúng nơi?

Có nhiều truyền thuyết về Phật Bà Quan Âm.

Nếu là người phương Đông khi nghe về Đức Mẹ ở Lourdes người ta cũng ngờ ngợ như là Quan Âm Bồ Tát.

Khi còn nhỏ tôi được nghe rất nhiều người kể về Mẹ Quan Âm.

Tôi thấy tôi may mắn khi nghe được lời tâm sự của những người thân khi họ tin rằng Quan Âm đã có lần lắng nghe họ. Họ dặn tôi rằng nếu nghĩ đến Ngài hãy quay mặt về hướng tây vì nơi ấy là nơi Ngài ngự trị.

Phương Tây cũng có thể là nơi núi rừng cũng có thể là nơi miền sông nước biển khơi nhưng khi khấn Ngài, ta hãy quay mặt về hướng tây.

Hồi nhỏ, có hôm khi nhìn lại cuốn album chụp hình kỷ niệm của gia đình, có tấm hình một người chống gậy đang leo dốc, quần áo xộc xệch, vai đeo túi nải, nhìn cứ như là đang trải qua vạn dặm xa, gây cho tôi sự tò mò.

Tôi gặng hỏi. Ba tôi kể rằng vào thập niên 60, người ta lũ lượt leo về vùng Núi Bà nay thuộc vùng Lang Biang, vì có người nhìn thấy Phật Bà ở đó.

Trong khoảng thời gian ấy, nhiều người hành hương về Núi Bà. Và người trong hình cũng muốn là một trong những người đi tìm sự linh ứng của Ngài. Phải có sức, phải đi bộ leo dốc gian nan người ta mới lên tới nơi cao ấy, chỉ để lấy nước suối trữ vào bình, vì tin nước nơi đó đã được ban phép màu.

Từ sự kiện đó, nhà tôi có một tấm hình Quan Âm mặc dù gia đình tôi không phải đạo Phật chỉ thuần túy là thờ cúng ông bà.

Theo lời ba kể, nước trong chai lấy từ nơi ấy phải lâu lắm mới cạn và khi còn chút nước ở đáy chai, nước vẫn trong không cặn.

Ba tôi là người tin rằng Quan Âm là một hình tượng có thật. Ngài có thể là Đức mẹ Maria nếu như thấy Ngài ở vùng rừng núi châu âu.

Và Ngài chính là Quan Âm, nếu ta là người châu á. Nói một cách rõ ràng hơn là Bạch Y Quan thế âm Bồ tát.

Tại sao lại Bạch Y?. Có liên quan gì đến màu trắng chăng?

Theo lời ba kể vào khoảng thập niên 50 khi nhũng người di cư Bắc và Trung vào miền nam, họ mang tập tục tín ngưỡng theo.

Miền nam trước 75 là một miền đất luôn tôn trọng tín ngưỡng truyền thống. Nên các đình chùa miếu mạo xuất hiện rất nhiều với đa dạng hình thức sinh hoạt tâm linh.

Khi có sự tự do như vậy điều tiêu cực là có những kẻ lợi dụng sự cả tin, lòng yêu đuối của con người khi gặp những sự không may ập đến cuộc đời muốn tìm sự cứu rỗi che chở của đấng linh thiêng.

Và thế là không thể tránh được những điều mê tín dị đoan và phát sinh những người buôn thần bán thánh.

Thế nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Có những đền miếu đã thể hiện rõ sự linh thiêng. Và những người tìm được đến nơi ấy cũng phải nhờ duyên lành vậy. Có thể những nơi ấy có sự thờ cúng trang nghiêm thu hút lòng tin tuyệt đối nơi con người chăng?.

Và ba tôi may mắn gặp được một nơi như thế. Ba tôi mắc bịnh nan y chữa thuốc tây hoài không hết. Ông gặp được một người bạn dẫn ông đến một nhà thờ họ nhưng cũng có thờ Thần nữa, nhìn giống như một miếu đình.

Người bạn cho ông biết ai đau ốm tới cầu xin thuốc về uống thường là hết bịnh. Ba tôi vô cầu xin van vái. May mắn có sự linh ứng. Vị thần giáng ứng, hạ bút kê đơn.

Ba tôi ra tiệm thuốc bắc đưa đơn để người bán, cân thuốc về sắc uống. Một thời gian sau hết bịnh. Ba tôi nhớ ơn vị thần đã ban cho đơn thuốc. Cố gắng dò hỏi mới biết đây là một vị Thần đã được sắc phong của vua. Sắc phong tức là vua ban chiếu phong tước hiệu chứng mình sự linh thiêng của vị Thần đó.

Ba tôi hiểu nhà thờ họ là nơi chốn riêng tư nên không dám hỏi han nhiều. Ông để ý không phải lúc nào Thần cũng giáng bút. Nếu không nói là rất hiếm hoi. Và mỗi khi đến ngày tưởng niệm vị Thần, ba tôi đều ghé nơi ấy thắp nhang.

Ông lắng nghe bài vị tức là bài sớ người ta đọc trước khi cúng bái. Có những câu như sau:

Khi báo quốc với Lê Thái Tổ

Bạch vương còn ứng trổ mai sau

Gương treo cứu quốc một màu,

Hoàng Gia Ngọc phổ làu làu gương trong

Sa mình thử, dốc lòng khôn nghĩ

Phép thần thông tự thỉ chí chung,

Phép thiêng giúp đỡ anh hùng

Quân Minh từng đã ngại ngùng phương nam

Mặc dù thế rừng Lam chưa xẩy,

Giặc phi thường đã thấy tan hơi,

Ùn ùn sát khí phương trời,

Tiếng còi trúc Nguyệt mãn đời quân Minh

Công lao tướng Bắc Bình vời vợi,

Tiếng Lê Hoàng đã tới trời cao,

Cho nên những bậc anh hào,

Nhờ ơn vận nước, đồng bào nhất tâm…”

Theo như những lời trên vị Thần linh này đã từng giáng ứng giúp vua Lê Thái Tổ khi gặp nguy khốn.

Trước 75, ba tôi đi tìm khắp tất cả các thư viện và đã đọc được truyền thuyết về vua Lê Lợi. Trong đó có một truyện dã sử đại để như sau:

Những năm đầu khởi nghĩa vô cùng vất vả, người anh hùng áo vải Lam Sơn bị thua trận, quân binh tan tác, bị truy lùng ở vùng Chí Linh.

Đang bị giặc vây đuổi chạy thục mạng, nhưng khi đi đến một đoạn đường, ông bất ngờ thấy xác một phụ nữ mặc đồ trắng nằm chết giữa đường. Vì lòng trắc ẩn, tuy tình hình rất quẫn bách nhưng ông quyết định dừng lại để chôn cất xong mới đi tiếp.

Sau đó tiếp tục hành trình chạy trốn, khi đi qua một nơi, ông nghe dân tình quanh vùng kể lại, là quân Minh vừa mới rời khỏi tức thì. Ông biết mình thoát nạn trong gang tấc. Sự trễ nãi đó khiến ông gặp may! Nếu như ông không dừng lại chôn cất, van vái linh hồn người chết bất hạnh đó thì đã đụng đầu quân Minh.

Rồi trong một cuộc vây ráp gắt gao khác, ông và một quân sĩ phải núp vào bụi rậm.

Quân Minh mang giáo và chó săn lùng sục cùng khắp. Đến chỗ vua Lê Lợi và quân sĩ theo phò ông, chúng đâm bừa giáo vào bụi rậm. Người theo phò nằm trước che chắn, bị một nhát giáo nhọn đâm trúng đùi, người này chịu đau, một tay kìm giữ mũi giáo lại tay kia bốc đất, để khi giặc rút ra, đất cát,vải thô sẽ lau sạch không để lại vết máu.

Đang cơn nguy cấp, bỗng từ bụi rậm một con cáo trắng vọt ra, chó săn, đuổi theo. Lê Lợi và người quân sĩ đó, nhờ sự xuất hiện kịp thời của cáo trắng đánh lạc hướng quân Minh và đàn chó săn, đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.

Sau những vụ thoát hiểm quá ư kỳ lạ ấy, Lê Lợi biết mình có thần linh che chở cứu giúp nên hứa khi nào thành công ông sẽ trả ơn.

Theo sử sách, Phạm Đình Hổ, một vị quan nổi tiếng trung trực Triều Nguyễn có đề cập đến việc là, thuở thơ bé ông có dịp nhìn thấy, tại cung điện, trong sân chầu, vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi) một bức tượng có tên là Hộ Quốc Phu Nhân ở sân Rồng. Tượng đầu người, thân hồ ly rất đẹp. Vua Lê Lợi đã cho đúc tượng ấy.

Có nhiều quan niệm về dã sử, truyền thuyết. Đâu là sự thật?

Sử ký ghi chép sự việc,những trận đánh, những sự kiện biến cố, những con số, ngày giờ chính xác? Ta cứ tạm cho là những sự thực đã xảy ra trong lịch sử được chính thức ghi chép lại. Nói chung là sự việc cụ thể đã xảy ra (chính sử) và đang xảy ra (thời sự)

Cứ tạm cho là duy vật, hay còn gọi là duy lý dựa trên lý luận và kiến thức (rationalist) thay vì cảm xúc riêng tư hay một niềm tin tôn giáo. Nhờ cái gọi là duy lý hay tinh thần khoa học mói có được tri thức chính xác.

Thế nhưng, như tôi đã nói ở trên có một thế giới vô hình song song với thế giới hữu hình này, đối lại với duy vật duy lý là duy tâm.

Duy tâm cho rằng các hiện tượng vật chất đều phát xuất từ bản thể tự nhiên là tinh thần. Ví dụ mình đang tức sôi máu muốn đập cho ai đó một trận nhưng lòng lại nghĩ, suy cho cùng có đánh cũng chả đi đến đâu chả ích lợi gì, hoặc có một điều gì sâu xa ngăn không cho mình hành động. Hiện tượng vật chất cũng chỉ là tác dụng của tinh thần. Dã sử là những chuyện xảy ra trong dân gian, được truyền khẩu, được dồn đại,nhiều khi thêu dệt. Nhưng người Việt có câu “không có lửa sao có khói?” Dã sử là vậy! Cũng giống như thời đại này nhiều khi tin đồn trên mạng lại trở thành sự thật còn những tin chính thức lại có những góc khuất, vì chưa hẳn những gì sờ sờ trước mắt lại đúng. Những nickname trên mạng đôi khi lại thể hiện con người thật của mình!

Cũng như ca dao tục ngữ, thơ ca nhạc văn chương không thực nhưng rất thật! Người Pháp có câu “Vraie mais irréelle “ là vậy đó. Những nhân vật hư cấu, nhưng cốt truyện con người trong nghệ thuật thật hơn con người ngoài đời, bởi con người thực chưa chắc dám nói thực, cảm xúc thật bị che giấu, lúc nào cũng như phải đeo mặt nạ.

Đó là lý do nhạc tiền chiến nhạc Bolero mà ở Việt Nam giờ gọi là nhạc vàng hay nhạc sến trở nên bất tử. Từ “sến” thì không đúng nghĩa. Đó là sự đánh đổng đánh lạc hướng, đánh tráo ngữ nghĩa không đúng với cách đánh giá nhạc vàng trước 75

Trước 75 cũng có từ “sến” nhưng nghĩa của nó khác. Chỉ tình cảm bị cường điệu lên, trở nên sướt mướt, ướt át, nhão nhoẹt, đến mức giả dối, không thực, có vẻ bề ngoài, đóng kịch.

Nhạc vàng nhạc Bolero là loại nhạc trữ tình hữu tình (emotional) thì đúng hơn. Nó len lỏi vào tận sâu thắm tâm can con người, nó làm rung động lòng người, nó khơi dậy những cảm xúc sâu xa trong lòng người.

Tiếng lòng hay tiềm thức không nhìn thấy nhưng rất thực. Vì quá “thực” nhưng lại vô hình (formless, indescribe beyond words ) không sờ mó chụp hình định dạng gọi tên mà phải qua thơ ca nhạc họa truyền thuyết để truyền đạt chứ không thể ghi chép tường thuật như chính sử.

Phim tư liệu, tin tức sờ sờ trên báo chưa chắc đã thật. Không phải cái gì cũng giống như mắt nhìn.

Cũng vì đời có thể là duy tâm cũng có thể là duy vật ( duy lý ). Nhận thức, ý thức là phần nổi bề mặt và tiềm thức vô thức là phần chìm bên trong.

Nếu duy lý là ý thức nhận thức bên ngoài thi duy tâm là tiềm thức ẩn sâu bên trong. Duy lý hay duy tâm đều có giá trị. Và khi có giá trị tình và lý đều đi đôi như hình với bóng. Chỉ khác là duy lý thì vận dụng lý lẽ là chính và duy tâm thì vận dụng cảm xúc sâu kín là chính.

Đó là lý do tại sao phải có riêng hai giải đặc biệt cho “chính sử” và “dã sử “, đó là giải Nobel văn chương và giải báo chí Pulitzer.

Đợt nhận thức bên ngoài là pulitzer (consciousness)

Đợt cảm nhận ẩn chìm bên trong là nobel văn chương. (subconscious).

Trở lại vấn đề chính lúc đầu mà tôi muốn nói ở đây, đó là vị Thần cứu vua Lê Lợi phải chăng là Bạch Y Quan thế âm Bồ tát? Nếu đủ duyên chúng ta sẽ gặp được Ngài, sẽ được cứu độ?

Nơi Ngài xuất hiện thường là vùng rừng núi. Khi thì ban phép lành chữa bịnh cho chúng sinh. Khi thì giúp chúng sinh thoát hiểm? Bằng nhiều cách và nhiều sự hóa thân? Và khi xuất hiện thường là màu trắng?

Ba tôi tin như thế và những năm cuối đời tôi thấy ông hay niệm Bạch Y Thần Chú.

Bạch Y Thần Chú chắc chắn nhiều người đã biết.

Nhân đây, tôi sẽ ghi lại những câu niệm chú này. Tôi trích lại trong cuốn Quan Thế Âm Bồ Tát - Bạch Y Thần Chú được Thư Lâm Ấn Thư Quán 231 Phạm Ngũ Lão Sàigon in. Kiểm duyệt số 1291 / XB U.B.KD T.Ư ngày 29 tháng 6 năm 1961

Tôi thấy có nhiều bản in sau này và có sự khác nhau trong từ ngữ. Ví dụ từ “Sa bà ha” hay “Ta bà ha”?

Cuối cùng, tôi quyết định trích trong cuốn này.

Do đó, phần trích của tôi có từ là “sa bà ha” mà không phải là “ta bà ha”.

Tôi nghĩ là sa bà ha vì trong tiếng Phạn có từ Sa bà- a một chữ thường dùng ở cuối câu thần chú (Svaha). Sa bà là nơi thế giới mà các loài chúng sinh có thể chịu nhịn được các nỗi phiền não khổ sở, nói chung là tam thiên thế giới, đại thiên thế giới theo quan niệm nhà phật chỉ thế giới ta đang ở bây giờ.

Còn tùy theo độc giả muốn niệm chú từ “sa bà ha” hay “ta bà ha” tùy thích và tùy lòng tin.

BẠCH Y THẦN CHÚ

Tịnh khẩu nghiệp chân ngôn

Tu lị tu lị, ma ha tu lị, tu tu lị, sa bà ha. ( đọc ba lần)

Tịnh thần nghiệp chân ngôn

Tu đa lị, tu đa lị, tu ma lị ma lị sa bà ha ( đọc ba lần)

An thổ địa chân ngôn

Nam mô sam mãn đà, một đà nẫm án tô rô tô rô, địa vĩ sa bà ha ( đọc ba lần)

BẠCH Y QUAN THẾ ÂM ĐẠI SĨ - LINH CẢM THẦN CHÚ

Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn quảng đại linh cảm Bạch Y Quan Thế Âm Bồ - Tát ( đọc ba lần)

Nam - mô Phật, nam mô Pháp, nam mô tăng, nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, đát chỉ đá, ám dà la phạt đá, dà la phạt đá, dà la phạt đá, la dà phạt đá, la dà phạt đá, sa ha, thiên la thần, địa la thần, nhân ly nạn, nạn ly thân, nhất thiết tại ương hóa vi trần.

= CHUNG =

(Kinh tụng đến chữ “Chung” là hết, còn từ đây trở xuống là chép những điều linh ứng của các người trì niệm chú Bạch Y, cùng là ghi công đức vô-lượng của những người nhất tâm kính tụng)

*

NHỮNG ĐIỀU LINH ỨNG

Chú này ví tụng 12.000 lượt,hay in cúng 1.200 quyển thời nhất nhất cầu việc gì đều hiệu nghiệm cả.

Cầu con có con cầu bệnh khỏi bệnh. Cầu tài có tài, cầu phúc được phúc, cầu tai qua nạn khỏi được tai qua nạn khỏi….

1.= Người họ Trần làm dâu của họ Ngô, mình đau yếu lại không có con, rồi trì tụng chú này, cùng in kinh cúng 1.200 quyển được khỏi bệnh và sinh được một con làm Quan tới Hộ-Bộ Thị-Lang.

2.= Lý Thữ Lâm ở Mãn Châu, khi đi về, thuyền đến chỗ cửa dòng, nước chảy gió to nguy hiểm, suýt đắm thuyền: hứa xin in cúng 1200 quyển chú này khấn xong gió thuận thuyền yên qua cơn hiểm nghèo.

3.= Người Vương Thiện ở kinh đô đi thi bao phen chẳng đỗ mà nợ bút nghiên chưa hề trả được, chợt mộng thấy Bạch Y Đại Sĩ bảo rằng: “ Nhà ngươi không có số đỗ, nay muốn đỗ, thì ngươi nên chăm trì tụng Bạch Y mới mong khá được”.

4.= Chu Kế Khanh làm quan giám sát tỉnh Sơn Đông mắc tội ngục hình, đêm nằm mộng thấy vị Đại Sĩ bảo niệm chú này, thì thoát được ách, người ấy niệm 1.200 lượt chú, quả sau khỏi vòng tù tội, cả nhà đều được tha về.

5.= Phủ Hoài An, huyện Sơn - Dương có Trần Quốc Khanh, anh em được ba người, nhưng chỉ duy có Quốc Khanh, lòng tin niệm chú Bạch Y, chợt gặp cơn tai biến lúc cháy nhà, Khanh trông thấy được Bạch Y Đại Sĩ đến cứu thoát, còn hai em thì quỷ thần thiêu đốt trong đám tro tàn.

6.= Nguòi tín nữ họ Lý, người ở huyện Đại Hưng, cha bị bệnh rất nguy. Niệm Bạch Y chú, đủ 12.000 biến, và hứa in cúng 1.200 quyển kinh thì tự nhiên khỏi bệnh.

7.= Người hàng cơm ở cửa Đông,kinh đô là Lưu Thế Long cùng vợ là họ Tôn nhân không con, niệm chú Bạch Y 12.000 lần, thời sinh được một con trai. Rồi lại in cúng 1200 quyển kinh.

8.= Hứa Nguyên Cát người ở Huy Châu, nhà rất nghèo, kiếm chẳng đủ ăn, bực mình đâm đầu xuống sông để kết liễu cuộc đời chợt thấy một ông già vớt lên và bảo niệm chú Bạch Y thì Trời giúp cho và đưa cho một quyển Thần Chú rồi biến đi. Cát nghe lời về nhà trì tụng đủ số thời thấy làm ăn ngày một phát, sinh sôi nảy nở giàu to.

9.= Đất Tích Giang năm Càn Long, Mậu Ngọ có người nàng dâu là Quận Thị thấy bố chồng phải bệnh đau ruột và ho ra máu, nguy cấp phát nguyện niệm chú 12.000 lần in kinh 1.200 đủ số rồi bệnh tự khỏi.

Xem sách Thiên Tự có chép:

10.=Có người đàn bà họ Vương năm hai mươi tuổi bị bệnh nguy kịch, người ấy niệm chú Bạch Y chợt nằm mộng thấy Đức Bạch Y đạo sĩ bảo rằng: “ Nhà ngươi thành tâm niệm chú nhưng tụng còn thiếu 19 chữ, cho nên chưa được báo ứng, người đàn bà thưa không biết thiếu chữ gì, Đại Sĩ bảo cho 19 chữ là “ Thiên La Thần Đang”, người đàn bà vâng lời tụng nốt. Đến sau quả nhiên khỏi bệnh, và sống được 93 tuổi.

11.=Niên hiệu Đạo Quang thứ 17, có người học trò đi học nửa đường lâm bệnh nặng; nhân nhớ đến chú linh nghiệm, chú Bạch Y và hứa in kinh cúng, đến sáng mai quả được bình phục như thường.

12.= Niên hiệu Quang Tự năm Tân Tỵ, Trương văn Khanh làm học chính đất Tích Giang, một hôm trở về gặp lúc sóng to, nước dữ, mười phần chắc chết, Khanh cứ nghiễm nhiên niệm đến chú này liền qua cơn hoạn nạn linh nghiệm đến thế.

13.= Tôi ngày còn nhỏ đi học, hay bị đau mắt, thuốc đâu chẳng khỏi, nhân biết truyện linh nghiệm mới theo niệm chú Bạch Y.

Đến đêm thứ năm mộng thấy con chim trắng mổ vào mắt một cái đau lắm; tỉnh dậy cả sợ ngay hôm nói chuyện lại với anh em. Có người nói đó là chim Anh Vũ trắng của đại sĩ người cho xuống chữa, chắc từ nay anh không bị bệnh đau mắt nữa. Tôi bèn in 1.200 quyển kinh để cúng và lúc nào cũng niệm chú ấy, năm tôi 40 tuổi cũng chưa có con lại chăm tụng niệm hơn. Mấy năm sau tôi sinh hạ được hai trai một gái đứa nào cũng thông minh mẫn tiệp. Cách sinh nhai của chúng đều dễ dàng. Đến năm nhâm tý tôi thôi học đi buôn, vì lẽ nơi ăn chốn ở không được tinh khiết nên không dám trì tụng nữa chỉ riêng trai giới giữ như thường.

14.= Họ Trịnh tên Thị Cung bị đau mắt không khỏi. Sau tụng và in kinh này quả nhiên khỏi bệnh.

NGÀY TRAI ( lời phụ)

Ai đã có tâm trì niệm chú này phải chăm làm những việc phúc thiện và nên theo đúng các ngày trai kể dưới đây mà giữ giới, ắt sau đây phúc thêm, phát nguyện thành nguyện:

Tháng Giêng 8

Tháng Hai 7 - 9 -19

Tháng Ba 3 - 6 -13

Tháng Tư 22

Tháng Năm 3 - 17

Tháng Sáu Từ 16 đến 23 trừ ngày 18, 21, 22

Tháng Bảy 13 - 15

Tháng Tám 16

Tháng Chín 19 - 23

Tháng Mười 2

Tháng Mười Một 19

Tháng Chạp không chay.

Tháng nhuận theo tháng chánh.

Việc trích dẫn đến đây là hết.

Quyển này còn phần sau tôi không trích nữa, tôi không muốn in trọn vẹn bởi không có “tham vọng in càng nhiều càng tốt”!

Đối với tôi không phải cứ in hay cứ đọc niệm chú chăm chỉ là được. Nếu có lỡ đọc sai đọc thiếu câu chú cũng không phải điều gì nghiêm trọng. Quan trọng là trong tâm hướng đến Bạch Y Quan Âm vói một lòng kính trọng vô bờ vì tình yêu bao la của Ngài với lời phát nguyện của Ngài là luôn lắng nghe tiếng kêu than ở cõi hổng trần để cứu vớt nhân loại.

Tôi mong tôi dần bớt đi những tham sân si để có đủ vị tha, nguôi bớt oán hận với kẻ thù (nếu có), chia sẻ niềm vui hoặc san bớt khổ đau với người đời…Nếu gặp ai đó hoạn nạn tìm đến nhờ vả, bản thân mình có thể giúp được tôi sẽ giúp, tôi muốn đóng góp chút lòng thành nhỏ nhoi như hạt cát của mình. Bởi tôi tin, nhờ có Ngài, có sự linh ứng của Ngài mà tôi mới có thể bình an và giúp được ai đó qua cơn hoạn nạn, có đủ bản lĩnh để bớt tinh toán chấp nhận thiệt thòi một chút để chia sẻ, không cần đòi hỏi bất kỳ một sự hồi đáp nào!

Tôi giờ cũng niệm chú, tôi chưa bao giờ thấy Ngài nhưng tôi tin Ngài luôn ở đâu đó quanh ta.

“Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn quảng đại linh cảm Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát…”

Tôi nghĩ Việt Nam chúng ta có nền văn hóa tâm linh truyền thống. Văn hóa Việt thật sự vận hành trong cõi tiểm thức (subconscious) là chính.

Và tại sao chúng ta không kể lại những linh ứng có thể gặp trong đời?. Như những điều mà cuốn Bạch Y Thần chú đã ghi lại trên đây?.

Đó là lý do tôi viết bài này.

Trân trọng kính chào quý độc giả.

Nguyễn Minh Trân


Nguồn: Tác giả Vietnamthuquan.eu - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 13 tháng 9 năm 2024