Vật Chất Tối Của Ngài (Con Dao Kỳ Ảo) - Tập 2

philip pullman

dịch giả: trang rose

- 1 -

con mèo và những cây duyên mộc

Con dao kì ảo là phần hai của một câu chuyện gồm ba tập, khởi đầu bằng cuốn Bắc Cực Quang. Tập này di chuyển giữa ba vũ trụ: vũ trụ của Bắc Cực Quang, giống như vũ trụ của chúng ta nhưng lại khác biệt ở nhiều mặt; vũ trụ mà chúng ta biết; và một vũ trụ thứ ba, cũng khác biệt với vũ trụ của chúng ta ở nhiều mặt khác.

*

1

Con mèo và những cây duyên mộc

Will kéo tay mẹ và nói: “Đi nào, đi nào mẹ…”

Nhưng mẹ cậu lại chần chừ. Bà vẫn sợ. Will đưa mắt rà soát khắp con phố nhỏ nhuộm ánh trời chiều, dọc theo những hiên nhà nằm sau các khu vườn nhỏ xíu và hàng rào cây hoàng dương, trong lúc mặt trời chiếu rọi rực rỡ lên một bên cửa sổ và để bên còn lại ngập chìm trong bóng tối. Không còn nhiều thời gian nữa. Lúc này mọi người hẳn đang dùng bữa, chẳng bao lâu nữa những đứa trẻ khác sẽ tới, nhìn ngó, bình luận và nhận ra. Đợi chờ là rất nguy hiểm, nhưng như thường lệ, tất cả những gì cậu bé có thể làm chỉ là thuyết phục mẹ mình.

“Mẹ, cùng vào gặp bà Cooper đi,” cậu nói. “Xem này, chúng ta gần tới nơi rồi.”

“Bà Cooper à?” Bà ngờ vực hỏi.

Nhưng cậu bé đã rung chuông cửa. Cậu phải đặt cái túi xuống để làm việc đó vì tay còn lại vẫn đang nắm lấy tay mẹ. Đáng lẽ cậu đã rất bực bội nếu bị phát hiện rằng mười hai tuổi rồi mà vẫn còn nắm tay mẹ, nhưng cậu biết chuyện gì sẽ xảy ra với bà nếu không làm vậy.

Cánh cửa mở ra, đứng đó là bóng dáng lưng còng già cỗi của vị giáo viên piano, với mùi nước oải hương phảng phất mà cậu bé vẫn còn nhớ.

“Ai đó? Có phải William không?” Bà già hỏi. “Hơn một năm rồi ta chưa gặp cháu. Có chuyện gì vậy, cháu yêu?”

“Cháu muốn vào trong, xin bà, cả mẹ cháu nữa,” cậu nói vẻ kiên quyết.

Bà Cooper nhìn người đàn bà đầu tóc rối bời, mép nhếch lên thành một nụ cười ngờ nghệch, rồi sang thằng bé với ánh nhìn chòng chọc đầy bất hạnh, đôi môi mím chặt, hàm dô ra. Rồi bà thấy rằng bà Parry, mẹ của Will, chỉ trang điểm duy nhất một bên mắt mà bản thân không hề nhận ra. Cả Will cũng không để ý thấy. Có chuyện gì đó không ổn.

“Thôi được rồi…” Bà nói rồi bước tránh sang một bên để nhường chỗ trong hành lang hẹp.

Will rà soát con đường trước khi đóng cửa lại. Bà Cooper nhận thấy bà Parry đang giữ chặt lấy tay con trai mình, còn cậu bé thì ân cần dẫn mẹ vào phòng khách nơi chiếc piano được đặt (hẳn nhiên đó là phòng duy nhất cậu biết). Bà cũng nhận thấy quần áo của bà Parry hơi có mùi mốc, như thể chúng đã ở trong máy giặt quá lâu rồi mới được sấy; và nét tương đồng giữa hai người khi họ ngồi trên sofa, để cho nắng chiều rọi lên toàn bộ gương mặt: hai gò má rộng, đôi mắt to tròn, hàng lông mày đen thẳng băng.

“Sao vậy William?” Bà già hỏi. “Có chuyện gì thế?”

“Mẹ cháu cần một chỗ ở tạm trong vài ngày,” cậu đáp. “Ngay lúc này thì việc chăm sóc mẹ ở nhà là quá khó khăn. Ý cháu không phải là mẹ cháu bị ốm. Mẹ cháu chỉ có chút lẫn lộn, bối rối và hơi lo lắng tí thôi. Không khó để chăm sóc mẹ cháu đâu ạ. Mẹ chỉ cần có ai đó đối xử tử tế với mình và cháu nghĩ bà có thể làm việc đó khá dễ dàng, có lẽ vậy.”

Người đàn bà đang nhìn con mình nhưng chẳng có vẻ gì là hiểu chuyện, bà Cooper nhận thấy một vết bầm trên má bà. Will không hề rời mắt khỏi bà Cooper, trông cậu bé thật tuyệt vọng.

“Mẹ cháu sẽ không gây tốn kém đâu ạ,” cậu nói tiếp. “Cháu có mang vài gói thức ăn đủ cho mấy ngày, cháu nghĩ vậy. Bà cũng có thể ăn cùng nữa. Mẹ cháu không ngại phải chia sẻ đâu ạ.”

“Nhưng… Ta không biết liệu mình có nên… Chẳng phải bà ấy cần một bác sĩ sao?”

“Không! Mẹ cháu đâu có bệnh.”

“Nhưng chắc hẳn phải có người nào đó có thể… Ý ta là, không có hàng xóm hay ai đó trong gia đình…”

“Chúng cháu không có họ hàng nào cả. Chỉ có hai người bọn cháu thôi. Còn hàng xóm thì quá bận rộn.”

“Vậy còn dịch vụ xã hội thì sao? Ta không có ý ngăn cháu, cưng ạ, nhưng…”

“Không! Không. Mẹ cháu chỉ cần một chút trợ giúp thôi. Cháu không thể hỗ trợ mẹ trong một thời gian nhưng sẽ không lâu đâu ạ. Cháu sắp… Cháu có việc cần làm. Nhưng cháu sẽ sớm trở lại để đưa mẹ về nhà, cháu hứa đấy. Bà sẽ không phải làm lâu đâu ạ.”

Sự tin tưởng trong ánh mắt khi người mẹ nhìn đứa con trai của mình, sự trìu mến và an lòng khi thằng bé quay lại mỉm cười với bà khiến bà Cooper không nỡ từ chối.

“Chà,” bà nói trong lúc quay sang phía bà Parry, “chỉ một vài ngày thì sẽ không có vấn đề gì. Cô có thể sử dụng phòng của con gái ta, nó đang ở Australia, nó sẽ không cần cái phòng nữa đâu.”

“Cảm ơn bà,” Will nói rồi đứng bật dậy như thể đang vội phải đi ngay.

“Nhưng cháu định sẽ ở đâu?” Bà Cooper hỏi.

“Cháu sẽ đến ở với một người bạn,” cậu đáp. “Cháu sẽ gọi điện thường xuyên nhất có thể. Cháu có số của bà rồi. Sẽ ổn thôi ạ.”

Mẹ cậu bé đang nhìn cậu đầy kinh ngạc. Cậu cúi xuống vụng về hôn bà.

“Mẹ đừng lo,” cậu nói. “Bà Cooper sẽ chăm sóc mẹ tốt hơn con, thật đấy. Ngày mai con sẽ gọi điện nói chuyện với mẹ nhé.”

Hai người ôm chặt lấy nhau, rồi Will hôn bà thêm một lần nữa và nhẹ nhàng gỡ vòng tay của bà đang ôm lấy cổ mình trước khi bước ra cửa chính. Bà Cooper có thể thấy rằng cậu bé đang buồn vì đôi mắt cậu long lanh ầng ậc nước. Nhưng không quên phép lịch sự, cậu quay lại chìa tay ra.

“Tạm biệt bà,” cậu nói, “và cảm ơn bà rất nhiều.”

“William,” bà nói, “ước gì cháu kể với ta chuyện gì đang diễn ra…”

“Chuyện hơi phức tạp một chút,” cậu bé đáp, “nhưng mẹ cháu sẽ không gây phiền phức gì đâu, thật đấy ạ.”

Đó không phải điều bà muốn nói, cả hai đều biết vậy; nhưng vì lí do nào đó, Will phải đảm nhận công việc này, dù cho đó có là việc gì đi nữa. Người phụ nữ lớn tuổi nghĩ rằng bà chưa từng thấy một đứa trẻ nào cứng rắn đến vậy.

Cậu bé quay đi và lập tức nghĩ tới căn nhà trống trơn.

Will và mẹ sống trong một khu nhà hiện đại gần đường vành đai, với hàng chục căn nhà giống hệt nhau mà trong đó căn của họ là tồi tàn nhất. Khu vườn trước nhà chỉ là một bãi đất mọc đầy cỏ dại; mẹ cậu bé đã trồng vài cây bụi hồi đầu năm, nhưng chúng đều héo rồi chết rũ vì thiếu nước. Khi Will vòng qua góc nhà, con mèo Moxie của cậu ló ra khỏi vị trí ưa thích dưới cây cẩm tú cầu vẫn còn sống, nó vươn người, chào đón cậu chủ bằng một tiếng meo dịu dàng rồi rúc đầu vào chân cậu bé.

Cậu bế con mèo lên, thì thầm: “Chúng đã trở lại chưa, Moxie? Mày có thấy chúng không?”

Căn nhà im lặng như tờ. Trong những tia nắng cuối cùng của buổi chiều tà, người đàn ông phía bên kia đường đang cọ rửa xe, nhưng ông ta không để ý đến Will, và Will cũng chẳng nhìn ông ta. Người ta càng ít để ý thì càng tốt.

Cậu bé vừa ôm Moxie trên ngực, vừa mở cửa rồi vội bước vào trong. Sau đó cậu chăm chú lắng nghe trước khi đặt con mèo xuống, chẳng có gì để nghe cả; căn nhà trống không.

Will mở một hộp thức ăn cho con mèo rồi để nó ăn trong bếp. Còn bao lâu nữa thì gã đàn ông quay lại? Chẳng có cách nào đoán được nên tốt hơn hết là phải nhanh chóng hành động. Cậu lên trên tầng và bắt đầu tìm kiếm.

Cậu đang tìm một cái kẹp tài liệu da cũ nát màu xanh lục. Ngay cả trong một căn nhà hiện đại bình thường cũng có nhiều chỗ để giấu những vật cỡ đó đến kinh ngạc; chẳng cần ô tường bí mật hay hầm chứa rộng để khiến một vật khó có thể được tìm thấy. Will lục tìm trong phòng mẹ trước tiên, ngượng ngùng khi phải kiểm tra các ngăn kéo chứa đồ lót của bà, rồi cậu tiến hành một cách có hệ thống qua các phòng còn lại trên tầng, kể cả phòng của bản thân. Moxie tới xem cậu chủ đang làm gì rồi ngồi cạnh đó liếm láp cơ thể, để cậu có bầu có bạn.

Nhưng cậu bé không tìm thấy nó.

Vào lúc đó trời đã sẩm tối. Will thấy đói. Cậu tự chuẩn bị bánh mì nướng phủ đậu hầm rồi ngồi bên bàn bếp suy tính xem kiểm tra các phòng ở tầng dưới theo thứ tự nào là hợp lí nhất.

Cậu bé vừa dùng bữa xong thì điện thoại đổ chuông.

Cậu ngồi im thin thít, tim đập thình thịch. Cậu đếm: hai mươi sáu hồi chuông, và rồi dừng lại. Cậu cho đĩa ăn vào bồn rửa rồi lại bắt đầu tìm kiếm.

Bốn tiếng sau Will vẫn chưa tìm thấy cái kẹp tài liệu da màu xanh. Lúc này đã là một giờ rưỡi, và cậu bé đã kiệt sức. Cậu cứ mặc nguyên quần áo như thế mà vật xuống giường rồi chìm vào giấc ngủ ngay tức khắc. Những giấc mơ của cậu thật căng thẳng và ngột ngạt, gương mặt bất hạnh xen lẫn hoảng sợ của người mẹ vẫn luôn ở đó nhưng ngoài tầm với.

Mặc dù đã thiếp đi được gần ba tiếng đồng hồ, cậu cảm thấy như mình đã bật dậy ngay lập tức, và đồng thời hiểu ra được hai điều.

Điều đầu tiên, cậu biết cái kẹp tài liệu ở đâu. Còn điều thứ hai, cậu biết rằng những gã đàn ông đang ở tầng dưới và mở cửa phòng bếp.

Cậu bé bế Moxie lên để qua một bên rồi khẽ suỵt khi nó ngái ngủ làu bàu phản đối. Rồi cậu thả chân xuống cạnh giường và xỏ giày vào, từng dây thần kinh căng ra để nghe tiếng động dưới nhà - những âm thanh vô cùng khẽ khàng: tiếng ghế được nhấc lên rồi đặt xuống, một tiếng thì thầm ngắn gọn, tiếng ván sàn cót két.

Di chuyển còn khẽ khàng hơn những kẻ kia, cậu bé rời khỏi giường rồi nhón chân đi tới căn phòng hình vuông ở trên đỉnh cầu thang. Căn phòng cũng không đến mức tối đen. Trong ánh sáng xám xịt ma quái của thời khắc trước bình minh, cậu có thể thấy một cái máy khâu đạp chân cũ kĩ. Chỉ mới vài giờ trước cậu đã lục tìm căn phòng rất kĩ, nhưng lại quên mất ngăn tủ bên hông chiếc máy, nơi toàn bộ số hoa văn và ống chỉ được cất.

Cậu bé nhẹ nhàng lần tìm trong lúc vẫn luôn lắng nghe. Những gã đàn ông đang đi qua đi lại dưới tầng, và Will có thể thấy một thứ ánh sáng bập bùng lờ mờ nơi mép cửa, có lẽ phát ra từ một cái đèn pin.

Rồi cậu tìm thấy then cài ngăn tủ và cậy mở nó ra. Ở đó, đúng như cậu đã biết trước, là cái kẹp tài liệu da.

Giờ thì cậu có thể làm gì đây?

Tạm thời thì chẳng gì cả. Cậu nép mình trong ánh sáng mờ ảo, tim nện thình thịch, tai căng lên nghe ngóng.

Hai gã đàn ông đang ở trong hành lang. Cậu bé nghe thấy một trong số chúng khẽ nói: “Nhanh nào. Tôi nghe thấy tiếng người giao sữa dưới đường rồi.”

“Nhưng nó không có ở đây,” giọng còn lại nói. “Chúng ta phải tìm trên tầng thôi.”

“Vậy thì đi đi. Đừng có la cà nữa.”

Will sẵn sàng ứng phó khi nghe thấy tiếng cọt kẹt rất khẽ từ bậc thang trên cùng. Gã đàn ông không hề tạo ra tiếng động nào, nhưng hắn không thể ngăn tiếng ván cọt kẹt nếu không đoán trước được. Sau đó là một khoảng ngừng. Có tia sáng rất mảnh từ đèn pin quét qua sàn nhà bên ngoài: Will nhìn thấy nó qua khe hở.

Rồi cánh cửa bắt đầu dịch chuyển. Will đợi cho tới khi gã đàn ông hiện rõ trong khung cửa mở rồi lao bổ ra từ trong bóng tối, đâm sầm vào bụng kẻ đột nhập.

Nhưng không ai trong số họ thấy con mèo.

Khi gã đàn ông lên tới bậc thang cuối cùng, Moxie lặng lẽ rời khỏi phòng ngủ và đứng rướn đuôi ngay phía sau chân gã, sẵn sàng cọ người vào chúng. Gã đàn ông đã có thể đối phó được với Will vì hắn từng qua huấn luyện, lại khỏe mạnh rắn chắc, nhưng con mèo làm vướng đường hắn, khiến hắn vấp vào nó khi đang cố lùi lại phía sau. Với một tiếng thở hắt vì kinh ngạc, hắn ngã lộn ngược xuống cầu thang, đầu phang thẳng vào chiếc bàn dưới hành lang.

Will nghe thấy một tiếng nứt gớm guốc, nhưng cũng không vì thế mà dừng lại. Cậu lao người xuống khỏi tay vịn, nhảy qua cơ thể gã đàn ông đang nằm co giật và nhăn nhúm dưới chân cầu thang, chộp lấy cái túi mua sắm rách nát trên bàn, rồi biến ra khỏi cửa chính trước khi tên còn lại kịp làm gì khác ngoài việc ra khỏi phòng khách và đứng nhìn trân trối.

Dù đang rất sợ hãi và gấp gáp, Will cũng không khỏi thắc mắc tại sao gã còn lại không hét lên hay đuổi theo cậu. Nhưng chúng sẽ truy lùng cậu với ô tô và điện thoại di động sớm thôi. Việc duy nhất cần làm là chạy.

Cậu bé thấy người giao sữa rẽ vào khu nhà, những ngọn đèn trên chiếc xe điện của ông nhợt nhạt trong ánh sáng le lói của buổi bình minh đang dần xâm chiếm bầu trời. Will nhảy qua hàng rào vào vườn nhà hàng xóm, chạy xuống lối đi bên hông nhà, vượt bức tường rào vườn tiếp theo, cắt ngang một bãi cỏ ướt sương, xuyên qua bờ giậu, vào mớ hỗn độn các lùm cây bụi và cây cối giữa khu dân cư và đường chính, rồi tại đó cậu bé trườn xuống dưới một bụi cây, nằm thở dốc và run rẩy. Vẫn còn quá sớm để ra đường, phải đợi đến lúc bắt đầu giờ cao điểm.

Cậu không thể xua khỏi tâm trí tiếng nứt vỡ khi đầu gã đàn ông va vào bàn, cái cách cổ của hắn bị bẻ ngoặt đi một cách sai trái và tay chân hắn co giật đến phát khiếp. Gã đàn ông đã chết. Cậu đã giết hắn.

Cậu không thể gạt nó ra khỏi tâm trí mình, nhưng cậu buộc phải làm vậy. Đã có đủ thứ để suy nghĩ rồi. Mẹ của cậu: liệu bà có thực sự an toàn ở đó không? Bà Cooper sẽ không để lộ gì chứ? Kể cả nếu Will có không quay lại như đã hứa? Vì giờ đây khi đã giết người, cậu không thể quay lại nữa rồi.

Còn Moxie. Ai sẽ cho Moxie ăn? Liệu Moxie có lo lắng về nơi hai bọn họ đang ở không? Liệu nó có tìm cách đi theo họ không?

Trời đang sáng lên nhanh chóng. Giờ đã đủ sáng để kiểm tra những thứ trong túi mua sắm: ví của mẹ cậu, bức thư mới nhất của luật sư, bản đồ đường sá ở miền nam nước Anh, vài thanh chocolate, kem đánh răng, tất và quần lót. Cùng với cái kẹp tài liệu da màu xanh lá.

Mọi thứ đều ở đó. Mọi thứ đang theo đúng kế hoạch, thực sự là vậy.

Chỉ trừ việc cậu đã giết người.

Lần đầu tiên Will nhận ra rằng mẹ mình khác biệt với những người khác, và rằng cậu phải chăm sóc bà, là khi lên bảy. Họ đang đi siêu thị và chơi một trò chơi: chỉ được phép cho một món đồ vào trong giỏ hàng khi không có ai nhìn. Việc của Will là quan sát xung quanh rồi khẽ nói “Nào,” và bà sẽ chộp lấy một hộp hay một gói đồ trên giá, lặng lẽ đặt vào giỏ. Khi mọi thứ đã ở trong giỏ hàng, họ sẽ được an toàn vì cả hai đã trở nên vô hình.

Đó là một trò rất vui, nó diễn ra khá lâu vì hôm đó là sáng thứ Bảy và cửa hàng chật ních người, nhưng họ chơi rất cừ và phối hợp với nhau ăn ý. Họ tin tưởng lẫn nhau. Will rất yêu mẹ mình, cậu thường nói vậy với mẹ, và bà cũng nói vậy với cậu.

Khi họ tới được quầy thu ngân, Will vô cùng phấn khích và hạnh phúc vì họ đang rất gần với chiến thắng. Lúc mẹ cậu không thể tìm thấy ví của mình, đó cũng là một phần của trò chơi, cả khi bà nói kẻ thù chắc hẳn đã lấy cắp nó nữa; nhưng lần này thì Will đã mệt mỏi lắm rồi, cậu lại đang đói nữa, còn mẹ cũng không còn thấy vui nữa; bà đang thực sự hoảng sợ. Sau đó họ đi vòng quanh để đặt lại đồ lên giá, nhưng lần này họ phải cực kì cẩn thận vì kẻ thù đang lần theo dấu của họ bằng số thẻ tín dụng của bà, chúng biết vì chúng có ví của bà…

Còn bản thân Will thì ngày càng hoảng sợ hơn. Cậu nhận ra mẹ mình thật thông minh khi đã biến mối hiểm họa thực sự này thành một trò chơi để cậu không phải lo lắng, và giờ đây khi đã biết được sự thật thì phải làm thế nào để giả bộ không sợ hãi cho bà yên lòng.

Vậy là anh bạn nhỏ vẫn giả vờ như đó là một trò chơi để mẹ không lo cậu sẽ hoảng sợ. Họ về nhà mà không mua sắm gì, nhưng đã được an toàn khỏi kẻ thù. Tuy nhiên, sau đó Will lại tìm thấy chiếc ví đặt trên bàn ở hành lang. Để cho chắc chắn, thứ Hai họ tới ngân hàng để đóng tài khoản và mở một tài khoản mới ở chỗ khác. Nhờ đó mà mối nguy hiểm đã qua đi.

Nhưng tại một thời điểm trong vài tháng tiếp theo, Will dần miễn cưỡng nhận ra rằng kẻ thù của mẹ mình không phải ở thế giới bên ngoài kia, mà là trong tâm trí bà. Điều đó không khiến chúng trở nên ít thực tế, ít đáng sợ hay ít nguy hiểm hơn; nó chỉ có nghĩa là cậu càng cần phải bảo vệ mẹ mình cẩn thận hơn. Và kể từ khoảnh khắc trong siêu thị khi cậu nhận ra mình phải giả bộ để không làm mẹ lo lắng, một phần tâm trí Will vẫn luôn cảnh giác với mối lo âu của bà. Cậu bé yêu mẹ đến mức sẵn sàng chết để bảo vệ bà.

Còn về bố của Will, ông đã biến mất rất lâu trước khi Will kịp nhớ chút gì về ông. Will cực kì tò mò về bố của mình, cậu thường quấy nhiễu mẹ bằng những câu hỏi mà đa phần bà không thể trả lời được.

“Bố có giàu không ạ?”

“Bố đi đâu mất rồi?”

“Tại sao bố lại đi?”

“Bố mất rồi ạ?”

“Bố có về không?”

“Bố là người như thế nào?”

Câu hỏi cuối cùng là câu duy nhất bà có thể giúp được cậu. John Parry là một người đàn ông điển trai, một sĩ quan gan dạ và thông minh thuộc Hải quân Hoàng gia. Ông đã rời khỏi quân đội để trở thành nhà thám hiểm và dẫn các đoàn thám hiểm đến những vùng hẻo lánh của thế giới. Will run lên vì thích thú khi được nghe kể như vậy. Còn gì tuyệt vời hơn khi có một người bố là nhà thám hiểm cơ chứ. Từ đó trở đi, trong mọi cuộc chơi của mình, cậu đều có một người đồng hành vô hình: cậu cùng với bố phát quang rừng rậm, lấy tay che nắng để phóng tầm mắt qua biển cả giông bão từ trên boong chiếc thuyền hai buồm của họ, giơ cao ngọn đuốc để giải mã những dòng chữ khắc bí ẩn trong hang động bị dơi xâm chiếm… Họ là bạn tốt nhất của nhau, họ cứu sống nhau vô số lần, họ cười nói với nhau bên đống lửa cho tới tận đêm khuya.

Nhưng càng lớn Will càng lấy làm lạ. Tại sao lại chẳng có lấy một bức ảnh nào của bố cậu ở đâu đó thuộc phần này hay phần kia của thế giới, bức ảnh về một người đàn ông râu lấm tấm sương giá trên chiếc xe kéo vùng Cực Bắc hay đang khảo sát những đống hoang tàn bị cây leo phủ kín trong rừng rậm? Chẳng lẽ không còn gì sót lại từ các chiến tích hay vật quý hiếm mà ông hẳn đã mang về nhà? Không có cuốn sách nào viết về ông sao?

Mẹ của cậu không biết. Nhưng có một điều bà nói vẫn ghim chặt trong tâm trí cậu.

Bà nói: “Rồi một ngày, con sẽ theo chân bố mình. Con cũng sẽ trở thành một người đàn ông vĩ đại. Con sẽ tiếp bước ông ấy…”

Mặc dù không hiểu mẹ muốn nói gì, Will cũng cảm nhận được ý nghĩa của nó, cậu thấy phấn chấn hẳn lên, lòng tự hào và ý chí tăng cao. Tất cả những cuộc chơi của cậu sắp thành sự thật. Bố cậu vẫn còn sống, chỉ đang lưu lạc đâu đó trong vùng hoang vu, cậu sẽ cứu ông rồi tiếp bước ông… Khi có một mục tiêu vĩ đại như vậy, sống một cuộc đời gian khổ cũng đáng lắm.

Vậy là cậu giữ kín nỗi phiền muộn thầm lặng của mẹ mình. Cũng có lúc bà bình tĩnh và minh mẫn hơn bình thường, khi đó cậu bé lại cẩn thận học từ bà cách đi mua sắm, nấu nướng và dọn dẹp nhà cửa, để đến khi bà lẫn lộn và hoảng sợ thì cậu vẫn có thể tự làm được. Cậu cũng học cách giấu đi bản thân, cách không bị để mắt đến ở trường, cách không thu hút sự chú ý từ hàng xóm, kể cả khi mẹ cậu đang trong tình trạng sợ sệt và điên loạn tồi tệ đến mức không nói nổi. Điều bản thân Will sợ hãi hơn tất thảy là nếu chính quyền phát hiện ra tình trạng của mẹ cậu, họ sẽ đưa bà đi rồi gửi cậu vào một gia đình toàn những kẻ xa lạ. Bất cứ khó khăn nào cũng dễ chịu đựng hơn điều đó. Vì sẽ có những lúc bóng tối xua tan khỏi tâm trí bà, và bà sẽ vui vẻ trở lại, bà sẽ cười nhạo những nỗi sợ của mình và cầu Chúa phù hộ cho cậu vì đã chăm sóc bà tận tình; bà sẽ tràn ngập tình thương và sự ngọt ngào khiến cậu không thể tưởng tượng nổi một người bạn tuyệt vời hơn thế, cậu sẽ không mong muốn gì hơn là được sống một mình với bà mãi mãi.

Nhưng rồi những gã đàn ông đó đến.

Chúng không phải cảnh sát, không phải nhân viên công tác xã hội, cũng chẳng phải tội phạm - ít nhất thì theo như những gì Will có thể đánh giá. Chúng không chịu nói mình muốn gì bất chấp những nỗ lực của cậu để đuổi chúng đi, chúng chỉ nói chuyện với mẹ cậu. Nhưng lúc đó bà lại đang không ổn định.

Cậu đứng ngoài cửa lắng nghe và thấy chúng hỏi về bố. Hơi thở của cậu trở nên gấp gáp hơn.

Những tên đó muốn biết John Parry đã đi đâu, liệu ông có gửi thứ gì về cho bà hay không, lần cuối cùng bà nghe tin từ ông là bao giờ, và liệu ông có liên lạc với bất kì đại sứ quán nước ngoài nào không. Will nghe thấy mẹ mình càng lúc càng lo âu hơn, cuối cùng cậu chạy vào phòng đuổi chúng đi.

Nhìn cậu dữ tợn đến mức không gã đàn ông nào dám cười, dù cho cậu còn bé. Chúng có thể dễ dàng hạ gục cậu hay nhấc bổng cậu lên khỏi mặt đất chỉ bằng một tay, nhưng cậu bé không hề tỏ ra sợ sệt, trái lại cơn thịnh nộ của cậu lại đang hừng hực đến kinh hãi.

Vậy là chúng bỏ đi. Lẽ đương nhiên, sự kiện này đã củng cố thêm niềm tin của Will, rằng bố cậu đang gặp rắc rối ở đâu đó, và chỉ mình cậu mới có thể giúp được ông. Những trò chơi của cậu không còn trẻ con nữa, mà cậu cũng không còn công khai chơi chúng. Nó đang thành sự thật, cậu cần phải trở nên xứng đáng với nó.

Không bao lâu sau, hai gã đàn ông trở lại, khăng khăng nói rằng mẹ của Will có điều gì đó để kể với chúng. Chúng tới khi Will đang đi học, một tên giữ bà nói chuyện dưới tầng trong khi tên còn lại lục soát các phòng ngủ. Bà không hề nhận ra việc chúng đang làm. Nhưng Will đã về sớm và phát hiện ra bọn chúng ở đó. Một lần nữa cậu lại nổi điên với chúng, và một lần nữa chúng lại bỏ đi.

Dường như chúng biết rằng cậu sẽ không đi báo cảnh sát vì sợ chính quyền sẽ cướp mất mẹ, nên chúng ngày càng đeo bám dai dẳng. Cuối cùng chúng đột nhập vào nhà trong lúc Will đi đón mẹ về từ công viên: lúc này tình trạng bà đang xấu đi, bà tin rằng mình phải chạm vào từng thanh gỗ trên từng chiếc ghế băng bên cạnh hồ nước. Will giúp bà để hoàn thành công việc đó nhanh chóng hơn. Khi về tới nhà, họ thấy đuôi xe của hai gã đàn ông dần biến mất khỏi khu đất. Cậu bé vào trong và thấy rằng chúng đã lục tung cả căn nhà cũng như kiểm tra hầu hết các ngăn kéo cùng tủ đồ.

Cậu biết chúng nhắm tới cái gì. Chiếc kẹp tài liệu da màu xanh lá là tài sản quý giá nhất của mẹ cậu; cậu không bao giờ dám mơ tới việc kiểm tra xem bên trong có gì, mà cậu cũng còn chẳng biết bà cất nó ở đâu. Tuy vậy, cậu biết nó chứa những lá thư, cậu cũng biết rằng thỉnh thoảng mẹ có đọc chúng và khóc, đó là lúc bà nói về bố cậu. Vì vậy Will đoán rằng đó là thứ những gã đàn ông đang nhắm tới, và biết rằng cậu phải làm gì đó với nó.

Cậu quyết định đầu tiên phải tìm một nơi an toàn cho mẹ ở. Cậu cứ nghĩ, nghĩ mãi, nhưng cậu chẳng có bạn bè nào để nhờ cậy, những người hàng xóm thì đã nghi ngờ, người duy nhất cậu nghĩ mình có thể tin tưởng là bà Cooper. Khi mẹ đã được an toàn ở đó; cậu sẽ đi tìm cái kẹp da màu xanh để xem nó chứa gì. Sau đó cậu sẽ tới Oxford, nơi cậu có thể tìm thấy câu trả lời cho một vài nghi vấn của mình. Nhưng hai gã đàn ông lại tới quá sớm.

Và giờ thì cậu đã giết một trong số chúng.

Vậy là cảnh sát cũng sẽ truy lùng cậu.

Dù sao thì cậu cũng khá giỏi trong việc không gây chú ý. Cậu sẽ phải không gây chú ý tốt hơn đã từng làm, duy trì lâu nhất có thể cho tới khi tìm thấy bố mình hoặc chúng tìm thấy cậu. Giả sử chúng mà tìm thấy cậu trước, dù có phải giết thêm bao nhiêu tên nữa cậu cũng không màng.

Cuối ngày hôm đó, chính xác là gần nửa đêm, Will đi bốn mươi dặm rời xa khỏi thành phố Oxford. Cậu đang kiệt quệ tới tận xương tuỷ. Cậu đã đi nhờ xe, lên hai chuyến xe buýt, rồi cuốc bộ và đến được Oxford lúc sáu giờ chiều, quá muộn để thực hiện việc cần làm. Sau đó cậu ăn tại cửa hàng Burger King rồi vào trốn trong một rạp chiếu phim (mặc dù cậu đã xem phim nhưng chẳng nhớ nổi nội dung của nó), và giờ cậu đang bước đi dọc theo một con đường trải dài vô tận qua các vùng ngoại ô để tiến về phía bắc.

Cho đến giờ thì chưa ai để ý tới cậu cả. Nhưng cậu cũng nhận thức được rằng mình nên sớm kiếm một nơi để ngủ lại, vì càng tìm được muộn thì cậu càng dễ bị chú ý. Vấn đề là chẳng có chỗ nào để trốn trong vườn của những ngôi nhà ấm cúng dọc theo con đường này, mà vùng nông thôn rộng lớn thì vẫn chưa thấy đâu.

Cậu tới một bùng binh lớn nơi con đường về phía bắc giao với đường vành đai Oxford theo hướng đông-tây. Vào lúc này của buổi đêm có rất ít xe cộ qua lại, con đường nơi cậu đứng lặng như tờ, với những ngôi nhà tiện nghi nằm sau một bãi cỏ rộng lớn ở cả hai bên. Được trồng cùng với cỏ ở rìa đường là hai hàng cây duyên mộc, những cái cây kì cục có ngọn lá khít đối xứng một cách hoàn hảo, giống với hình vẽ của trẻ con hơn là cây thật, ánh đèn đường lại khiến khung cảnh càng thêm phần giả tạo như nền dựng trên sân khấu vậy. Will kiệt quệ đến đờ đẫn, thay vì đi về phía bắc hoặc gối đầu xuống nền cỏ dưới gốc một trong những thân cây kia và chìm vào giấc ngủ thì cậu lại đứng đó cố gắng tỉnh táo lại. Đúng lúc đấy cậu thấy một con mèo.

Đó là một con mèo mướp giống Moxie. Nó bước ra từ một khu vườn bên phía Oxford của con đường, nơi Will đang đứng. Will đặt cái túi mua sắm xuống rồi chìa tay ra, con mèo liền tới dụi đầu vào các khớp đốt ngón tay của cậu, giống hệt như Moxie. Đương nhiên là mèo nào cũng cư xử như thế cả, nhưng dù vậy Will vẫn cảm thấy một nỗi khao khát muốn trở về nhà, đến nỗi nước mắt cay xè như thiêu đốt khóe mắt cậu.

Cuối cùng con mèo bỏ đi. Đêm đã khuya, nó còn cả vùng lãnh thổ cần đi tuần và chuột cần bắt. Con mèo băng qua đường về phía những bụi rậm ngay phía sau hàng cây duyên mộc rồi đứng lại ở đó.

Will, vẫn đang quan sát, thấy con mèo xử sự một cách lạ thường.

Nó giơ một bàn chân lên để vỗ vào thứ gì đó trong không khí phía trước mặt, một thứ vô hình đối với Will. Rồi nó nhảy bật trở lại, lưng vồng lên, lông dựng đứng còn đuôi xòe ra cứng đờ. Will hiểu hành vi của mèo. Cậu quan sát một cách cảnh giác hơn khi con mèo lại tiếp cận vị trí đó - chỉ là một mảng cỏ trống trơn nằm giữa hàng cây duyên mộc và đám cây bụi thuộc hàng rào quanh vườn, và vỗ lên không trung một lần nữa.

Nó lại nhảy bật ngược lại, nhưng lần này gần hơn và bớt hoảng hốt. Sau vài giây hít ngửi, sờ mó, rung râu, sự tò mò đã chiến thắng tính thận trọng.

Con mèo bước tới trước và biến mất dạng.

Will chớp mắt. Rồi cậu đứng im, sát với thân cây gần nhất, khi một chiếc xe tải lượn qua đường vòng cung và quét ánh đèn pha lên người cậu. Sau khi nó đã đi khỏi, cậu bé liền băng qua đường, mắt không rời khỏi vị trí mà con mèo đã kiểm tra. Việc đó thật không dễ dàng vì chẳng có gì để bám mắt vào, nhưng khi đến đó và nhìn kĩ hơn, cậu đã thấy nó.

Ít nhất thì cậu cũng đã thấy nó ở một vài góc độ. Trông như thể có ai đó đã cắt đi một mảng không khí khá vuông vức, có chiều rộng nhỏ hơn một mét, nằm cách rìa đường khoảng hai mét. Nếu ở cùng độ cao, nó sẽ hơi nổi lên và gần như vô hình, còn nhìn từ phía sau thì hoàn toàn không thể thấy được. Chỉ có thể nhìn được nó từ phía gần con đường hơn, thậm chí ở đó cũng chẳng thấy được rõ, vì những thứ người ta có thể nhìn thấy xuyên qua nó cũng giống hệt với thứ nằm trước nó ở phía bên này: một mảng cỏ được thắp sáng bởi ánh đèn đường.

Nhưng Will biết chắc chắn rằng mảng cỏ ở phía bên kia thuộc một thế giới khác.

Cậu không thể giải thích được vì sao. Cậu hiểu ra điều đó ngay tức khắc, và niềm tin đó cũng mạnh mẽ như việc cậu biết lửa thì thiêu đốt còn lòng tốt thì là điều tuyệt vời vậy. Cậu đang nhìn vào một thứ hoàn toàn xa lạ.

Chỉ vì đúng lí do đó, nó đã lôi cuốn cậu, buộc cậu phải cúi xuống để nhìn xa hơn. Thứ vừa nhìn thấy khiến đầu óc cậu choáng váng còn tim thì càng đập dồn dập hơn. Nhưng cậu không chần chừ: cậu đẩy cái túi mua sắm vào rồi bản thân cũng luồn qua lỗ hổng bằng vật liệu của thế giới này để vào một thế giới khác.

Cậu bé thấy mình đứng dưới một hàng cây. Nhưng đó không phải là cây duyên mộc mà là những cây cọ cao ngất, và giống như ở Oxford, chúng mọc thành một hàng dọc theo bãi cỏ. Nhưng nơi đây nằm giữa một đại lộ rộng lớn, một phía của đại lộ là dãy các quán cà phê và cửa hàng nhỏ, tất cả đều được thắp sáng rực rỡ, đều đang mở cửa, đều tuyệt đối im lặng và trống trơn dưới bầu trời chi chít sao. Màn đêm nóng bức ngập tràn mùi hoa và mùi nồng mặn của biển.

Will cẩn thận nhìn xung quanh. Sau lưng cậu, mặt trăng tròn vành vạnh đang tỏa sáng lên cảnh vật xa xôi của những ngọn đồi xanh vĩ đại, trên các sườn dốc ở chân đồi là những ngôi nhà với vườn tược xum xuê và khu đất công viên bao la với những lùm cây và ánh sáng trắng yếu ớt từ một ngôi chùa cổ.

Ngay bên cạnh cậu là khoảng trống trong không trung, cũng khó nhìn chẳng khác gì ở thế giới bên kia, nhưng chắc chắn nó ở đó. Cậu cúi xuống nhìn qua và thấy con đường ở Oxford, thế giới của chính cậu. Cậu rùng mình quay đi: dù cho cái thế giới mới này có là gì đi nữa, nó cũng phải tốt đẹp hơn nơi cậu vừa rời khỏi. Ngất ngây trong cảm giác mơ màng buổi sớm, một cảm giác nửa tỉnh nửa mê, cậu đứng dậy nhìn quanh quất tìm con mèo, chính nó đã dẫn cậu tới đây.

Chẳng thấy nó đâu cả. Hẳn là con mèo đã đi khám phá những con phố nhỏ và vườn tược đằng sau những quán cà phê thắp đèn rực rỡ đầy mời chào. Will nhấc cái túi mua sắm tả tơi lên rồi từ tốn băng qua đường về phía đó, cậu bước đi thật cẩn thận, chỉ sợ tất cả sẽ tan biến.

Không khí của nơi này có chất gì đó rất Địa Trung Hải hoặc có lẽ là Caribbean. Will chưa từng rời khỏi nước Anh nên cậu không thể so sánh nó với bất cứ nơi nào mình biết, nhưng đây là nơi mà người ta sẽ ra đường vào đêm khuya để ăn uống, nhảy múa và thưởng thức âm nhạc. Chỉ khác là chẳng có ai ở đây cả, duy nhất sự tĩnh lặng bao trùm lên tất thảy.

Tại góc đường đầu tiên cậu tới là một quán cà phê với những chiếc bàn nhỏ màu xanh lá đặt trên vỉa hè, quầy bar phủ kẽm cùng một chiếc máy pha espresso[1]. Trên vài mặt bàn là những cái li đã vơi mất phân nửa; trong một chiếc gạt tàn có điếu thuốc đã cháy đến tận đầu lọc; một đĩa risotto[2] nằm cạnh giỏ bánh mì cũ cứng như đá.

Cậu bé lấy chai nước chanh từ trong tủ lạnh đằng sau quầy bar rồi ngẫm nghĩ đôi chút trước khi thả một đồng bảng Anh vào ngăn kéo đựng tiền. Cậu vừa đẩy ngăn kéo vào thì lại mở ra, nhận ra rằng tiền ở trong đó có thể cho biết nơi này được gọi là gì. Thế nhưng cậu không thu được thông tin gì ngoài việc đồng tiền ở đây được gọi là corona.

Cậu bé trả lại tiền rồi mở nắp chai bằng dụng cụ mở gắn trên quầy, sau đó cậu rời khỏi quán cà phê và lang thang xuống con đường dẫn ra xa khỏi đại lộ. Những cửa hàng tạp hóa và tiệm bánh nhỏ nằm xen kẽ giữa các tiệm trang sức, cửa hàng hoa và những cánh cửa treo mành hạt dẫn vào nhà riêng, nơi các ban công bằng sắt rèn trồng đầy hoa rủ xuống mặt đường nhỏ lát đá, nơi sự tĩnh lặng bị bao vây càng thêm phần tuyệt đối.

Những con phố dẫn xuống dưới thấp, và chẳng bao xa chúng đã mở ra một con đường lớn có thêm nhiều cây cọ vươn cao trong không trung, mặt dưới tán lá được đèn đường phả sáng rực rỡ.

Phía bên kia con đường là đại dương.

Will thấy mình đang hướng về một bến cảng bao quanh bởi đê chắn sóng bằng đá từ bên trái và một mũi đất từ bên phải. Trên mũi đất là một tòa nhà lớn với những cột đá, bậc thang rộng, các ban công trang hoàng lộng lẫy ngập tràn ánh sáng giữa những khóm hoa và bụi cây. Trong cảng neo vài chiếc thuyền mái chèo nằm im lìm, còn phía bên kia đê chắn sóng ánh sao đang phản chiếu lấp lánh trên mặt biển bình yên.

Vào lúc này, bao nhiêu mệt mỏi của Will đã tiêu tan hết. Sự kinh ngạc khiến cậu hoàn toàn tỉnh táo. Trên đường đi qua những con phố nhỏ, cứ thỉnh thoảng cậu lại vươn tay ra chạm vào một bức tường, một ô cửa, hay những bông hoa bên cửa sổ, thấy chúng rất rắn chắc và đầy thuyết phục. Giờ thì cậu muốn được chạm vào toàn bộ khung cảnh phía trước mặt mình, vì nó quá rộng để có thể tiếp nhận chỉ bằng đôi mắt. Cậu bé đứng im, hít thở sâu, gần như đang sợ hãi.

Cậu nhận ra mình vẫn đang cầm chai nước lấy ở quán cà phê. Cậu uống nước trong đó, vị của nó vẫn vậy, vẫn là thứ nước chanh lạnh toát; cảm giác đó thật tuyệt vời vì không khí buổi tối đang rất nóng bức.

Cậu thơ thẩn dọc theo phía bên phải, qua các khách sạn với những mái hiên che khu tiền sảnh sáng tưng bừng và cây hoa giấy đang nở rộ bên cạnh, cho tới khi cậu tới được những khu vườn trên mũi đất nhỏ. Ngôi nhà ẩn trong đám cây với mặt tiền lộng lẫy được chiếu đèn pha có thể là một sòng bạc, hay thậm chí là nhà hát opera. Đây đó vài lối mòn dẫn đi giữa những cây trúc đào treo đèn, nhưng chẳng có âm thanh nào của sự sống có thể nghe thấy: không có tiếng hót của chim ăn đêm, không có côn trùng, chẳng có gì ngoài tiếng bước chân của chính Will.

Âm thanh duy nhất cậu có thể nghe được tới từ những con sóng mỏng manh đều đặn và khẽ khàng xô vào bờ biển phía sau hàng cọ ở rìa khu vườn. Will tiến tới đó. Thủy triều đã dâng lên nửa đường, hoặc đang rút đi dở chừng, có dãy thuyền đạp được kéo lên lớp cát trắng mịn phía trên vạch nước triều cực điểm. Cứ vài giây, một con sóng nhỏ xíu lại cuộn lên mép biển trước khi gọn gàng trượt về dưới một con sóng khác. Trên mặt nước bình lặng cách bờ tầm năm mươi mét là một thềm để lặn.

Will ngồi lên gờ một chiếc thuyền đạp rồi đá giày đi, đó là một đôi giày thể thao rẻ tiền tả tơi đang khiến đôi chân nóng nực của cậu càng thêm bức bí. Cậu thả đôi tất xuống cạnh chúng rồi sục sâu các ngón chân vào cát. Vài giây sau cậu đã cởi hết quần áo và bước vào làn nước đại dương.

Nước ở đây là một sự dung hòa tuyệt vời giữa mát mẻ và ấm áp. Cậu lội bì bõm ra tới thềm lặn, nhảy lên ngồi trên lớp ván đã bị thời tiết làm cho mềm oặt và nhìn về phía thành phố.

Phía bên phải cậu là bến cảng được bao bọc bởi đê chắn sóng. Xa hơn khoảng một dặm là ngọn hải đăng sơn sọc đỏ trắng. Đằng sau ngọn hải đăng là các vách núi nhô lên mờ ảo, rồi tiếp sau đó là những ngọn đồi vĩ đại trùng điệp mà cậu đã thấy tại điểm đến ban đầu.

Gần hơn nữa là những thân cây sáng rực trong khu vườn của sòng bạc, các con phố của đô thị, bờ sông với các khách sạn, quán cà phê và cửa hàng thắp đèn ấm áp, tất cả đều tĩnh lặng, đều trống không.

Và tất cả đều an toàn. Ở đây không ai có thể đuổi theo cậu; gã đàn ông đã lục soát nhà cậu sẽ không bao giờ biết được; cảnh sát sẽ không bao giờ tìm thấy cậu. Cậu có nguyên cả một thế giới để ẩn trốn.

Lần đầu tiên kể từ lúc chạy ra khỏi cửa nhà vào sáng hôm đó, Will dần thấy yên tâm.

Cậu lại bắt đầu thấy khát và đói, xét cho cùng thì bữa cuối cùng cậu ăn là ở thế giới bên kia. Cậu thả người xuống nước rồi chậm rãi bơi về phía bãi biển, tại đó cậu mặc quần lót lên rồi mang theo số quần áo còn lại cùng cái túi mua sắm. Cậu thả chai nước rỗng vào thùng rác đầu tiên tìm thấy rồi đi chân trần dọc theo con đường lát đá về phía bến cảng.

Khi người đã khô đi chút ít, cậu mặc quần dài lên rồi tìm một nơi nào đó có khả năng có đồ ăn. Các khách sạn thì quá lớn. Cậu kiểm tra khách sạn đầu tiên nhưng nó rộng đến mức khiến cậu thấy không thoải mái, vậy là cậu tiếp tục đi dọc xuống sông cho tới khi thấy một quán cà phê nhỏ trông có vẻ là nơi thích hợp. Cậu không thể giải thích được tại sao; trông nó cũng na ná cả chục cái khác, với ban công tầng một đầy ngập những chậu hoa và bàn ghế trên vỉa hè phía bên ngoài, nhưng nó lại đang chào mời cậu.

Trong quán có một quầy bar trang trí ảnh các đấu sĩ quyền anh trên tường và một tấm áp phích có chữ kí của một nhạc công accordion đang mỉm cười rạng rỡ. Ngoài ra còn có một gian bếp và cánh cửa cạnh đó mở ra một cầu thang hẹp trải thảm họa tiết hoa sáng màu.

Cậu bé nhẹ nhàng trèo lên đỉnh cầu thang hẹp rồi mở cánh cửa đầu tiên gặp được. Đó là căn phòng mặt tiền. Không khí đang rất nóng nực và bức bí nên Will đã mở cửa kính dẫn ra ban công để cho khí thoáng buổi đêm tràn vào. Căn phòng này đã nhỏ lại còn được trang bị đồ nội thất quá kềnh càng và tồi tàn, nhưng bản thân nó thì sạch sẽ và thoải mái. Những con người hiếu khách đã sống ở đây. Tại đó có một giá sách nhỏ, cuốn tạp chí đặt trên bàn, vài tấm ảnh lồng khung.

Will rời khỏi đó để kiểm tra những phòng khác: một phòng tắm nhỏ, một phòng ngủ trang bị giường đôi.

Có thứ gì đó khiến da cậu nhói lên trước khi mở cánh cửa cuối cùng. Tim cậu đập nhanh hơn. Cậu không dám chắc mình có nghe thấy tiếng động bên trong hay không, nhưng có điều gì đó mách bảo rằng căn phòng không hề trống trơn. Cậu thấy thật kì quặc vì ngày hôm đó khởi đầu với một kẻ bên ngoài căn phòng tối còn cậu thì chờ đợi bên trong; và giờ thì vị trí đã đảo ngược…

Trong lúc cậu đang đứng ngẫm nghĩ thì cánh cửa bật mở, có thứ gì đó lao bổ vào cậu như một con thú hoang.

Nhưng kí ức đã cảnh báo cho cậu, và cậu cũng không đứng quá gần để bị đánh ngã. Cậu bé kháng cự thật lực: đầu gối, đầu, nắm đấm, sức mạnh của đôi tay chống lại nó, cậu bé, cô gái…

Một cô gái tầm tuổi cậu, vẻ dữ tợn, đang gầm gừ, quần áo cô rách rưới bẩn thỉu và đôi chân trần gầy nhẳng.

Cùng lúc đó cô bé nhận ra cậu là thứ gì, cô liền nhảy lùi lại khỏi bộ ngực trần của cậu rồi thu người vào góc bậc thềm tối mò như một con mèo đang rình mồi. Will kinh ngạc khi thấy một con mèo bên cạnh cô: một con mèo rừng cỡ bự, cao đến đầu gối cậu, lông đang xù, răng nhe ra còn đuôi thì dựng đứng lên.

Cô bé đặt tay lên lưng con mèo rồi liếm đôi môi khô nẻ của mình, quan sát nhất cử nhất động của cậu.

Will từ tốn đứng dậy.

“Cậu là ai?”

“Lyra Silvertongue,” cô bé đáp.

“Cậu sống ở đây à?”

“Không,” cô gắt.

“Vậy nơi này là gì vậy? Cái thành phố này này?”

“Tôi không biết.”

“Cậu từ đâu tới?”

“Từ thế giới của tôi. Nó kết nối với thế giới này. Linh thú của cậu đâu rồi?”

Cậu bé mở tròn mắt. Rồi cậu thấy một điều phi thường xảy ra với con mèo: nó nhảy lên tay cô và khi tới đó, hình dạng của nó đã biến đổi. Giờ nó là một con chồn ermine nâu đỏ với lông cổ và bụng màu kem, nó đang trừng trừng nhìn cậu, dữ dằn không kém gì cô gái. Nhưng rồi lại một thay đổi nữa diễn ra, vì cậu nhận thấy rằng cả hai bọn họ, cả cô gái lẫn con chồn, đều đang thực sự kinh sợ cậu, cứ như thể cậu là một con ma vậy.

“Tớ không có linh thú,” cậu bé đáp. “Tớ không hiểu ý cậu.” Rồi: “À! Đấy là linh thú của cậu à?”

Cô bé chậm rãi đứng dậy. Con chồn quấn mình quanh cổ cô, đôi mắt sẫm màu của nó chưa hề rời khỏi gương mặt Will.

“Nhưng cậu vẫn còn sống,” cô nói, có vẻ hơi không tin. “Cậu không… Cậu không bị…”

“Tên tớ là Will Parry,” cậu nói. “Tớ không hiểu cậu định nói gì về linh thú. Ở thế giới của tớ linh thú có nghĩa là… Nó có nghĩa là ma quỷ, là thứ xấu xa.”

“Ở thế giới của cậu? Ý cậu là đây không phải thế giới của cậu?”

“Không. Tớ đã tìm thấy… một lối vào. Chắc cũng giống như thế giới của cậu. Chắc hẳn là nó thông với nơi này.”

Cô bé tỏ ra thư giãn hơn, nhưng cô vẫn nhìn cậu đăm đăm. Trong khi đó, cậu bé vẫn bình thản và yên lặng như thể cô là một con mèo lạ mà cậu đang cố gắng kết thân.

“Cậu có thấy ai khác trong thành phố này không?” Cậu tiếp tục.

“Không.”

“Cậu ở đây bao lâu rồi?”

“Chịu. Vài ngày. Tôi không nhớ.”

“Vậy sao cậu lại đến đây?”

“Tôi đang đi tìm Bụi,” cô đáp.

“Tìm bụi? Bụi vàng à? Bụi kiểu gì cơ?”

Cô nheo mắt nhưng không nói gì. Cậu bé quay đi để xuống tầng dưới.

“Tớ đói quá,” cậu nói. “Có chút đồ ăn nào trong bếp không?”

“Tôi không biết…” Cô nói rồi đi theo trong lúc vẫn giữ khoảng cách với cậu.

Trong bếp, Will tìm thấy nguyên liệu cho món thịt gà hầm với hành và tiêu, nhưng chúng chưa được nấu và sức nóng đã làm chúng bốc mùi khó ngửi. Cậu gạt tất cả vào thùng rác.

“Cậu vẫn chưa ăn gì à?” Cậu nói trong lúc mở tủ lạnh.

Lyra tới nhòm vào.

“Tôi không biết là có cái này ở đây,” cô nói. “Ồ! Mát quá…”

Con linh thú của cô lại biến hình, nó hóa thành một con bướm lớn với màu sắc sặc sỡ, bay vào tủ lạnh một chút rồi lập tức bay ra đậu trên vai cô. Con bướm chậm rãi nâng rồi hạ cánh. Will cảm thấy rằng mình không nên cứ nhìn đăm đăm như vậy nhưng sự lạ kì này không khỏi khiến cậu thích thú.

“Cậu chưa thấy tủ lạnh bao giờ à?” Cậu bé hỏi.

Cậu tìm thấy một lon Coca-Cola và đưa nó cho cô bé trước khi lấy một khay trứng ra. Cô khoan khoái áp cái lon vào giữa hai lòng bàn tay.

“Uống nó đi,” cậu nói.

Cô bé cau mày nhìn nó. Cô không biết phải mở như thế nào. Cậu bật nắp cho cô, khiến nước bên trong sùi bọt ra. Cô ngờ vực liếm thử rồi tròn mắt ngạc nhiên.

“Cái này uống được không đó?” Cô hỏi với giọng nửa hi vọng, nửa e dè.

“Được. Rõ ràng là họ cũng có Coca ở thế giới này. Xem này, tớ sẽ uống để chứng tỏ rằng nó không phải chất độc.”

Cậu bé mở một lon khác ra. Sau khi đã thấy cậu uống, cô bé cũng bắt chước theo. Rõ ràng là cô đang rất khát. Cô uống vội đến mức bọt khí xộc cả lên mũi, khiến cô khụt khịt và ợ lên rất to, cô quắc mắc lên khi thấy cậu bé đang nhìn mình.

“Tớ sẽ đi làm trứng tráng,” cậu nói. “Cậu có muốn ăn không?”

“Tôi không biết trứng tráng là gì cả.”

“Chà, cứ nhìn đi rồi cậu sẽ biết. Hoặc là, có một hộp đậu hầm đó, nếu cậu thích.”

“Tôi không biết đậu hầm là gì.”

Cậu bé cho cô xem cái hộp. Cô tìm cái nắp có thể bật mở được như ở lon Coca.

“Không, cậu sẽ phải dùng dụng cụ mở hộp,” cậu nói. “Ở thế giới cậu không có đồ mở hộp à?”

“Ở thế giới của tôi, những người phục vụ lo việc nấu nướng,” cô đáp vẻ khinh miệt.

“Kiểm tra cái ngăn kéo đằng kia đi.”

Cô bé lục lọi đống dao dĩa trong bếp trong lúc cậu đập sáu quả trứng vào bát rồi dùng dĩa đánh lên.

“Cái đó đó,” cậu quan sát thấy và nói. “Cái có cán đỏ ấy. Mang nó ra đây.”

Cậu khui cái hộp thiếc rồi cho cô thấy cách mở.

“Giờ thì lấy cái chảo nhỏ ra khỏi móc treo rồi đổ đậu vào đi,” cậu nói.

Lyra hít ngửi hộp đậu, và một lần nữa biểu hiện thích thú xen lẫn nghi ngờ lại hiện ra trong mắt cô. Cô đổ đậu vào chảo rồi liếm ngón tay, quan sát Will rắc muối và tiêu lên món trứng rồi cắt một khoanh bơ từ một gói trong tủ lạnh vào cái chảo gang. Cậu vừa tới quầy bar để tìm diêm thì khi trở lại, cô đã chọc ngón tay bẩn thỉu của mình vào bát trứng đánh và liếm lấy liếm để. Con linh thú của cô, đã trở lại hình dạng mèo, cũng đang vục chân vào, nhưng nó liền lùi lại khi Will đến gần.

“Nó chưa được nấu chín đâu,” Will nói rồi cầm cái bát đi. “Lần cuối cậu ăn là bao giờ vậy?”

“Tại nhà cha tớ ở Svalbard,” cô đáp. “Nhiều ngày trước rồi. Tớ không biết nữa. Tớ đã ăn bánh mì với vài thứ khác tìm được ở đây.”

Cậu châm lửa, đun chảy bơ, đổ trứng vào và để nó tràn khắp mặt chảo. Cô bé dõi theo mọi việc đầy thèm khát, quan sát cậu vun trứng thành một chỏm mềm ở giữa chảo trong lúc nó được nấu chín rồi nghiêng chảo để trứng sống chảy vào những khoảng còn trống. Cô cũng quan sát cả cậu nữa, cô nhìn gương mặt cậu, đôi tay đang nấu ăn của cậu, đôi vai trần và bàn chân cậu.

Khi món trứng tráng đã được hoàn thành, cậu gập nó lại rồi dùng bàn xẻng cắt làm đôi.

“Kiếm vài cái đĩa đi,” Will nói. Lyra liền ngoan ngoãn làm theo.

Thấy cô bé có vẻ sẵn sàng nghe lệnh nếu đó là điều hợp lí, cậu liền bảo cô đi dọn cái bàn phía trước quán cà phê. Cậu bưng thức ăn ra cùng với dao dĩa trong ngăn kéo, rồi cả hai ngồi xuống bên nhau, có chút ngượng nghịu.

Cô bé xử lí phần ăn của mình trong chưa đầy một phút rồi bắt đầu bồn chồn, hết đu ghế tới lui thì lại bứt những sợi nhựa tổng hợp từ chiếc ghế đan trong lúc cậu ăn nốt phần trứng tráng của mình. Linh thú của Lyra lại biến hình, lần này thành chim sẻ vàng, và mổ vào những mẩu thức ăn vô hình trên mặt bàn.

Will từ tốn ăn. Cậu đã cho cô hầu hết chỗ đậu, nhưng kể cả vậy cậu cũng tốn nhiều thời gian hơn. Bến cảng trước mặt chúng, ánh đèn dọc theo đại lộ trống trơn, tinh tú trên bầu trời đêm, tất cả đều chìm trong sự tĩnh lặng khổng lồ như thể chẳng hề có thứ gì khác tồn tại.

Suốt thời gian đó Will vẫn luôn cực kì cảnh giác với cô bé. Cô gầy gò và nhỏ nhắn nhưng lại rất dẻo dai và chiến đấu như một con mãnh hổ; nắm đấm của cậu đã gây ra một vết bầm trên má cô, nhưng cô chẳng bận tâm. Biểu cảm của cô là sự kết hợp của vẻ trẻ trung ngây ngô - khi cô lần đầu nếm thử Coca - và một sự dè chừng sâu sắc đến đáng buồn. Cô có đôi mắt xanh da trời nhạt và mái tóc hẳn sẽ có màu vàng sậm nếu được gội rửa sạch sẽ; vì cô đang rất bẩn thỉu và bốc mùi như thể nhiều ngày rồi chưa tắm.

“Laura? Lara?” Will hỏi.

“Lyra.”

“Lyra… Silvertongue?”

“Phải.”

“Thế giới của cậu ở đâu vậy? Làm sao cậu đến được đây?”

Cô bé nhún vai. “Tớ đi bộ,” cô đáp. “Sương mù giăng kín khắp nơi. Tớ không biết mình đang đi đâu cả. Ít nhất thì tớ cũng biết tớ đang rời khỏi thế giới của mình, nhưng chẳng thể thấy gì cho tới khi sương tan đi. Rồi tớ thấy mình đang ở đây.”

“Cậu đã nói gì về bụi ấy nhỉ?”

“Bụi, phải rồi. Tớ sẽ tìm hiểu về nó. Nhưng thế giới này trông có vẻ như trống không, chẳng có ai ở đây để hỏi han cả. Tớ đã ở đây… không rõ nữa, ba ngày, cũng có thể là bốn, nhưng chẳng thấy ai hết.”

“Nhưng tại sao cậu lại muốn tìm hiểu về bụi?”

“Loại Bụi đặc biệt,” cô nói ngắn gọn. “Rõ ràng là không phải bụi thường rồi.”

Con linh thú lại đổi dạng. Chỉ trong chớp mắt, nó đã biến từ chim sẻ vàng sang chuột, một con chuột đen trũi đầy uy lực với đôi mắt đỏ. Will nhìn nó với đôi mắt mở to thận trọng, và Lyra để ý thấy ánh nhìn của cậu.

“Cậu cũng có linh thú,” cô quả quyết nói. “Ở bên trong ấy.”

Cậu bé không biết phải nói gì.

“Cậu có mà,” cô nói tiếp. “Nếu không thì cậu không phải là người. Cậu sẽ… sống dở chết dở. Chúng tớ đã thấy một đứa bé bị cắt rời linh thú. Cậu không giống như thế. Kể cả cậu không biết mình sở hữu linh thú đi nữa thì cậu cũng vẫn có. Mới đầu nhìn thấy cậu bọn tớ đã rất sợ. Kiểu như cậu là một Kẻ gieo ác mộng vậy. Nhưng rồi chúng tớ nhận ra rằng cậu không hề giống như thế.”

“Chúng tớ?”

“Tớ và Pantalaimon. Chúng tớ. Linh thú của cậu không tách rời khỏi cậu. Nó là cậu. Một phần của cậu. Các cậu là một phần của người còn lại. Không có ai ở thế giới của cậu giống chúng tớ sao? Họ đều giống cậu, với linh thú bị ẩn đi à?”

Will nhìn cả hai, cô bé gầy gò có đôi mắt nhạt màu với con linh thú chuột đen trũi giờ đang ngồi trên tay cô, và cảm thấy cô đơn khủng khiếp.

“Tớ mệt rồi. Tớ đi ngủ đây,” cậu nói. “Cậu có định ở lại thành phố này không?”

“Chịu. Tớ phải tìm hiểu thêm về thứ mình đang theo đuổi. Chắc chắn phải có vài học giả ở thế giới này. Chắc chắn phải có ai đó biết về nó.”

“Có lẽ không phải ở thế giới này. Nhưng tớ tới đây từ một nơi được gọi là Oxford. Ở đó có rất nhiều học giả, nếu đó là thứ cậu cần.”

“Oxford?” Cô thốt lên. “Đó là nơi tớ đã ở!”

“Vậy là ở thế giới của cậu cũng có Oxford à? Cậu đâu có đến từ thế giới của tớ.”

“Không,” cô bé quả quyết. “Hai thế giới khác nhau. Nhưng ở thế giới của tớ cũng có Oxford. Chẳng phải hai ta đều nói tiếng Anh sao? Hẳn nhiên là còn những điểm tương đồng khác nữa. Cậu sang đây bằng cách nào? Có cầu nối hay gì đó sao?”

“Chỉ là một kiểu cửa sổ giữa không trung thôi.”

“Chỉ cho tớ đi,” cô nói.

Đó là một mệnh lệnh, không phải một yêu cầu. Cậu bé lắc đầu.

“Không phải bây giờ,” cậu nói. “Tớ muốn đi ngủ. Dù sao thì bây giờ cũng nửa đêm rồi.”

“Vậy thì chỉ cho tớ vào buổi sáng!”

“Được rồi, tớ sẽ chỉ cho cậu. Nhưng tớ có việc riêng cần làm. Cậu sẽ phải tự đi tìm các học giả đấy.”

“Đơn giản,” cô nói. “Tớ biết mọi điều về các học giả.”

Cậu bé chồng đĩa lên nhau rồi đứng dậy.

“Tớ đã nấu ăn rồi,” cậu nói, “nên cậu sẽ rửa bát.”

Cô bé tỏ vẻ ngờ vực. “Rửa bát á?” Cô giễu cợt. “Có cả triệu cái sạch sẽ ở khắp nơi! Dù sao thì tớ cũng không phải người giúp việc. Tớ không rửa đâu.”

“Thế thì tớ sẽ không chỉ cho cậu lối thông.”

“Tớ sẽ tự tìm lấy.”

“Cậu không tìm nổi đâu, nó được giấu kĩ lắm. Cậu sẽ không bao giờ tìm thấy nó. Nghe này. Tớ không biết chúng ta có thể ở nơi này bao lâu. Chúng ta phải ăn, nên ta sẽ ăn những thứ có sẵn ở đây, nhưng sau đó ta sẽ dọn dẹp và giữ cho nơi này sạch sẽ, bởi vì ta phải làm vậy. Cậu sẽ rửa chỗ bát đĩa này. Chúng ta phải đối xử đúng mực với nơi này. Giờ thì tớ đi ngủ đây. Tớ sẽ ở phòng còn lại. Gặp lại cậu vào buổi sáng nhé.”

Cậu bé vào trong nhà, cọ răng bằng một ngón tay và chút kem đánh răng lấy trong cái túi rách tả tơi của mình, nằm vật xuống chiếc giường đôi rồi lập tức chìm vào giấc ngủ.

Lyra đợi đến khi chắc chắn rằng cậu đã ngủ rồi mới mang đĩa vào bếp và xả nước, dùng vải cọ thật lực cho tới khi trông chúng có vẻ sạch. Cô làm tương tự với dao và dĩa, nhưng phương pháp đó không hiệu quả với cái chảo tráng trứng nên cô chà thử một cục xà phòng vàng lên rồi bướng bỉnh cọ cho tới khi nó có vẻ sạch như cô mong muốn. Sau đó cô dùng một tấm vải khác để lau khô mọi thứ rồi xếp gọn gàng lên giá phơi.

Do vẫn còn khát và muốn thử mở hộp thêm một lần nữa, cô bật mở một lon Coca rồi mang lên tầng trên. Cô lắng nghe ngoài cửa phòng Will, và sau khi không nghe thấy tiếng động gì, liền nhón chân vào phòng còn lại rồi lấy chiếc Chân Kế từ dưới gối ra.

Cô không cần phải ở gần với Will để hỏi về cậu, nhưng dù sao cô vẫn muốn nhìn. Vậy là cô vặn nắm đấm cửa phòng cậu khẽ khàng nhất có thể rồi bước vào.

Ánh sáng trên mặt biển phía trước đang chiếu thẳng vào căn phòng, dưới ánh phản chiếu từ trên trần, cô bé nhìn xuống cậu nhóc đang say ngủ. Cậu đang cau mày, gương mặt lấp lánh mồ hôi. Đó là một cậu bé khỏe khoắn và rắn rỏi, mặc dù đương nhiên là không được vạm vỡ như một người trưởng thành vì cậu không lớn tuổi hơn cô là bao, nhưng một ngày nào đó cậu sẽ trở nên mạnh mẽ. Giá mà linh thú của cậu hữu hình thì đã dễ dàng biết bao! Cô tự hỏi không biết hình dạng của nó có thể là gì, và liệu nó đã định hình chưa. Dù có là hình dạng gì đi nữa thì nó cũng sẽ thể hiện một bản tính hoang dã, nhã nhặn, và bất hạnh.

Cô rón rén đi ra phía cửa sổ. Trong ánh sáng từ ngọn đèn đường, cô cẩn thận chỉnh các kim của Chân Kế rồi thư giãn đầu óc để hình thành một câu hỏi. Cái kim dài bắt đầu quét quanh mặt chiếc máy trong một chuỗi dừng và quay nhanh đến mức gần như không theo dõi được.

Cô hỏi: Cậu ta là ai?Bạn hay thù?

Chiếc Chân Kế trả lời: Cậu ta là một kẻ giết người.

Vừa nhận được câu trả lời, cô lập tức thấy bớt căng thẳng. Cậu ta có thể tìm thấy đồ ăn, chỉ cho cô cách tới được Oxford, đó là những năng lực rất hữu ích, nhưng có lẽ cậu vẫn không đáng tin hoặc nhát gan. Một kẻ giết người là người đồng hành đáng trân trọng. Với cậu, cô thấy an toàn như với con gấu mặc giáp Iorek Byrnison vậy.

Cô kéo cửa chớp chắn ngang cửa sổ đang mở để ánh nắng buổi sớm không rọi lên mặt cậu, rồi rón rén bước ra ngoài.

- 1 -

Tiến >>


Nguồn: Nhà xuất bản Kim Đồng 09/2019 - ebook©vctvegroup
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 19 tháng 1 năm 2024