Kỳ Án Đầu Phật

mã bá dung

danh gia cổ vật
kỳ án đầu phật
người dịch: tố hinh

Chương 1

minh nhãn mai hoa - tổ chức bí ẩn thao túng giới cổ vật

Hôm xảy ra chuyện, đúng vào sinh nhật lần thứ ba mươi của tôi.

Thuở nhỏ thầy bói nói tôi mang mệnh “đường núi đứt ngang”. Nghĩa là gì? Chính là nửa đầu đời tôi như một con đường mòn trong núi, khúc khuỷu quanh co, gập ghềnh trắc trở, đi đến giữa chừng thì “rắc” một tiếng, con đường trước mặt bị chặt đứt, thế là toi. Nếu tiếp tục đi, số mệnh sẽ thay đổi hoàn toàn - còn sự thay đổi này rốt cuộc là họa hay phúc, lành hay dữ, thầy bói không nói, tôi cũng chẳng gạn hỏi. Tóm lại ông ta dặn tôi đến năm ba mươi tuổi nhất định phải cẩn thận, có chuyện đấy.

Tôi có nằm mơ cũng không ngờ ông ta phán chuẩn như vậy.

À phải, trước hết tự giới thiệu đã nhỉ. Tôi tên Hứa Nguyện, năm nay vừa tròn ba mươi, là một con kiến trong kẽ gạch dưới chân tường hoàng thành, làm nghề buôn đồ cổ.

Từ sau giải phóng, nghề này đã mai một hơn ba chục năm, mãi đến cải cách mở cửa, thị trường văn vật và đồ sưu tầm mới dần nhộn nhịp. Kẻ mua người bán nín thở ẩn mình suốt giai đoạn đả phá Tứ Cựu, giờ lại nhao nhao lên như cóc nhái tháng Ba, đạp chân gạt bùn đất ra, loi nhoi ngóc dậy. Nhờ ngón nghề gia truyền, tôi mở một cửa tiệm nhỏ xíu buôn vàng ngọc đá quý tại khu Lưu Ly Xưởng bé bằng bàn tay, đặt tên Tứ Hối Trai.

Thỉnh thoảng lại có người trỏ bảng hiệu hỏi tứ hối gồm những gì, tôi bèn trả lời, là hối người, hối việc, hối lỗi, hối lòng. Đây là lời bố tôi trối lại trước khi tự sát trong Cách mạng Văn hóa, bố và mẹ tôi bị đấu tố vì vấn đề lịch sử để lại, nhất thời nghĩ quẩn, nối gót Lão Xá đâm đầu xuống hồ Thái Bình.

Sinh nhật tuổi ba mươi của tôi đại khái cũng tưng bừng, kiếm chác cũng khá, tổng cộng đẩy đi được một chuỗi mặt ngọc thiềm thừ và một con ấn sừng trâu cuối đời Thanh, đều bán cho khách Quảng Đông, kiếm đủ tiền ăn uống điện nước lẫn tiền nhà, đây là chuyện đáng mừng với một cửa tiệm nhỏ giật gấu vá vai như tiệm tôi.

Thấy trời đã chạng vạng, đoán chừng chẳng còn khách khứa nào, tôi quyết định đóng cửa sớm, đến Nguyệt Thịnh Trai ăn một bữa, coi như tự khao. Sau khi thu dọn qua loa, tôi đang định khóa cửa thì chợt nghe thấy tiếng động lạ bên ngoài.

Thoạt đầu cứ ngỡ là chủ nhà đến thúc tiền, hơn ba tháng nay tôi khất lần suốt. Nhưng ngay sau đó, tôi đã nhận ra không phải.

Âm thanh này thấp trầm mà xào xạc như tằm ăn rỗi, thong thả từ xa trườn đến gần như cọp rình mồi. Kính tủ quầy rung lên, mấy pho tượng Phật ngọc, tượng tỳ hưu bày bên trong khe khẽ run rẩy như gặp khắc tinh, lần lượt trượt khỏi vị trí ban đầu, bụi bặm bốn bề bắt đầu bốc lên. Tôi vội ấn ngón cái lên mặt kính để nó ngừng rung kẻo mấy pho tượng rơi vỡ, thầm chột dạ. Đức Phật rời chỗ, ắt là điềm xui xẻo. Bên ngoài tối như bưng, chẳng biết tiếng động phát ra từ đâu.

Không bao lâu sau, âm thanh nọ tắt lịm. Tôi định thò đầu ra xem thì cửa tiệm bị đẩy mở kêu két một tiếng, hai người bước vào.

Tôi nhận ra một người là Tiểu Tưởng, công an khu vực ở đây. Kẻ đứng cạnh anh ta chừng ngoại tứ tuần, mặc cảnh phục, mặt quắt đen sì, đi nhẹ như mèo.

Vừa thấy y, mắt tôi liền nheo lại. Tuy không dám xưng là có mắt nhìn người, nhưng dù sao tôi cũng biết quan sát. Phong thái con người cũng như hồ bọc* ở đồ cổ, không thể giải thích, song chỉ nhác trông là cảm nhận được. Người này thâm trầm kín đáo, không phải loại công an khu vực miệng còn hôi sữa như Tiểu Tưởng, cũng chẳng giống mấy tay hình sự lão luyện mắt sắc như dao, khí độ của y không giống như đám công an cảnh sát thường, từ đầu đến chân toát lên vẻ bí ẩn khó dò.

Thuật ngữ trong giới đồ cổ. Chỉ lớp oxy hóa hình thành trên bề mặt văn vật sau thời gian dài có độ óng tự nhiên, không chỉ đồ gốm, sứ, gỗ, ngọc, đồng, ngà, mà cả thư họa, đồ mây tre tơ lụa cũng có lớp này.

Tiểu Tưởng lên tiếng trước, “Anh Nguyện, có người tìm anh.” Tôi chưa kịp đáp, người kia đã chìa tay ra, “Đồng chí Hứa Nguyện phải không? Tôi tên Phương Chấn, đồng nghiệp của Tiểu Tưởng, chào anh.”

Tôi chần chừ bắt tay y rồi cười hỏi, “Anh từng ở trong quân đội ít nhất mười năm phải không?”

“Hở?” Phương Chấn nhướng mày.

“Vừa xong bắt tay, anh có chai ở hổ khẩu và mặt trong bốn ngón, đây là vết tích cầm tiểu liên chứ không phải súng ngắn. Độ dài mỗi bước của anh cũng đều tăm tắp, tôi không nghĩ ra còn ngành nghề nào khác rèn luyện được tác phong như vậy.”

Người trong giới đồ cổ đều tinh mắt, đây là tố chất cơ bản. Tiệm tôi vốn mỏng tiền còm, mắt mờ một lần thì chỉ có nước sạt nghiệp, nên càng phải chú trọng kỹ năng này.

Phương Chấn dường như cũng nhận ra tôi định giành quyền chủ động, nhưng chỉ cười trừ chắp tay sau lưng đi lại trong tiệm, ngắm nghía hàng hóa. Tôi bèn tranh thủ kéo Tiểu Tưởng lại hỏi, “Ai thế? Bưng một ông cảnh sát đến đây làm gì, định cho tôi ăn cám à?” Tiểu Tưởng gãi đầu, “Anh đừng hỏi em, đây là nhiệm vụ cấp trên giao xuống, em chỉ biết dẫn ông ấy đến đây thôi.”

Đang định gặng tiếp thì Phương Chấn đã vòng lại hỏi, “Cho tôi xem thẻ căn cước của anh được không? Không phải nghi ngờ gì anh đâu, làm theo quy định thôi.”

Tôi móc căn cước ra, Phương Chấn cầm lấy xem kỹ rồi trả lại, còn lịch sự gật nhẹ đầu. Tôi thẳng thừng yêu cầu, “Vậy anh cũng cho tôi xem thẻ ngành đi - không phải nghi ngờ gì anh đâu, chẳng qua tôi mắc bệnh đa nghi thôi.”

Phương Chấn thoáng ngẩn người, rút ra một cuốn sổ bìa nhựa xanh, bên trên có mấy chữ thếp vàng “Thẻ công tác”. Tôi lật xem, thấy viết đơn vị công tác là Cục 8 Bộ Công an, nhưng không có chức vụ cụ thể.

Tôi bỗng chột dạ. Nghe con cháu một vị cốp kể, Bộ Công an có hai cục bí hiểm nhất, một là Cục 9, do bộ quản lý nhưng lại trực thuộc Tổng cục tham mưu, phụ trách an toàn cho thường ủy Bộ Chính trị, còn gọi là Cục Cảnh vệ Trung ương; hai là Cục 8 của gã Phương Chấn này, phụ trách bảo vệ cho lãnh đạo nhà nước, quan khách cấp cao nước ngoài và một vài yếu nhân.

Sánh ngang với Cục Cảnh vệ Trung ương, đủ thấy thế lực Cục 8 mạnh nhường nào. Nếu là mấy trăm năm trước thì đó chính là ngự tiền tứ phẩm đới đao thị vệ gộp với cẩm y vệ chứ lại chẳng!

Tôi trả lại thẻ ngành cho Phương Chấn, đổi sang bản mặt toe toét, “Đồng chí Phương Chấn muốn mua hay muốn bán?” Y đáp, “Mời anh đi với tôi, có người muốn gặp anh.”

Tôi ngẩn ra, “Ai vậy? Phải gặp ngay tối nay à?”

“Nhất định phải là tối nay, đây là mệnh lệnh của cấp trên.” Giọng điệu Phương Chấn lịch sự mà cứng rắn.

Tôi nhíu mày, cảm thấy việc này rất lạ, không thể không cẩn thận. Tuy cửa tiệm nhỏ này chẳng có gì quý giá, nhưng tôi vẫn phải thận trọng.

“Anh phải cho tôi biết là cấp trên nào ra lệnh đã chứ?”

Phương Chấn trỏ lên trời, “Tóm lại là cấp cao, tôi không thể tiết lộ, đây là quy định.”

“Muốn gặp tôi làm gì?”

“Không thể tiết lộ.”

“…”

Nếu không có Tiểu Tưởng liên tục đánh mắt ra hiệu, cộng thêm tấm thẻ Cục 8 kia, tôi thật muốn hỏi y học đâu ra cái kiểu ăn nói ấy.

Phương Chấn giơ tay nhìn đồng hồ rồi bước ra cửa làm động tác mời. Sức ép từ Cục 8 quá lớn, dân đen như tôi thực chẳng còn đường nào khác, đành cắn răng đi theo.

“Tôi phải khóa cửa đã, sợ kẻ trộm.” Tôi lầm bầm rút chìa ra khóa cửa, kiểm tra một lượt thiết bị chống trộm rồi mới chịu đi. Vừa ra khỏi cửa đã thấy đập ngay vào mắt một con xe Hồng Kỳ* CA771 đen tuyền, có lẽ đây là nguyên nhân gây ra cơn rung chấn khi nãy. Tiệm tôi không nằm ngoài mặt phố Lưu Ly Xưởng mà chui vào một con hẻm xiên xiên, đường bê tông đang tu sửa nên bề mặt toàn cát là cát. Tiếng sàn sạt ban nãy chính là do bánh xe ma sát với nền cát mà ra.

Nhãn hiệu xe cao cấp của Trung Quốc, thường được dùng trong nghi thức duyệt binh. (Từ đây về sau những chú thích có ghi TG là của tác giả, còn lại đều là của người dịch.)

Tôi không ngờ Phương Chấn lại nghênh ngang lái hẳn xe Hồng Kỳ vào hẻm đỗ trước tiệm mình. Bấy giờ tuy loại xe này đã ngừng sản xuất nhưng vẫn mang tính biểu tượng, cả Bắc Kinh chẳng mấy người có dịp ngồi. Thực chẳng rõ y tiết kiệm giùm tôi mấy bước chân hay cố ý gây áp lực cho tôi nữa.

Con xe Hồng Kỳ này hơi cũ nhưng được lau rửa bóng loáng, trong bóng tối nhập nhèm trông như một con thú đá uy nghi sừng sững. Phương Chấn mở cửa sau, mời tôi lên trước. Tôi để ý thấy y tay phải kéo cửa, tay trái nắm cạnh trên cửa xe, đề phòng tôi va đầu.

Đây tuyệt đối là một tay chuyên tiếp đãi khách nước ngoài!

Lính phục viên, chuyên viên tiếp đón, nhân viên Cục 8! Thân phận ba lớp của y khiến tôi đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Bản thân chỉ là dân đen thấp cổ bé họng, nào dám cứng đầu với thần tiên, cung cúc mà theo thôi.

Ghế sau xe Hồng Kỳ rộng bất ngờ, lại êm. Tôi còn duỗi được cả chân. Phương Chấn cũng lên xe, chu đáo kéo rèm nhung tím che hai bên cửa sổ lại rồi vỗ vai tài xế.

Tài xế chẳng nói chẳng rằng, thành thạo nổ máy, xoay vô lăng chạy thẳng khỏi hẻm, Phương Chấn dựng tấm gỗ ngăn giữa hai hàng ghế lên rồi quay sang cười bảo tôi, “Xin lỗi nhé, quy định nó thế.”

Hay lắm, giờ thì còn thấy được khỉ gì nữa. Tôi chợt nhớ hồi nhỏ đọc truyện liên hoàn họa, thổ phỉ bắt trinh sát quân giải phóng đưa về sào huyệt, cũng bịt mắt dẫn đi thế này.

Phương Chấn ngồi thẳng người, lưng dựa hờ vào ghế, hai tay đặt trên đầu gối nhắm mắt dưỡng thần, rõ ràng là người đã được huấn luyện đặc biệt. Mấy lần tôi toan lân la hỏi dò đích đến, nhưng thấy y như vậy đành nuốt lại lời định nói, nhắm mắt dưỡng thần theo.

Xe chạy khoảng hai mươi phút cuối cùng cũng đỗ lại. Phương Chấn mở bừng mắt ra.

“Đến rồi.”

“Bát Đại Xứ à?” Tôi hờ hững buông gọn lỏn một câu. Phương Chấn thoáng ngạc nhiên, nhưng lập tức lấy lại vẻ điềm tĩnh, nhìn tôi đầy thâm ý rồi hạ tấm gỗ chắn và kéo rèm hai bên, ra hiệu cho tôi ngồi lại, còn y xuống xe.

Lúc này trời đã tối, nhưng đèn đường sáng trưng như ban ngày. Tôi nhìn quanh, phát hiện xe đang đỗ giữa một con đường nhỏ vắng vẻ. Hai bên đường là bạch dương xanh um, xung quanh không có cao ốc. Cuối đường là một khu nhà tường bao cao ngất, không đánh số nhưng có hai cảnh vệ ôm súng đứng canh, cánh cổng màu lục nhạt đóng im ỉm.

Phương Chấn xuống xe, đi thẳng về phía hai cảnh vệ. Đôi bên trao đổi mấy câu, Phương Chấn bèn giơ tay ra hiệu về phía này. Tài xế khởi động máy, đánh xe đến trước cửa, cảnh vệ ngó qua cửa sổ xe nhìn tôi vẻ cảnh giác, nói vài câu với Phương Chấn, y trỏ tôi gật gật đầu. Tiếc rằng trong xe cách âm nên tôi không nghe rõ họ nói gì.

Nghe đồn thời Cách mạng Văn hóa, có những tướng tá cán bộ lớp trước nửa đêm canh ba bị ô tô đưa đến một nơi chẳng biết là đâu, với nhân viên điều tra đợi sẵn, rồi buộc phải khai nhận tội trạng trong quá khứ mà không hề được chuẩn bị tâm lý.

Tôi nhắm nghiền mắt hồi tưởng lại việc buôn bán trước đây xem có vụ làm ăn nào động chạm đến luật pháp hay có mắt như mù chọc phải ông cốp nào cải trang vi hành hay không. Đang đoán mò thì cánh cổng trước mặt đã lẳng lặng mở ra để cỗ xe rì rì chạy vào. Tôi chợt nhận ra Phương Chấn không hề quay lại xe mà đứng ngoài vạch vàng dưới chân cảnh vệ, khum tay châm thuốc đưa mắt nhìn theo.

Xem ra nơi này đến Phương Chấn cũng không đủ tư cách bước vào. Tôi thầm rúng động, tự biết vụ việc đã vượt xa tưởng tượng của mình.

Xe chạy thêm mấy phút rồi dừng lại. Một người đàn ông dáng dấp như thư ký đứng đợi sẵn, chẳng nói chẳng rằng, chỉ ra hiệu cho tôi đi theo. Tôi ngoan ngoãn theo ông ta bước vào một ngôi nhà nguy nga theo lối Giang Tô, quét sơn xám nhạt, hành lang bên trong rộng rãi mà âm u, trên đầu lủng lẳng chụp đèn xanh lục, dưới chân là tấm thảm dày cộp đến nỗi có ném pháo cát* cũng chẳng nghe tiếng nổ.

Pháo cát là một loại pháo nổ an toàn dùng trong ngày lễ tết, có thể giẫm, bóp, ném cho phát nổ. Thành phần có đến 99% là cát.

Chẳng mấy chốc chúng tôi đã đến trước một phòng họp. Viên thư ký gõ rồi mở cửa mời tôi vào.

Vừa bước vào phòng, đập ngay vào mắt tôi là hai quả ấn vàng rực, to bằng lòng bàn tay, màu sắc loang lổ, núm chạm gấu bay, rất thú vị. Lạ một điều là, tạo hình cả hai giống hệt nhau, không khác mảy may, ít nhất theo tôi nhìn qua là vậy, cứ như đúc từ một khuôn. Chúng được nâng niu đặt trong lồng kính, bên dưới lót gấm đỏ thẫm. Mười mấy người xúm xít quanh lồng, đa phần đều già cả tóc bạc phơ, thỉnh thoảng lại rì rầm trao đổi.

Tôi đang ngớ người thì một người mặc bộ đại cán đã đứng dậy khỏi xô pha tiến lại, sau lưng là cảnh vệ theo sát không rời nửa bước.

“Cậu là Hứa Nguyện?” Ông ta thân mật hỏi.

“Vâng.”

Ông ta nheo mắt quan sát, “Trẻ quá nhỉ! Năm nay bao tuổi rồi?” Tôi lễ phép đáp, “Vừa tròn ba mươi ạ.” Ông cốp cười bảo, “Thua tôi đúng ba giáp, cứ gọi tôi là cục trưởng Lưu.” Thấy tôi có phần rụt rè, ông ta vỗ vai động viên, “Đừng căng thẳng, hôm nay mời cậu tới đây là muốn nhờ giúp một việc thôi.”

Lãnh đạo cấp cao thế này nhờ một kẻ vô danh tiểu tốt như tôi giúp cái gì cơ chứ?

Chẳng đợi tôi kịp lên tiếng, ông ta đã kéo tôi tới bên bàn, trỏ hai quả ấn hỏi: “Nhận ra gì đây không?”

Hóa ra khua chiêng gõ trống rầm rộ như thế chỉ là muốn nhờ tôi giám định cổ vật. Tôi hơi vững dạ, nói gì thì nói đây cũng là sở trường của thằng này. Nhà tôi có một cuốn sách gia truyền viết về cổ vật, gọi là Tố đỉnh lục, kiến thức bên trong đủ để tôi kiếm ăn cả đời và cũng là vốn để tôi mở ra Tứ Hối Trai.

Tôi xem xét một lượt, lòng đã chắc mẩm, nhưng thấy xung quanh toàn chuyên gia lão luyện thì lại hơi do dự. Việc giám định có lúc không xem cổ vật mà xem người, các vị có uy tín còn chưa lên tiếng, tự dưng tôi bô bô nhảy ra phán thật phán giả, chẳng hóa vô lễ ư.

Thấy tôi do dự, cục trưởng Lưu phẩy tay, “Không sao đâu, cứ mạnh dạn nói đi.”

“Theo tôi cái ấn này có lẽ là từ thời Hán.” Tôi lựa lời phát biểu.

“Để tôi cho cậu biết. Hai chiếc ấn này một thật một giả, một chiều là hàng nhái chỉ mới xuất hiện trên thị trường dạo gần đây, nhưng làm quá giống nên rất khó phân biệt. Chúng tôi nghi ngờ có một tập đoàn chuyên làm giả cổ vật đang hoạt động sôi nổi trên thị trường, nếu cậu giám định được thật giả là giúp cho đất nước một việc lớn đấy.”

Cục trưởng Lưu nhìn tôi đầy ngụ ý, đoạn đưa đôi găng cao su bảo tôi đeo vào, còn dúi cho một chiếc kính lúp mới toanh.

Người xung quanh nghe chúng tôi trao đổi thì thi nhau nhìn sang. Thấy cục trưởng Lưu để tôi cầm ấn vàng lên, ai nấy đều tỏ vẻ ngạc nhiên và khó hiểu. Một ông già đeo kính đồi mồi lên tiếng, “Cục trưởng Lưu, đây là văn vật đấy, ông gọi tới một cậu chàng mới ra ràng thế này chẳng phải coi việc lớn quốc gia như trò đùa sao?”

Cục trưởng Lưu bình thản xua tay, “Tài không đợi tuổi. Phải biết lắng nghe từ nhiều phía mới huy động được trí tuệ tập thể chứ, huống hồ cũng có ích cho việc giám định tại chỗ hiện giờ mà.”

Gạt bỏ những ý nghĩ ngổn ngang khỏi đầu, tôi hít sâu một hơi, bưng cả hai chiếc ấn lên, nhìn bằng mắt rồi mới giơ kính lúp quan sát thật kỹ.

Làm giả và giám định là chủ đề muôn đời trong giới chơi đồ cổ. Bấy lâu lăn lộn ở Lưu Ly Xưởng, tôi ý thức rõ giám định cổ vật cũng như tấn công một tòa thành, người bên ngoài dốc sức tìm sơ hở để đánh vào còn người bên trong lại liều mạng che giấu sơ hở, đôi bên đấu trí đấu dũng, đều cần đến lòng nhẫn nại, óc quan sát và cơ duyên xuất chúng mới được.

Hai chiếc ấn này là tòa thành lớn do một tay chuyên làm giả nào đó dựng nên. Đã có biết bao lão tướng gãy giáo tại đây, giờ đến lượt gã anh nuôi như tôi lao lên làm tiên phong.

Chiếc núm chạm hình gấu bay được làm vô cùng tinh xảo, mình gấu cong lên, bốn chân án ngữ bốn góc ấn, hai bên sườn mọc ra hai chiếc cánh, áp sát vào thân, vừa tỏ rõ tư thế bay liệng, lại không ảnh hưởng tới việc sử dụng hay đem theo bên mình. Tôi lật ấn lên, thấy bên dưới khắc bốn chữ “Phi Húc chi ấn”, “Phi Húc” khắc nổi, “chi ấn” khắc chìm, theo lối Mậu triện, nét chữ ngay ngắn cổ xưa, vô cùng cân đối.

“Quy cách, hoa văn, dấu đục, chất liệu, thậm chí đất cát bám trên đó, chúng tôi đều kiểm tra rồi, không phát hiện điểm nào bất thường cả.” Một cụ chuyên gia cấm cảu nhắc, hẳn không tin tôi còn có thể phát hiện được gì mới.

Cục trưởng Lưu giơ hai ngón tay, viên cảnh vệ nhanh nhẹn đưa tới một điếu thuốc lá Panda hàng thửa, châm lửa cho ông ta. Chẳng mấy chốc gương mặt ông già đã chìm trong màn khói, thoắt ẩn thoắt hiện, “Hứa Nguyện, cậu có giám định được không?”

Câu trả lời của tôi nằm ngoài dự đoán của tất cả mọi người, “Được.”

Rồi trước ánh mắt kinh ngạc của đám người xung quanh, tôi đưa ra một yêu cầu, “Cho tôi xin hai sợi dây, khoảng ba mươi centime thôi, không cần dài, nhưng phải bằng nhau.”

Cục trưởng Lưu nghi hoặc hỏi, “Được không đấy, cậu muốn thiết bị tinh vi gì tôi cũng điều tới được.”

“Không cần đâu, dây gai là đủ rồi.”

Cục trưởng Lưu không hiểu lắm nhưng vẫn quay sang dặn dò cảnh vệ, chẳng bao lâu anh ta đưa tới hai sợi dây gai màu đen.

Tôi lần lượt buộc dây vào chóp mũi hai con gấu bay trên ấn vàng, hai đầu dây còn lại móc vào ngón tay, đoạn tôi giơ cao hai chiếc ấn rồi thình lình buông tay. Một chuyên gia hét lên “ôi chao”, hớt hải chạy tới toan đỡ lấy. Song hai quả ấn buộc dây gai chỉ lủng lẳng giữa không trung, xoay xoay mấy vòng rồi dừng lại.

“Cậu điên à? Đây là văn vật loại một đấy!” Chuyên gia nọ mắng. Cục trưởng Lưu cũng nhíu mày. Hẳn họ thấy hành động của tôi chỉ như đang diễn trò chứ chẳng có ý nghĩa gì cả.

“Giờ các vị thấy rõ rồi chứ?” Tôi túm hai đầu dây gai, để hai chiếc ấn lơ lửng cho họ quan sát.

Nghe tôi nhắc, họ mới nhận ra hai chiếc ấn khi treo lên có độ nghiêng khác nhau. Chiếc bên trái hơi đổ về phía trước, còn chiếc bên phải vẫn ngay ngắn không nghiêng. Khác biệt này rất nhỏ, không nhìn kỹ thì rất dễ bỏ sót.

“Chiếc bên phải là hàng nhái, bên trái là hàng thật.” Tôi kết luận.

Trong phòng im phàng phắc, không một ai tin lời tôi. Có người vặn, “Cậu căn cứ vào đâu?” Tôi nhún vai, “Cục trưởng Lưu chỉ bảo tôi phân biệt thôi, còn đúng hay sai, ông là chuyên gia hẳn phải biết chứ.”

Đám chuyên gia sầm mặt, có lẽ cảm thấy tôi quá huênh hoang. Cũng phải thừa nhận rằng tôi cố ý, bởi ngón nghề cũng như tiền bạc, không ai đem nói khơi khơi cả. Tôi đặt ấn vàng lại chỗ cũ rồi quay đầu hỏi, “Cục trưởng Lưu, tôi về được chưa?”

Cục trưởng Lưu đứng dậy vẫy tay, “Ta sang phòng bên nói chuyện, cậu Phạm ở lại tiếp chuyện các chuyên gia nhé.” Viên thư ký dẫn tôi vào khi nãy lẳng lặng mở cửa phòng họp tỏ ý tiễn chúng tôi.

Tôi theo cục trưởng Lưu đến gian phòng cuối hành lang. Đây là một phòng làm việc, giữa phòng kê bàn giấy nặng trịch, hai bên là hai giá sách ngất ngưởng choán hết hai mặt tường bày đầy sách lý luận chính trị và vài món cổ vật nho nhỏ. Tôi quét mắt, chẳng có gì đáng tiền, hoặc là hàng phổ thông, hoặc là đồ nhái.

“Xem ra cục trưởng ít dùng phòng làm việc này.” Tôi chủ động gợi chuyện.

Cục trưởng Lưu cười, “Cậu giỏi quan sát đấy, tôi chỉ thỉnh thoảng ghé qua đây nên không bày biện gì cả.” Bấy giờ tôi mới để ý tay lính cảnh vệ vẫn theo sát ông ta không rời nửa bước đã biến mất, trong phòng chỉ có hai người chúng tôi.

Đôi bên quan sát nhau hồi lâu, tôi toan dò ý cục trưởng Lưu, nhưng chỉ thấy ông ta lịch sự chu đáo, kín kẽ khó lường. Trái lại ánh mắt ông ta nhìn tôi cứ như xuyên thấu mọi thứ, khiến tôi vô cùng bức bối.

Cuối cùng ông ta lên tiếng, “Nghe Phương Chấn kể, vừa đến nơi cậu đã đoán được đây là đâu, sao làm được vậy?”

“Đơn giản thôi, cứ xem thân mình lắc lư thế nào thì đoán được hướng đi và tốc độ xe ngay. Từ Lưu Ly Xưởng, xe chạy thẳng về phía Bắc, khoảng đến phố Trường An thì bắt đầu đi về hướng Tây, sau đó chỉ cần đối chiếu bản đồ Bắc Kinh là được, xe vừa dừng, tôi đã biết là ở gần Tây Sơn rồi.” Tôi trỏ huyệt thái dương, ý nói tất cả đều được ghi nhớ trong đầu mình.

“Nhưng sao cậu biết là ở Bát Đại Xứ?”

Tôi nhếch môi, “Dọc phố Trường An rất nhiều cột đèn giao thông, nhưng sau khi đến đó xe vẫn giữ nguyên vận tốc, không hề giảm hay tăng tốc, cũng không dừng lại. Nhất định xe này thuộc diện ưu tiên đặc biệt, thứ đặc quyền chỉ quân đội hoặc chính phủ mới có. Ở gần Tây Sơn, chỉ Bát Đại Xứ là tiếp đón được loại xe cấp cao kiểu này thôi.”

Cục trưởng Lưu vỗ tay khen, “Cậu thông minh đấy, cũng rất thận trọng.”

Tôi đáp, “Cục trưởng biết đấy, tôi làm ăn cò con, sơ sểnh chút thì đừng nói chuyện làm ăn, đến người cũng phải đem ra mà đền ấy chứ.”

Thấy tôi quá dè dặt cẩn trọng, cục trưởng Lưu cười khà, “Cậu bước vào, trước nhìn người sau mới nói chuyện là tôi đã biết rồi. Tốt lắm, làm cái nghề buôn đồ cổ này, khờ khạo thì không xong, không đa nghi cũng không được. À phải, vừa rồi cậu không muốn tiết lộ lai lịch chiêu ‘treo dây bắt mạch, cách không đoán định’ có phải vì chưa yên tâm không?”

Nghe ông ta nói vậy, tôi túa mồ hôi lạnh. Ngón dùng dây gai ước lượng ấn vàng vừa rồi của tôi, trong Tố đỉnh lục gọi là “Treo dây bắt mạch, cách không đoán định”. Cục trưởng Lưu nghe được tám chữ này từ đâu cơ chứ? Tố đỉnh lục đâu phải tự điển Tân Hoa nhan nhản ngoài hiệu sách - đó là một cuốn sổ viết tay, chỉ có một cuốn ở nhà tôi mà thôi.

Trong cơ quan chính phủ bí hiểm này, thình lình lại bị một quan chức cấp cao không rõ lai lịch sổ toẹt ra bí mật gia truyền, tôi không khỏi chột dạ.

“Đừng căng thẳng thế, tôi cũng chỉ biết vỏn vẹn tám chữ đó thôi. Cậu giải thích rõ hơn cho tôi được không?”

Tôi đắn đo giây lát đành đáp, “Nói trắng ra có gì đặc biệt đâu, tôi phán đoán dựa trên trọng tâm ấy mà.”

Cục trưởng Lưu như thể đã hiểu ra gì đó, tôi giải thích thêm, “Thời Hán, người ta đúc ấn bằng cách đổ khuôn. Song nếu tạo hình phức tạp, nhiều mặt cong thì khi đổ khuôn rất dễ bị lẫn bọt khí, tạo thành lỗ rỗng. Ấn nào tạo hình càng phức tạp, càng có nhiều lỗ. Phần tinh xảo nhất của chiếc ấn này là núm hình gấu bay, nên hẳn đây cũng là nơi có rất nhiều lỗ rỗng.

“Tay cao thủ làm giả kia hiển nhiên không nắm được chi tiết này, khi làm giả đã tạo ra một núm gấu bay đặc, không có lỗ rỗng, dẫn tới việc trọng tâm của món đồ giả chênh lệch so với ấn thật, đây chẳng qua là kiến thức vật lý cấp hai thôi.

“Vừa rồi tôi lấy dây gai treo ấn lên là để xác định trọng tâm của hai chiếc ấn. Ấn vàng núm gấu bay thật trên nhẹ dưới nặng, dễ chao đảo, chỉ có đồ rởm mới trơ như đá vững như đồng không xê xích mảy may. Có lúc giám định cổ vật không bí hiểm hoa hòe hoa sói như mọi người nghĩ đâu, chỉ đơn giản như chọc thủng lớp giấy dán cửa sổ ra mà thôi.”

Cục trưởng Lưu phì cười, “Trông bí hiểm thế, hóa ra chỉ là trình độ vật lý cấp hai.” Tôi gật đầu, không phủ nhận.

“Tôi đã bật mí một bí mật, giờ đến lượt cục trưởng nói rõ đầu đuôi rồi chứ nhỉ?”

Cục trưởng Lưu phá lên cười, “Bánh ít đưa đi thì quyết phải đòi bánh quy đưa lại phỏng?” Ông ta lấy trong ngăn kéo ra một khay trà gỗ đàn, bên trên bày năm chén sứ cánh sen nhỏ nhắn trắng muốt. Tôi không mấy am hiểu về gốm sứ, cảm giác thấy giống gốm lò Đức Hóa, nhưng áng chừng chỉ là hàng cuối thời Thanh hoặc đồ giả cổ tinh xảo, không quý hóa gì.

Cục trưởng Lưu cầm chiếc kẹp gắp bằng tre, sắp năm chiếc chén thành hình chữ thập, một chén ở giữa, bốn chiếc kia nằm bốn góc Đông Tây Nam Bắc. Sau đó lại lật úp chiếc ở góc Tây, đoạn ngẩng đầu nhìn tôi.

Tôi ngơ ngác mở to mắt, không hiểu ông ta có ý gì. Tôi biết đây là trà trận, nghe nói trong xã hội cũ, những băng nhóm như Tào bang, Hồng bang thường dùng trò này làm ám hiệu liên lạc. Nhưng một thanh niên sinh ra trong thời đổi mới lớn lên dưới ngọn cờ hồng như tôi, sao hiểu được những thứ đó.

Tôi và cục trưởng Lưu bốn mắt nhìn nhau hồi lâu, không ai có động thái gì, cuối cùng ông ta lấy làm chán nản, “Xem ra cậu không biết gì cả.”

“Chuyện đó phải xem cục trưởng cho tôi biết được đến đâu chứ.” Tôi giở chiêu cò cưa.

Lại những ánh mắt im lìm, chợt ông ta hỏi, “Cậu học đâu được nghề giám định này thế?” Tôi thành thật đáp, “Một nửa học trong sách, một nửa tự trau dồi trong quá trình làm ăn.”

“Không ai dạy sao?”

“Không.”

“Ông Hứa Hòa Bình bố cậu thì sao?”

Tôi chột dạ, quả là lãnh đạo cao cấp, nắm rõ cả họ tên ông già tôi cơ đấy.

“Bố tôi không muốn tôi theo nghề này, chê bẩn thỉu, bản thân ông ấy cũng tránh xa. Mãi sau ông mất trong Cách mạng Văn hóa, tôi mới bắt đầu tiếp xúc với kim thạch*, đi theo người ta lâu ngày, cũng học được chút ngón nghề.”

Kim thạch là một môn trong ngành thu gom cổ vật, chủ yếu bao gồm những hiện vật đồng thau và bàn khắc đá, thẻ trúc, giáp cốt, đồ ngọc và đồ tùy táng, v.v… (TG)

Vừa nói tôi vừa nghĩ, nếu ông ta định hỏi đến Tố đỉnh lục, tôi sẽ chối bay chối biến, chết cũng không thừa nhận. Thất phu vô tội, mang ngọc là tội, tôi không thể dây vào được.

Cục trưởng Lưu nghe tôi nói xong thì trầm ngâm, “Thảo nào… Cái tên Tứ Hối Trai quả cũng không sai.”

“Cục trưởng biết bố tôi ư?”

“Không biết, có điều trước đây tôi từng chứng kiến ngón nghề ‘treo dây bắt mạch’ như của cậu.”

Bố tôi rất thận trọng, gần như chẳng bao giờ tiếp xúc với ai ngoài đồng nghiệp. Cục trưởng Lưu nói đến treo dây bắt mạch, nhất định là từ đời ông nội tôi. Mà những chuyện này bố tôi xưa nay không bao giờ đề cập, tôi cũng chẳng biết mô tê. Chắc phải truy đến tận thời Dân Quốc, ai mà biết được có ân oán dây dưa hay khúc mắc gì, cứ nên giữ mồm giữ miệng là hơn.

Cục trưởng Lưu chậm rãi gõ xuống mặt bàn, “Cậu không được dạy dỗ gì mà cũng biết ‘treo dây bắt mạch’, coi như không uổng gia học. Khá lắm, tôi rất mừng. Bằng không hôm nay cậu cũng không bước vào phòng này được đâu.” Đoạn ông ta trỏ lên bàn, “Trà trận này, cậu quan sát rồi đoán thử xem.”

Tôi nhíu mày, đúng là đánh đố nhau.

Cục trưởng Lưu thản nhiên nói, “Cậu phá giải được trà trận này thì ta nói tiếp. Nếu không giải được, chứng tỏ duyên phận giữa chúng ta chỉ đến đây thôi, những việc khác cậu không cần biết. Tôi sẽ cho người đưa cậu về, trả thù lao không thiếu một xu, cậu cứ việc tiếp tục buôn bán.”

Nghe câu này, tôi chỉ muốn đứng dậy đi thẳng. Song ông ta cứ úp úp mở mở, vừa rồi thoạt trông đã nhận ra “treo dây bắt mạch”, lại gọi thẳng tên ông già ở nhà khiến tôi thấp thỏm không yên, nhất định ông cục trưởng này vẫn còn giấu giếm không ít chuyện, hơn nữa những chuyện này dường như đều liên quan mật thiết đến tôi.

Tôi linh cảm nếu cứ thế bỏ đi, e rằng lại bỏ lỡ cơ duyên. Bèn quyết định bình tĩnh phá giải trà trận này xong rồi tính.

Một ông già xưa kia từng lăn lộn ở bến Thượng Hải kể với tôi rằng, trà trận là cách thức liên lạc của những băng đảng ngầm như Hồng bang, Tào bang, đám người này đa phần là phường lưu manh vô lại, trình độ văn hóa thấp nên trà trận cũng chẳng có gì cao siêu, chủ yếu dùng cách nói đồng âm hoặc so sánh, kết hợp với dăm khẩu quyết dân gian đơn giản. Hình thế trận tương ứng với âm dương ngũ hành, hoặc tinh tú trên trời, đều có quy định cả.

Trà trận trước mặt rõ ràng xếp hình chữ thập theo năm phương vị Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung. Năm phương vị tương ứng với ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Giờ chén trà góc Tây đã bị lật úp, Tây thuộc Kim chứng tỏ lớp nghĩa đầu tiên của trà trận này là ngũ hành thiếu Kim.

Đến đây thì tôi tắc tị.

Chẳng biết đằng nào mà đoán tiếp. Thiếu Kim có rất nhiều nghĩa, chắc không phải lãnh đạo cấp cao như ông ta định vay tiền tôi đấy chứ? Thấy tôi gãi đầu gãi tai, cục trưởng Lưu lấy làm thích thú, rót chút trà vào chén, “Bộ chén này của tôi năm cái một kiểu, giống hệt nhau. Một úp bốn ngửa, là thế ngũ hành bất toàn. Lâu lắm tôi không dùng rồi.” Đoạn ông ta trỏ chén trà rồi lại trỏ bức tường sau lưng tôi, xem như phá lệ gợi ý.

Tôi ngoái lại nhìn bức tường sau lưng, lòng chợt rúng động. Tường phòng sơn trắng, gần giống màu phôi của chén trà.

Phải rồi, hẳn là liên quan đến màu sắc.

Âm dương ngũ hành có hàm nghĩa rất rộng, tương ứng với năm hướng, năm vị, năm âm v.v… đồng thời cũng ứng với năm màu đen trắng đỏ vàng xanh.

Hành Kim vừa hay ứng với màu trắng, màu trắng còn được gọi là “tố”, lẽ nào… tôi ngỡ ngàng ngẩng lên, chẳng lẽ ông ta muốn nói trà trận này thiếu cuốn Tố đỉnh lục của tôi?

“Thứ cục trưởng muốn là một cuốn sách ư?” Tôi cố ý lờ đi tên sách, tranh thủ chút vận may.

Cục trưởng Lưu phá lên cười, “Thằng lỏi này lanh đấy nhỉ. Vừa rồi chiếc ấn đời Hán kia là để thử xem gốc gác cậu thế nào, còn trà trận này, là xem đầu óc cậu ra sao. Cậu bảo thứ tôi muốn là một cuốn sách, chỉ đúng phân nửa thôi. Có điều cậu vốn không biết gì, chỉ dựa vào kiến thức mà giải được đến mức ấy cũng là giỏi rồi. Cuốn sách của cậu đầu đề có chữ ‘tố’, đúng không?”

Tôi hết cách, đành gật đầu. Lão cục trường này nói chuyện rất khéo, thao túng cục diện từ đầu đến cuối, hỏi câu nào cũng có tính toán trước, thế này trong giới buôn đồ cổ gọi là “móc lời”, ý nói đầu lưỡi có sáu răng ba móc, chỉ vài ba câu đã moi hết gan ruột người ta ra.

“Sợ rồi à, yên tâm tôi không đòi lấy quyển sách của cậu đâu.”

“Cục trưởng có đòi cũng vô ích, nó được mã hóa rồi, chỉ mình tôi biết giải mã thôi.” Nghe tôi lầu bầu, cục trưởng Lưu chỉ cười, lật chén trà góc Tây lại rồi chợt thở dài, “Thế ngũ hành này thiếu Kim, thực ra không phải thiếu cuốn sách của cậu, mà là thứ ẩn giấu đằng sau nó.” Dứt lời, ông ta lại bày năm chén trà thành hình cánh hoa mai, đoạn trầm ngâm nhìn tôi đến mức tôi sởn cả tóc gáy.

Tôi liếc năm chén trà chụm lại, buột miệng, “Trận hoa mai năm cánh?” Ý tứ quá rõ ràng, hoa mai năm canh chụm lại, ám chỉ kết nghĩa hoặc tụ họp - ông ta muốn tập hợp thứ ẩn giấu đằng sau Tố đỉnh lục lại cùng với bốn cánh hoa khác.

Cục trưởng Lưu rời ghế đứng dậy, chắp tay sau lưng đi đến bên cửa sổ, kéo lại tấm rèm, vẻ mặt cũng nghiêm túc hẳn lên, “Nguyện này, cậu bảo buôn đồ cổ quan trọng nhất là gì?”

“Không mua hàng giả.”

“Phải lắm. Nghề này biến hóa đa đoan, nhưng chung quy lại chỉ xoay quanh hai chữ thật giả. Mấy ngàn năm tồn tại, nói trắng ra chỉ là để phân định thật giả mà thôi.”

Dứt lời, ông ta thủng thẳng miết tay lên khay trà, “Có kẻ làm giả, tất có người giám định. Có người nhìn nhầm, ắt có kẻ ép giá. Năm chén trà này tượng trưng cho năm môn phái giám định cổ vật. Cả năm đều được truyền lại từ xa xưa, nắm giữ cả ngành cổ vật, thao túng giới giám định đồ cổ. Hễ qua tay họ, coi như thật giả rõ ràng, đâu đâu cũng phải thừa nhận. Thế nên năm môn phái họp lại, gọi là ‘Minh Nhãn Mai Hoa’. Người chơi đồ cổ đi giám định, nghe bốn chữ này đều phục sát đất.”

“Sao tôi chưa nghe bao giờ nhỉ?” Dù gì tôi cũng lăn lộn bao năm, thế mà chưa từng nghe đến “năm môn phái” này bao giờ. Ông già này càng nói càng mơ hồ.

“Cậu đã nghe tiếng Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa chưa?”

“Cái này thì rồi.” Tôi gật đầu. Dân chơi đồ cổ ít nhiều đều từng nghe đến cái tên này. Tuy đó không phải cơ quan nhà nước, nhưng cũng được coi là nơi giám định tư nhân chuyên nghiệp, tiếc rằng họ khá kín tiếng, thỉnh thoảng mới góp mặt tại vài cuộc giám định hoặc đấu giá quan trọng, đám con buôn tép riu như tới còn khướt mới tiếp cận được.

Cục trưởng Lưu nói tiếp, “Hiệp hội này do người thừa kế của năm môn phái bắt tay dựng nên, chưa đến vai vế nhất định thì không thể biết được. Nó tượng trưng cho một dạng thân phận và địa vị. Người không biết tức là không biết, không ai tiết lộ cho cả.”

“Cứ tưởng sau giải phóng đặc quyền giai cấp đã bị xóa bỏ rồi chứ…” Tôi lầm bầm.

Cục trưởng Lưu nghiêm mặt đáp, “Năm môn phái này một không lừa gạt lũng đoạn thị trường, hai không đầu cơ trục lợi, dựa vào tài phân định thật giả mà chèo chống cả giới đồ cổ, chưa từng nhầm lẫn. Đây là kỹ thuật được nhà nước bảo hộ. Tuy cả năm từng tổn thất nặng nề trong Cách mạng Văn hóa, song nguyên khí vẫn còn, thừa cơ gây dựng lại thành lập Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa. Cậu xem, sau khi cải cách mở cửa, nghề buôn đồ cổ phát triển mạnh được thế đều nhờ Minh Nhãn Mai Hoa âm thầm tác động. Có biết họ dựa vào cái gì không?”

“Thật.”

Tôi chỉ đáp đúng một chữ. Cơ quan giám định uy tín đều phải tuân thủ nguyên tắc: tuyệt đối không làm giả. Nghĩ mà xem, một cơ quan giám định chủ yếu dựa vào danh tiếng công minh trung lập, nếu đến họ cũng làm giả, chẳng phải là vừa đá bóng vừa thổi còi sao? Huống hồ người giám định đương nhiên thuộc làu những mánh lới giả mạo, nếu họ nảy ra ý đồ làm giả thì nguy hiểm vô cùng.

Thế nên chuyên gia giám định giỏi quyết không dám dính đến chữ “giả” - chỉ một lần nhúng chàm là hỏng hết thanh danh.

Cục trưởng Lưu gật gù hài lòng, “Bỏ giả giữ thật, chính là nguyên tắc của hội giám định cổ vật.”

Tôi hỏi: “Sao lại cho tôi biết những chuyện này?”

Cục trưởng Lưu cười nửa miệng, “Cậu vẫn chưa hiểu à? Họ Hứa nhà cậu chính là chén trà úp kia đấy. Năm cánh hoa mai, chỉ thiếu nhà cậu thôi.”

Đầu tôi ong lên, chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả.

Như tôi nhớ thì nhà mình chẳng liên quan gì đến cổ vật hết. Chúng tôi chỉ là một gia đình bình thường, sống trong khu tập thể giáo viên hai phòng ngủ một phòng khách, trong nhà không bày chậu hoa thì trưng toàn tập Marx Engel Lenin Stalin Mao Trạch Đông, trên tường treo mấy bức tranh chữ đều do bố tôi tự viết vào ngày nghỉ, thường ngày cũng chỉ qua lại với giới giáo chức - nhìn dọc nhìn ngang thế nào cũng chẳng dính dáng đến đám buôn đồ cổ nhà cao cửa rộng. Sau khi hai cụ thân sinh qua đời, tôi soạn lại di vật chỉ thấy có cuốn sách kia là đồ từ trước giải phóng.

Nhưng lời cục trưởng Lưu cũng không thể không tin. Ấn tượng của tôi về dòng họ thực ra chỉ là ấn tượng về đời bố tôi mà thôi, còn trước giải phóng gia tộc ra làm sao, ông nội là ai, từng làm nghề gì, bố tôi không hề nhắc đến. Nếu chẳng phải vô tình tìm được cuốn Tố đỉnh lục trong nhà, tôi cũng chưa chắc đã đi theo con đường này.

Giờ xem ra, chuyện còn phức tạp hơn tôi dự liệu. Vừa rồi cục trưởng Lưu bày trà trận mai hoa, phái chăng định rủ tôi nhập hội? Theo lời ông ta thì Minh Nhãn Mai Hoa là một tổ chức dân gian náu mình sâu trong giới sưu tầm cổ vật, vì sao một quan chức chính phủ lại tham dự vào đây? Còn nữa, việc giám định chiếc ấn đời Hán vừa rồi rốt cuộc là tình cờ hay bài kiểm tra họ bày sẵn?

Hàng loạt suy tư như thác lũ cuồn cuộn đổ vào não bộ, khiến tôi nhất thời không biết nói gì.

Đúng lúc này chợt vang lên tiếng gõ cửa, viên thư ký bước vào, “Thưa cục trưởng, sắp đến giờ rồi, mọi người đều đang đợi ngài đấy ạ.”

Cục trưởng Lưu nhìn đồng hồ đeo tay rồi bảo tôi, “Tìm cậu đến đây không phải để hàn huyên mà có việc lớn nước nhà cần cậu giúp đỡ. Nhưng hôm nay tôi còn bận việc gấp khác, để cậu Phương đưa cậu về trước, tới khi cần, tôi sẽ cho người đến tìm.”

Tôi bất giác thở phào nhẹ nhõm. Những việc tôi nghe được tối nay đã quá nhiều, cần thời gian tiêu hóa đã, bằng không đầu sẽ vỡ ra mất.

Vốn tôi còn định hỏi vụ giám định lần này có trợ cấp vất vả không, nhưng thấy người ta nói năng hào sảng như thế lại không dám mở miệng. Cục trưởng Lưu đi rồi, tôi được thư ký của ông ta dẫn ra ngoài, quả nhiên Phương Chấn vẫn chờ trước cổng. Thấy tôi ra, y chìa cho một điếu thuốc. Tôi chối không biết hút, y cũng không ép, ngậm ngay lấy rồi mở cửa xe cho tôi.

Chúng tôi trở về theo đường cũ, dọc đường Phương Chấn chẳng nói chẳng rằng, chăm chăm nhìn ra bên ngoài. Tôi ngứa miệng hỏi, “Cục trưởng Lưu thuộc ban ngành nào vậy?” Y đáp cụt lủn, “Ban ngành liên quan.”

“Ban ngành liên quan với cái gì?”

Phương Chấn lắc đầu, “Những gì nên nói cấp trên sẽ tự mình nói, những gì cấp trên thấy không cần nói, tôi không thể nói được.”

Người ta không chịu nói, tôi cũng không tiện gặng thêm, đành ngồi nhắm mắt dưỡng thần. Song lòng tôi cứ nhộn nhạo không yên, năm chén trà khi nãy xoay mòng mòng trong đầu.

Ba ngày sau đó sóng yên biển lặng, như thể cục trưởng Lưu chưa từng gặp tôi. Phương Chấn cũng mất tăm, nhưng tôi đoán y nhất định vẫn lẩn lút đâu đó gần Lưu Ly Xưởng, theo dõi nhất cử nhất động của Tứ Hối Trai.

Việc làm ăn của tôi vẫn tùng tiệm như thế, mỗi ngày có dăm ba khách lai vãng, hỏi thì nhiều mua thì ít, chủ nhà cũng ghé lại một lần, tôi phải bã bọt mép nài nỉ làm công tác tư tưởng mãi, cuối cùng mới trì hoãn được thêm tuần nữa. Dù bận rộn toàn những việc lặt vặt nhưng tâm trạng tôi đã thay đổi hẳn, hễ thấy có người bước vào lại suy đoán xem họ có biết Minh Nhãn Mai Hoa hay không, có từng nghe nói đến năm môn phái không mà không dám lên tiếng hỏi, người ngợm cứ bứt rứt muốn phát điên. Suốt ba hôm liền chẳng bán được món đồ nào, buồn thối ruột.

Dĩ nhiên, tôi bận lòng nhiều nhất là về chuyện gia đình. Bố nhất định có gì giấu giếm tôi, bằng không sao lại không nhắc nửa lời về những chuyện trước đây. Thuở bé có lần tôi hỏi về ông nội liền bị bố nổi giận vác chổi đánh cho quắn đít, thành thử cũng không dám hỏi kỹ - tiếc rằng ông già qua đời rồi, không thể đội mồ sống dậy kể cho tôi nghe sự thật. Nhà chúng tôi lại không có họ hàng thân thích, thành thử nhất thời chẳng biết hỏi han ai.

Hôm nay tôi mở hàng từ sớm, đang uể oải ngồi sau quầy vừa lật sổ thu chi vừa tính xem xoay xỏa thế nào cho đủ tiền nhà tháng này thì chợt thấy hai người một già một trẻ bước vào. Tôi nhận ra ông già là chuyên gia tham gia giám định chiếc ấn đời Hán hôm trước, cục trưởng Lưu gọi ông ta là giáo sư Trịnh; còn người trẻ áng chừng xấp xỉ tuổi tôi, đeo kính râm, mặc sơ mi hoa, bộ dạng lấc cấc.

Vừa thấy tôi, giáo sư Trịnh gật đầu ngay, “Đúng cậu ta rồi.” Tôi ngẩn người, chưa kịp ho he gì đã thấy gã trai bước lên trước nhìn mình từ đầu đến chân rồi xấc giọng hỏi, “Hứa Nguyện phỏng?”

“Hai vị hỏi chuyện gì?”

Giáo sư Trịnh toan lên tiếng thì bị gã kia ngăn lại, “Tí tuổi ranh mà gớm nhỉ, dám làm mất mặt thầy anh mày cơ đấy. Đúng là tài không đợi tuổi.”

Giọng lưỡi gã xấc xược, nghe như khiêu khích chứ không phải tán thưởng. Gã móc trong ngực áo ra một miếng ngọc, đặt lên tủ quầy, gõ gõ ngón áp út, “Này, anh đây cũng trạc tuổi chú nên chẳng vòng vo làm gì. Anh họ Dược, Dược Bất Nhiên. Chỗ chú mày buôn bán đồ cổ hử? Anh đây có thứ này, xem chú mua không?”

Tôi giật mình, thầm nhủ, quả nhiên là đến rồi. Hành động này của gã trong nghề gọi là “đấu khẩu”, bắt nguồn từ ngón chơi chim của người Mãn, ý rằng chỉ đấu khẩu không động thủ, không làm thật, về sau lan sang giới cổ vật, chỉ việc người bán không định bán thật, mà chỉ muốn thử nhãn lực người mua. Kiểu thăm dò này vô cùng táo bạo, gần như gây hấn, thông thường chỉ khi có thù hận sâu sắc với người thu mua, thực sự muốn dỡ bảng hiệu của đối phương, người ta mới làm vậy.

Nhưng tôi có oán thù gì với gã cơ chứ? Chắc ông giáo sư già bẽ mặt nên gọi học trò đến phá tôi đây.

Thấy tôi lưỡng lự, Dược Bất Nhiên cười nhạt, “Chú không dám mua thì để anh mang về cho chó ăn.”

Nghe gã thở ra toàn lời châm chọc, tôi tự biết hôm nay không tránh được xung đột, bèn vươn tay ra, cũng đặt ngón áp út lên miếng ngọc, kéo lại mép trong tủ quầy, xem như tiếp nhận đấu khẩu.

Dược Bất Nhiên thấy tôi nhận lời thách thức bèn khoanh tay trước ngực, đứng trước tủ quầy nhìn tôi chòng chọc. Giáo sư Trịnh đã có tuổi nên kéo ghế lại ngồi.

Miếng ngọc Dược Bất Nhiên đưa chạm hình đứa bé cầm hoa sen, to chừng nửa bàn tay, tôi liếc qua rồi ném trả, “Anh cứ giữ lại đi.”

“Ái chà, gớm nhỉ.”

Dược Bất Nhiên thoáng ngạc nhiên. Gã tưởng tôi sẽ lấy kính lúp ra soi, rồi chưng ngọc ra bụi*, không ngờ tôi lại ném trả nhanh như thế, bèn hếch cằm đợi tôi nói tiếp. Nên biết rằng, đấu khẩu không so thật giả, mà phải xem lập luận thế nào để khẳng định nó là giả mới được.

Ngọc cũ chôn dưới đát lâu ngày, bị phong hoá mặt ngoài, về sau tay người sờ mó sẽ tạo thành màng bọc che lấp đi, khi giám định, nếu ngâm vào nước ấm, làm tan màng bọc, lớp phong hóa lộ ra, trông như một lớp bụi bám, cách giám định này gọi là “chưng ngọc ra bụi”. Nhưng công nghệ làm giả đồ ngọc hiện giờ cũng có thể làm giả cả lớp bụi bám, nên không thể coi đó là tiêu chuẩn duy nhất để phán đoán thật giả nữa. (TG)

Tôi khách sáo, “Miếng ngọc này của anh còn chẳng được đến gáo dầu mới, chỉ ở mức chó đá giấm thôi.”

Gáo dầu là một cách tẩm màu* cho đồ ngọc từ cổ xưa, thời Tống gọi là gáo dầu cũ, thời Minh Thanh gọi là gáo dầu mới, thời cận đại thường dùng máu chó để tẩm màu, đặc sệt đen thui, nên gọi là chó đá giấm, không đáng một xu.

Ngọc xưa tiếp xúc lâu ngày với cây cối đất đai hoặc những vật chất khác khiến chất ngọc bị xâm thực, biến màu một phần hoặc toàn bộ, gọi là tẩm màu. Tẩm màu là một trong những tiêu chuẩn để giám định niên đại đồ ngọc. (TG)

“Chú mày dựa vào đâu mà nói thế?”

Tôi nhẫn nại cầm miếng ngọc lên, trỏ đường máu gà trên đó giải thích, “Anh xem, phàm đồ ngọc ‘chó đá giấm’, viền chỗ tẩm màu sẽ có đốm máu li ti, nhìn kỹ phần mép trông như sợi thừng thắt mấy nút, rất dễ nhận biết.”

Dược Bất Nhiên không ngờ tôi nhìn qua đã nghiệm xong hàng, tấm tắc, “Chú mày cũng gớm đấy.” Gã hào sảng thu lại miếng ngọc bằng hai tay, hệt người Quảng Đông uống trà, đồng thời gõ nhẹ ngón trỏ và ngón giữa lên mặt tủ quầy, xem như chấp nhận. Bấy giờ tôi mới sực nhớ trước khi đấu khẩu phải định phần thưởng, vừa rồi hấp tấp nhận lời quên không đòi thưởng có hơi thiệt thòi.

Dược Bất Nhiên móc trong ngực áo ra một miếng ngọc ném cho tôi. Miếng ngọc này không lớn, nhưng là ngọc tím Hòa Điền chính cống, sờ ấm nhuận, mềm mà không nhũn.

“Thứ này nhà anh còn cả đống, chú cầm một miếng mà chơi.” Dược Bất Nhiên nói nhẹ như không, tôi cũng chẳng rõ gã rộng rãi thật hay vờ, song không buồn khách sáo, nhét ngay vào túi. Món này bán ra cũng đủ trả hai tháng tiền nhà.

Thấy tôi bỏ tọt ngọc vào túi, Dược Bất Nhiên tỏ vẻ khinh khỉnh, cười nhạt rồi ném cả miếng “chó đá giấm” qua, “Cho chú nốt, gặp con gà mờ cũng kiếm được mấy đồng.”

Tôi bắt lấy rồi ném trả, “Từ khi vào nghề, tôi đã tự quy định với mình: không làm giả, cũng không bán đồ giả.”

“Được, được, coi như chú đàng hoàng. Dám so tài lần nữa không?”

Tôi cười đáp, “Tôi còn phải buôn bán, hơi đâu lần chần với anh.” Dược Bất Nhiên hậm hực, “Cửa tiệm bằng lỗ mũi thế này, anh mày mua bán hai vụ là dựng được ngay.” Thấy giáo sư Trịnh trừng mắt, gã mới chịu hậm hực im miệng.

Thấy tôi hơi bực, giáo sư Trịnh vội giảng hòa, “Xin lỗi cậu Nguyện, Nhiên nó ăn nói không biết lựa lời.” Tôi chống hai tay lên mặt quầy, “Tôi thấy… cũng không có gì. Hôm nay hai vị đến đây e là còn việc khác thì phải?”

Họ vừa bước vào tôi đã thấy có vấn đề, giáo sư Trịnh đi sau, Dược Bất Nhiên đi trước. Lúc Dược Bất Nhiên khiêu khích chẳng thấy ông ta ra lời, giờ lại tự dưng đứng ra dàn hòa, rõ ràng là kẻ đánh trống người thổi kèn, phối hợp với nhau. Huống hồ nếu họ thực sự định đấu khẩu thì vật cược này hơi nhỏ.

Bị tôi vạch trần, giáo sư Trịnh cũng chẳng ngại nói thẳng, “Cậu Nguyện ạ, chuyện này nói ra thì dài lắm. Bất Nhiên… cũng không phải hạng bình thường, nó thử cậu là có nguyên cớ cả đấy.” Song tôi vẫn khăng khăng, “Nếu giáo sư tới bán đồ hoặc giám định, tôi sẽ dốc hết tâm sức. Nhưng tự dưng bảo tôi đánh cược với một kẻ không rõ lai lịch thì tôi không có hứng. Hôm nay anh ta đến đấu khẩu, ngày mai ông lại đến khiêu khích, cửa tiệm này của tôi chi bằng dỡ biển đổi thành đạo trường Hồng Khẩu* cho rồi.”

Nơi Trần Chân, một nhân vật hư cấu rất giỏi võ nghệ tỉ thí võ công với người khác.

Dược Bất Nhiên cười nhạt, “Vậy nếu anh đây nói về Minh Nhãn Mai Hoa thì sao?” Lần thứ hai nghe thấy cái tên này, tôi giật nẩy mình nhìn chằm chằm Dược Bất Nhiên, chẳng biết phải đối đáp ra sao. Gã nói tiếp, “Chú mày cũng chẳng phải hạng chậm hiểu, chúng ta nói toẹt ra đi. Cục trưởng Lưu đã kể cho bốn phái chuyện nhà họ Hứa các chú rồi, nên bọn này đến đây xem nhà họ Hứa biệt tích bấy lâu giỏi giang đến đâu.”

Hóa ra gã này là truyền nhân của năm phái trong Minh Nhãn Mai Hoa, hừm… chẳng phải cũng giống tôi ư?

“Cục trưởng biết chuyện này không?” Tôi thận trọng hỏi.

“Mấy hôm nay ông ta còn đang họp bàn với mấy người trong ban trị sự của Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, chưa có kết luận. Người làm cán bộ nhà nước chỉ thích họp hành nói nhảm! Có quái gì mà bàn với bạc, năm phái xưa nay đều vang danh nhờ tay nghề, thử tài một lần chẳng phải biết ngay?” Dược Bất Nhiên khinh khỉnh xua tay.

Giáo sư Trịnh tiếp lời, “Cậu Nguyện này, nhà họ Hứa im hơi lặng tiếng bấy nhiêu năm, giờ lại đột ngột xuất hiện, ắt sẽ thu hút sự chú ý của nhiều người. Nói đâu xa, ngay sau lưng Dược Bất Nhiên cũng có không ít nhân vật sừng sỏ. Nếu cậu co đầu rụt cổ, chỉ e chuyện thế này còn tiếp diễn dài dài.”

Tôi hối hận nhất là ma xui quỷ khiến thế nào lại đi phá giải cái trà trận kia. Sớm biết dây phải lắm phiền phức thế này, chi bằng ngay từ đầu cứ chối là không giải được rồi trở về sống yên ổn có phải hơn không. Giờ thì hay lắm, chọc vào tổ ong vò vẽ rồi. Xưa nay tôi vẫn tự cho mình thận trọng, thế mà lòng vẫn mắc míu chuyện danh lợi.

“Được thôi, rốt cuộc các vị muốn tôi phải làm sao đây?”

Giáo sư Trịnh nhìn đồng hồ đeo tay, “Tôi định thế này, hôm nay là Chủ nhật, Phan Gia Viên đang nhộn nhịp. Chúng ta tới đó, cậu và Nhiên mỗi người cầm hai nghìn tệ, tự đi vét đồ trong khoảng thời gian nhất định, không giới hạn chủng loại. Ai kiếm được món hời nhất thì người đó thắng.”

“Làm sao phân định được trong hai món món nào đáng tiền hơn?”

“Nếu hai người tin tôi thì để tôi định giá.” Giáo sư Trịnh đẩy gọng kính, “Ngón tủ của tôi là định giá mà.”

So tài như thế nghe chừng cũng thú. Không chỉ so mắt nhìn đồ mà còn xét cả khả năng tính toán và quyết đoán nữa. Mấy trăm gian hàng cửa tiệm ở Phan Gia Viên mỗi nơi lại thu mua những mặt hàng khác nhau, trong khoảng thời gian nhất định muốn tìm ra tiệm nào có hàng tốt, ép được giá thấp hết mức, cân bằng được cả giá trị và giá tiền, đưa ra quyết định tối ưu, quả không phải dễ.

Bởi vậy nếu chỉ biết giám định cũng không thắng nổi, chỉ biết mặc cả cũng không thắng nổi, phải thông thạo cả hai mới được. Chuyện này không thể trông vào may rủi mà là nhận định tổng hợp về khả năng vét đồ của một người.

Giáo sư Trịnh đưa ra đề nghị này, hẳn đã có chuẩn bị trước.

“Nếu tôi thắng thì sao, thua thì sao?” Tôi hỏi.

Dược Bất Nhiên đáp, “Thắng thì tùy chú mày chọn một món đồ ở nhà anh, còn thua thì đưa Tố đỉnh lục ra đây cho anh mày xem thử.”

Gã nói thẳng tuột như vậy khiến tôi thầm rúng động. Quả như lời cục trưởng Lưu, nhà họ Hứa vừa lộ mặt đã có bao nhiêu ánh mắt đổ dồn vào cuốn sách kia. Hai người này tìm đến tôi không phải để báo thù hay gây sự, mà cũng nhằm vào nó đó thôi.

Có lẽ Tố đỉnh lục vô cùng quan trọng với năm môn phái hoặc hội giám định văn vật, tượng trưng cho sự tiếp nối văn hóa hoặc quyền lực môn phái gì đó, còn với tôi, nó chỉ đơn thuần là một cuốn hướng dẫn giám định thực dụng, chẳng có gì quý giá. Tôi tin nhiều mánh lới ghi trong đó đã được lưu truyền trên đời từ lâu, một vài điều thậm chí đã lỗi thời trong kỷ nguyên khoa học kỹ thuật tiến bộ hiện giờ, bản thân tôi không có tham vọng gây dựng môn phái nên giấu giếm cũng chẳng để làm gì.

“Thế nào? Nói đi chứ!” Dược Bất Nhiên giục.

Tôi vê ngón tay vẻ khó xử, “Tôi cũng muốn đi, nhưng tiệm này chỉ có mình tôi trông hàng, nếu đi thì phải đóng cửa…” Chưa nói hết câu, giáo sư Trịnh đã móc ví ra, “Không phải lăn tăn, chúng tôi đặt hai trăm đồng lại đây đền bù cho cậu.”

Nhận tiền xong, tôi mới thủng thẳng tiếp, “Nếu thắng tôi không lấy gì cả, chỉ xin các vị về sau đừng tới làm phiền tôi nữa được không?”

“Không vấn đề.” Dược Bất Nhiên nhận lời ngay.

Tôi thấy trong mắt gã bùng lên hai đốm lửa.

Tôi khóa cửa, theo giáo sư Trịnh và Dược Bất Nhiên lên một chiếc Volkswagen. Có lái xe riêng, giáo sư Trịnh ngồi vào ghế phụ còn tôi và Dược Bất Nhiên ngồi đằng sau. Xem ra trừ chi nhà tôi, bốn môn phái kia đều khấm khá, có cả xe riêng.

Xe nổ máy, chầm chậm lăn bánh rời Lưu Ly Xưởng. Dược Bất Nhiên ngồi bèn chìa tay ra, “Giới thiệu lại nhé, anh đây là người của Huyền môn.”

“Huyền môn?” Tôi ngơ ngác.

“Chết tiệt, cái đó mà chú mày cùng không biết à?” Dược Bất Nhiên cao giọng vờ ngạc nhiên, mắt lóe lên vẻ đắc ý. Phải, chính là ánh mắt của hội học sinh giỏi nhìn đám đội sổ.

Tôi lắc đầu, những gì tôi biết về năm phái và Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa chỉ gói gọn trong vài thông tin ít ỏi cục trưởng Lưu cung cấp. Dược Bất Nhiên thấy vậy liền dương dương tự đắc xòe năm ngón tay, huênh hoang đếm cho tôi nghe, “Vẫn có câu một nghề cho chín còn hơn chín nghề, hiện giờ Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa không chia nhỏ đến thế, nhưng trước đây, năm phái chúng ta chia ra nắm giữ năm dòng. Thanh môn chuyên về đồ gỗ, Hồng môn chuyên thư họa, Hoàng môn chuyên đồ đồng và minh khí, còn Huyền môn bọn tôi chuyên đồ sứ.”

Nghĩ tới hai chữ “tố đỉnh”, tôi buột miệng, “Lẽ nào nhà họ Hứa là Bạch môn, chuyên kim thạch và đồ ngọc?”

Quả thực nhà chúng tôi sở trường về kim thạch và đồ ngọc. Đây cũng là nguyên nhân Tố đỉnh lục chỉ đề cập đến việc giám định hai loại này chứ không hề nhắc tới những đồ gốm sứ hoặc đồng điếu.

“Đúng thế. Vừa rồi đấu khẩu bằng đồ ngọc, chú mày lấy sở trường thắng sở đoản của anh thì có gì hay, nói cho mà biết anh đây chưa thua đâu.”

Nhìn thái độ hậm hực của Dược Bất Nhiên, tôi chợt thấy buồn cười. Gã này nói năng thì lấc cấc nhưng tính tình lại hảo sảng, xem ra không phải kẻ xấu, quá lắm là hạng trâm anh thế phiệt bản tính ngông nghênh thôi.

“Ông anh con dòng cháu giống, trong khi tôi có thần có thế gì để dựa dẫm đâu.” Tôi đưa mắt nhìn giáo sư Trịnh, ý nói gã chẳng qua có người chống lưng.

Dược Bất Nhiên cáu, “Phì! Anh đây thi vào đại học Bắc Kinh còn thừa mười mấy điểm đấy, đừng có mà so với hạng con ông cháu cha lêu lổng!”

Gã này thật dễ moi chuyện, tôi chưa dứt câu gã đã tông tốc khai ra cả điểm thi đại học rồi, đúng là thẳng ruột ngựa…

Tôi nhìn những cao ốc vùn vụt trôi ngược hướng ngoài cửa xe, lòng chợt hoang mang. Thời đại nào rồi mà còn xảy ra những chuyện như phim kiếm hiệp thế này? Giữa Bắc Kinh hiện đại hóa, vẫn còn tồn tại năm gia tộc cổ xưa, cứ thấy ảo ảo sao đó.

Trong lúc lời qua tiếng lại, xe đã đến một con đường nhỏ rợp bóng cây trước Phan Gia Viên, rồi không chạy tiếp được nữa. Trên đường tấp nập toàn người là người. Chỗ này ở ngay ngoài rìa Phan Gia Viên, chủ yếu tụ tập hàng rong bán đồ ăn thức uống và những thương lái không vào trong được, đành loanh quanh tìm vận may bên ngoài. Ba người chúng tôi xuống xe, gạt sang bên một tay sán đến mời mua da chồn Đông Bắc rồi đi bộ vào.

Phan Gia Viên là đất báu phong thủy ở Bắc Kinh, đã phát đạt nhiều năm. Xét trên phương diện phong thủy, phía Đông Nam thủ đô khí nên lưu chuyển không nên tích tụ, nhưng nơi này lại án ngữ quẻ Đoài - quẻ Đoài thuộc về sông ngòi ao hồ, nước đọng thành hồ. Vì vậy Phan Gia Viên tụ nước chứ không tụ khí, vừa hay ứng với tượng đất di chuyển. Đất di chuyển chẳng là văn vật đó ư?

Ngoài ra còn một nguyên nhân thực tế khác: Phan Gia Viên gần văn phòng hành chính Thiểm Tây và Hà Nam đặt tại Bắc Kinh, hai tỉnh này đều là mỏ đồ cổ và vật tùy táng, người qua kẻ lại đa phần tụ tập ở đây, gió tụ nước, tiền tụ người, lâu ngày thành ra chốn buôn bán sầm uất.

Hôm nay là ngày nghỉ nên đặc biệt nhộn nhịp, quán xá hai bên đường và mấy dãy hàng rong đều bày ra nghênh ngang, bán nào sách cổ, tranh chữ, đồ cổ minh khí và đủ thứ láo nháo, la liệt hoa mắt, nhìn mãi không chán. Người qua lại nườm nượp, cả già lẫn trẻ, nhìn bề ngoài lưu manh sừng sỏ có, tay mơ muốn trục lợi cũng có, thậm chí còn có cả mấy gã Tây mũi lõ mắt xanh tóc vàng cầm máy ảnh chụp tanh tách. Phóng mắt nhìn quanh, đúng là một đám đông nhốn nháo.

Còn rất nhiều nông dân từ Thiểm Tây, Hà Nam xa xôi lặn lội đến đây, đứng dưới chân tường xó nhà, mặc quân phục rách, chân xỏ giày vải, giơ những món đồ mới quật lên còn lem luốc bùn đất hầm mộ mời chào khách qua đường - có điều mười món thì đến tám chín là giả.

Giáo sư Trịnh đứng ngay dưới bức chiếu bích ở cửa vào, nhìn đồng hồ tuyên bố hiện giờ là mười rưỡi sáng, hạn cho chúng tôi ba tiếng, đến một rưỡi thì tập trung lại đây đem theo đồ mua được, ông ta sẽ định giá công bằng. Đều là người trong nghề, giá cả ra sao chỉ thoáng trông là biết, chẳng ai gạt được ai.

Tôi và Dược Bất Nhiên nhìn nhau, không hẹn mà cùng hừ một tiếng, đi về hai hướng trái phải. Tôi không chạy, bởi trông sẽ có vẻ nóng vội, có lẽ Dược Bất Nhiên cũng nghĩ vậy. Bởi thế cả hai đều khoan thai mà bước, ba bước ngoái đầu một lần, chỉ sợ đi nhanh hơn đối phương lại mất phong độ. Được mười mấy mét, tôi thình lình quành lại.

“Sao thế?” Giáo sư Trịnh hỏi.

“… Trong người tôi không có nhiều tiền mặt, ông cho tôi vay một ít được không?”

Thông thường tôi ít khi giắt túi quá năm mươi tệ chứ đừng nói đến hai nghìn tệ tiền cược… Giáo sư Trịnh phì cười, đưa đủ cho tôi hai nghìn, Dược Bất Nhiên chẳng biết đã chạy tít đằng nào.

Vét đồ trong thời gian nhất định cần thể lực, cũng cần cả kỹ thuật. Trước tiên phải nghĩ kỹ xem muốn tìm loại hàng gì, có vậy mới tìm được trong thời gian quy định, không hoa mắt vì chọn lựa quá nhiều.

Lựa chọn của tôi rất đơn giản, vẫn là sở trường: đồ kim thạch và đồ ngọc, thậm chí hẹp hơn, đồ kim thạch thôi. Bởi so ra, xác suất mót được đồ kim thạch vẫn cao hơn các loại đồ khác, ví như gạch Tần, ngói Hán hoặc bia vỡ thời Bắc Ngụy vân vân, thường lẫn trong đống gạch ngói kê chân bàn ở tiệm, không phải người trong nghề khó mà nhận ra nổi. Đồ ngọc thì khác, kẻ gà mờ đến đâu chăng nữa, thấy pho tượng ngọc, dù là giả cũng cho rằng đáng tiền.

Bởi vậy giới buôn đồ cổ có câu rằng, “đá thật chẳng bằng ngọc giả”, không phải ý nói đồ kim thạch không đáng tiền bằng đồ ngọc, mà là dân thường dễ nhìn ra giá trị của đồ ngọc hơn, nên khó thu mua.

Chọn được loại hàng rồi lại phải tính xem nên tìm ở đâu. Phan Gia Viên quá rộng, phải đến mấy trăm gian hàng, nếu lần lượt đi từng gian thì không sao kịp. Nhất định phải quyết nên dạo hàng rong hay vào cửa tiệm. Tuy đồ ở hàng rong rồng rắn hỗn tạp, lẫn lộn nhiều hàng giả, nhưng nếu may mắn vớ được đồ ngon sẽ có thể mua với giá rẻ hơn trong tiệm nhiều.

Đồ trong tiệm được bảo đảm chất lượng, nhưng chủ tiệm đa phần cũng là người trong nghề, đặt giá rất sát, khó mà mua được đồ tốt giá hời.

Cân nhắc một hồi, tôi quyết định vẫn nên tìm trong tiệm thì hơn.

Dược Bất Nhiên tự xưng là người Huyền môn, hẳn sẽ chú trọng tìm đồ gốm sứ. Giá đồ gốm sứ thường không như đồ kim thạch, cái quý thì cực quý, cái rẻ thì như rơm rác, thứ giá cả tầm tầm thì khá ít, nên khoản tiền hai nghìn tệ chẳng khác nào làm khó gã, đồ tốt thì mua không nổi, còn những thứ vớ vẩn có mà mua được cả xe.

So ra thì giá đồ kim thạch lại xêm xêm nhau, thời nào giá nấy, cao thấp trung bình rõ ràng cả. Hai nghìn tệ của giáo sư Trịnh, chỉ cần nhắm chuẩn hạng, ra tay ắt không lệch đi đâu được - miễn là đồ thật, điểm này tôi tự tin tuyệt đối.

Hôm nay trời hơi nóng, bụi đường bốc lên mù mịt. Tôi mua một lon nước ngọt cầm trong tay chen chúc giữa đám đông, mồ hôi đầm đìa. Băng qua mấy dãy toàn sạp hàng rong và lều lán dựng tạm vang tiếng hò hét ầm ĩ, tôi liếc qua thấy toàn hàng giả, chẳng bõ dừng chân. Thậm chí tôi còn tận mắt chứng kiến một tay trung niên dáng vẻ nho nhã bị lừa ngay giữa thanh thiên bạch nhật, móc cả xấp đại đoàn kết* dày cộp đổi lấy một chiếc “lò Tuyên Đức” - hiềm nỗi chân lò hơi ánh xanh, rõ ràng trong lúc làm giả đã bỏ chì quá tay.

Ý chỉ tờ một trăm tệ, ở bản in trước, tờ một trăm tệ có in hình bốn người Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Đức. Gọi chung là bốn vĩ nhân hoặc đại đoàn kết. Về sau tuy đã đổi hình khác, nhưng người ta vẫn gọi là tờ đại đoàn kết.

Có điều tôi cũng chẳng lên tiếng can ngăn. Một là tôi không rảnh, hai là vét hàng cũng có quy định riêng, không mời thì không giám định, nếu không được nhờ vả, dù tận mắt thấy có kẻ bán đồ giả cũng không được nói, nói ra là phá việc làm ăn của người ta.

Ai có duyên phận nấy, mong rằng sau này tay trung niên bị lừa kia sẽ mua được một chiếc lò Tuyên Đức thật.

Dạo mấy vòng quanh các sạp hàng rong, vẫn chẳng nhắm được gì, tôi bèn theo kế hoạch ban đầu, đi thẳng về phía mấy tiệm đồ cổ.

Dọc theo bờ tường là dãy cửa tiệm màu lam xám trổ một cửa chính một cửa sổ, trong tiệm chia thành hai gian trong ngoài, ngoài bày hàng, trong là phòng khách, chỉ khách sộp mới được mời vào dùng trà đàm đạo. Nhà nào nhà nấy đều treo bảng vàng trên cửa, có nhà còn giăng cả biển quảng cáo. So với sạp hàng rong, nơi này đẳng cấp và quy củ hơn, ít thấy những kẻ vô công rồi nghề lượn lờ, chủ yếu chỉ có dân sưu tầm chuyên nghiệp hoặc thương lái.

Tôi sửa lại cổ áo, lững thững dạo qua. Chủ tiệm ở đây đều thuộc hạng cú vọ, vừa thấy mặt tôi, hỏi han thêm vài câu là biết cùng hội cùng thuyền. Cùng nghề không nói bỡn, nên họ cũng chẳng vồn vã mời chào như với gà mờ mà mặc cho tôi tự xem.

Tòi không xem đồ ngọc, cũng chẳng màng đồ sứ mà chỉ loanh quanh ngắm nghía đồ kim thạch. Từ tượng đất thời Hán đến bia đá thời Ngụy, từ nghiên mực đời Tống đến đồ đồng đời Minh Thanh, thật có giả có, tôi đều xem qua một lượt. Xem xong cũng chẳng nói chẳng rằng, gật đầu chào chủ tiệm rồi chắp tay sau đít đi ra. Đây gọi là hàng đọ ba nhà, ra cửa chưa chắc đã là không vừa ý, biết đâu xem một vòng lại quành về. Thế nên chủ tiệm đồ cổ không như nhân viên cửa hàng mậu dịch quốc doanh hễ thấy khách không mua gì là sưng cái mặt lên.

Tôi cứ thế thong thả dạo đến tiệm thứ năm mới thấy một món hàng tốt. Cửa tiệm này tên Thụy Tương Phong, ngoài cửa đặt đôi quang gánh màu vàng ngả đỏ, cung cách hơi giống quán rượu ở quê. Lúc tôi bước vào, chủ tiệm đang dựa tường ngủ gật. Chuyện trò vắn tắt đôi câu, ông ta bèn để mặc tôi tha hồ xem xét.

Nhìn khắp giá hàng thấy chẳng có gì đặc biệt đáng mua. Theo thói quen, tôi nhìn quanh một vòng, chợt nhận ra phòng trong phòng ngoài ở tiệm này không có cửa ngăn mà treo một bức rèm, che được mỗi nửa trên. Chỉ hơi khom lưng, tôi đã thấy hết quang cảnh bên trong.

Cạnh chiếc xô pha đặt một món gì đó đen sì, định thần nhìn kỹ mới nhận ra là hai pho tượng đầu Phật, tôi không khỏi thích thú.

“Ông chủ, cho tôi xem Phật đỉnh kia được không?”

Nghe tôi hỏi, chủ tiệm “ừm” một tiếng rồi chui vào trong, chẳng bao lâu đã ôm hai pho tượng ra.

Người buôn bán đa phần tin Phật, mà đầu Phật lại hàm ý bị chém đầu, cực kỳ gở, nên khi mua bán phải nói trại thành Phật đỉnh. Thực ra trước đây chẳng ai mua bán đầu Phật, mãi đến cuối thời Thanh đầu Dân Quốc người ta thích tượng Phật, món này mới phất lên. Cho đến ngày nay, đầu Phật chủ yếu vẫn chỉ có người ngoại quốc mua đi bán lại, trong nước ít người chuyên môn chơi thứ này.

Đầu Phật là một ngành hàng lớn trong phân khúc đồ kim thạch, cũng là thứ được nhắc đến nhiều nhất trong Tố đỉnh lục. Có điều vì ít người mua bán nên tôi không hiểu rõ lắm, chỉ biết đại khái mà thôi.

Săm soi hồi lâu, tôi chọn được một cái. Là đầu Phật Thích Ca Mâu Ni, vừa bằng đầu đứa bé con, mang phong cách Thịnh Đường điển hình. Mái tóc đức Phật búi cao như xoắn ốc, mũi cao tai lớn, môi đầy má rộng, đuôi mắt dài nhếch lên, con ngươi nhìn xuống. Tôi giơ tay sờ gương mặt Phật, thấy chất đá xanh mướt, có nhiều vết nứt tự nhiên, xem ra đã dãi dầu mưa nắng nhiều năm, trong khe nứt còn thấy cả vệt rêu xanh.

Đầu Phật này hẳn là vật thời Vãn Đường, giá thị trường khoảng hai ba nghìn tệ, nhưng giá trị thật của nó không chỉ có thế. Chủ tiệm tùy tiện bày nó cạnh xô pha, xem chừng không ý thức được giá trị. Cơ hội của tôi đây rồi.

“Ông anh kiếm được món này ở đâu thế?” Tôi hỏi.

“An Huy. Từ họ Tôn. Hàng thời Vãn Đường đấy, thật trăm phần trăm.”

Mua bán đồ cổ còn phải xét lai lịch. Tấm gương đồng quật ra từ mộ vương hầu thời Hán khác hẳn tấm nhặt được từ kháng đất nhà một người trong thôn, giá cả cũng chênh nhau trời vực, nên nhất định phải hỏi cho rõ ràng. Đồ mua từ nhà dân quanh vùng gọi là từ họ Tôn, mua lại của khách đem đến bán, gọi là từ họ Tang, tự đào được dưới đất hoặc trong mộ, gọi là từ họ Đồng. Đều là cách nói cũ, còn vì sao lại dùng ba họ ấy làm tiếng lóng thì chẳng ai giải thích được. Sau giải phóng, người ta không dám khơi khơi nhắc đến họ Đồng nữa, dần dần gộp làm một cùng họ Tôn.

Vừa nghe là từ họ Tôn, tôi hiểu ngay món này mua được của nông dân trong vùng - bởi xưa nay chưa nghe nói ai dùng đầu Phật làm đồ tùy táng bao giờ.

Tôi gật gù rồi im lặng đẩy cửa bước ra. Loanh quanh thêm lúc nữa cũng chẳng ngắm được món nào vừa mắt hơn. Tôi lại vòng về Thụy Tương Phong, thấy đầu Phật vẫn ở đó, bèn trỏ ông chủ, “Tôi thỉnh Phật đỉnh này, chắc giá đi.”

Chắc giá là phát giá đúng một lần, không nói thách. Người cùng ngành với nhau thường mua bán thẳng thắn dứt khoát, không có trò tung hỏa mù như bán cho người ngoài. Ông chủ nhướng mắt nhìn tôi rồi lờ đờ đáp, “Bán giá nội bộ nhé, hai cây.”

Đây là tiếng lóng, ý nói hai nghìn tệ. Tôi lắc đầu, “Đem tặng thôi, đắt quá. Bớt nửa cây đi.”

Ông ta giơ hai ngón tay, ý ràng chỉ bớt hai trăm.

Tôi lại nài thêm một trăm, cuối cùng chốt giá một nghìn bảy trám tệ. Tôi tỉnh bơ nhờ chủ tiệm tìm giùm hộp đựng, ông ta lục lọi sau quầy một lúc, cuối cùng lòi ra một hộp bánh ga tô bỏ đồ vào. Đầu Phật nằm ngửa mặt, cặp mắt Phật vô thần chăm chăm hướng lên trời qua lớp giấy kính, trông hơi rợn.

Tôi chào ông chủ, xách hộp rời tiệm, xem đồng hồ thấy đã gần một giờ, bèn đi thẳng ra cửa Phan Gia Viên.

Lúc này Phan Gia Viên còn đông hơn ban sáng, hệt một chiếc xe buýt lèn chặt cứng, nhung nhúc người là người. Tôi đành giơ hộp bánh ga tô lên đầu, chen vai thích cánh lách ra. Người xung quanh đều đố dồn mắt vào tôi vẻ nghi hoặc, không hiểu sao gã này lại bưng hộp bánh ga tô chen lấn giữa khu chợ đồ cũ.

Người đông như kiến, tôi vừa giữ đầu Phật trên đầu, vừa phải để ý tránh sạp hàng rong dưới chân, kẻo lỡ giẫm vỡ đồ gì bị tóm lấy bắt đền thì gay. Cả người cứ lắc lư chao đảo như đi trên dây, vừa đi vừa lách như thế, cuối cùng tôi cũng chật vật chen được qua ngã tư, trông thấy bức chiếu bích ngay cửa Phan Gia Viên trước mặt.

Đúng lúc này, một ông bác ôm mấy cuộn tranh chữ liêu xiêu đi đến, loạng choạng ngã ngay gần tôi, chỉ cách chừng hai mét. Kẻ đứng cạnh lật đật cúi xuống đỡ, nào ngờ mông lại huých phải người đằng sau khiến người ta ngã nhào, giẫm cả vào giày một người khác. Chuỗi phản ứng dây chuyền ấy làm tất cả loạn lên, nháy mắt đã có mấy người ngã lăn, tiếng kêu la đồng loạt cất lên.

Trái xô phải đẩy, tôi tuột tay đánh rơi hộp bánh ga tồ, ngã bịch xuống đất. Đến khi hoảng hốt bật dậy, dáo dác nhìn quanh đã thấy hộp bánh nằm chỏng chơ giữa đống sách cũ, bung cả nắp gài, đầu Phật lộc cộc lăn dọc theo đống sách, đập cốp xuống mặt đường nhựa.

Tôi lồm cồm bò dậy lao đến nhặt lên xem, thấy sau gáy rạn một vết thì tiếc đứt ruột, thế này giá ít nhất cũng giảm mất một cây. Nhưng thời gian sắp hết, tôi chẳng kịp xử lý, đành quơ lấy kẹp vào nách, đi thẳng đến bức chiếu bích.

Dưới chân chiếu bích, giáo sư Trịnh và Dược Bất Nhiên đã chờ sẵn. Gã hí hửng nhìn tôi, “Chậc chậc, lấm như trâu đầm thế kia, vừa đi đào hàng tươi à?”

Tôi phớt lờ gã, đặt đầu Phật xuống đất thở hồng hộc. Giáo sư Trịnh vỗ tay, “Hay lắm, hai người đều về trước một giờ. Cậu Nhiên mua được gì thế?” Dược Bất Nhiên lấy trong ngực áo ra một chén sứ đưa cho giáo sư Trịnh. Chén này miệng rộng, lòng sâu, đế khuyên tròn, là loại chén nón đặc trưng. Nước men xanh xám, chân đế để trần không tráng men, ngả màu xám trắng. Giáo sư Trịnh đẩy gọng kính săm soi hồi lâu rồi ngẩng lên hỏi Dược Bất Nhiên, “Gốm Đồng An thời Tống à?”

“Thầy tinh mắt quá, đúng là chén nón men xanh vẽ hoa lò Đồng An thời Tống.” Dược Bất Nhiên đáp, chêm cả một câu, “Người khác có khi lại khăng khăng là gốm Long Tuyền ấy chứ.”

Gã chọn cũng khéo thật. Gốm Đồng An bắt nguồn từ Phúc Kiến, không lừng danh như mấy loại Sài, Nhữ, Quân, Định nhưng xưa nay luôn được người Nhật lùng mua, thuộc loại hàng tốt giá mềm. Giáo sư Trịnh đắn đo giây lát rồi định giá ba nghìn rưỡi tệ. Dược Bất Nhiên gật đầu cười, lại móc trong túi ra mười tờ đại đoàn kết.

Thì ra hôm nay gã số đỏ, vớ được một tay đầu gỗ ôm di vật của bố đến Phan Gia Viên thử vận may, sốt sắng muốn bán bèn bị Dược Bất Nhiên tóm lấy. Gã múa mép dăm câu ba điều đã gạt được tay kia, cuối cùng mua chiếc chén này chỉ mất một nghìn tệ. Tay đầu gỗ kia còn mừng húm tưởng mình vớ bở.

Tính ra trừ tiền vốn thì Dược Bất Nhiên kiếm được cả thảy hai nghìn rưỡi.

“Không phải bốc phét chứ, thằng lỏi ấy thoạt nhìn đã biết là phá gia chi tử, tôi chỉ thay ông già nó dạy cho nó bài học thôi.”

Giáo sư Trịnh quay sang hỏi tôi có ý kiến gì về mức giá này không. Tôi lắc đầu, tỏ ý giá thế là rất công bằng rồi đưa đầu Phật ra. Hai người họ đã thấy tôi cầm đầu Phật đi đến nên chẳng hề ngạc nhiên. Giáo sư Trịnh bưng đầu Phật lên ngắm nghía còn Dược Bất Nhiên khoanh tay trước ngực, khinh khỉnh nhịp chân.

Gã mạnh mồm cũng phải, đầu Phật của tôi thoạt nhìn quả thực chỉ tầm tầm, không sao bì nổi chén nón Đồng An.

Giáo sư Trịnh xem xét hồi lâu rồi ngẩng lên, “Cậu Nguyện, đầu Phật này theo phong cách Vãn Đường, tôi áng chừng khoảng nghìn rưỡi đến hai nghìn tệ, cậu thấy sao?”

Tôi đã lường trước ông ta sẽ hỏi vậy, bèn cười nói, “Tôi không cho là vậy đâu, giáo sư xem lại đi.”

Giáo sư Trịnh biết tôi đã dám nói ra câu này, ắt đầu Phật phải có điểm đặc biệt gì đó nên lại chăm chú xem kỹ. Dược Bất Nhiên đứng bên châm chọc, “Chịu thua mẹ nó đi chày cối mà làm gì, người thua anh đây xếp hàng từ Thái Thị Khẩu sang tận Vĩnh Định Môn cơ, không phải mình chú đâu.”

Tôi lặng thinh đợi đánh giá, mặc gã khích bác. Giáo sư Trịnh săm soi thêm mười phút rồi đặt xuống, thở hắt ra, “Thứ cho tôi mắt kém, không thấy gì đặc biệt cả.” Dược Bất Nhiên bơm thêm, “Có gì đặc biệt đâu, chẳng qua cậu ta sợ thua nên gạt thầy đấy thôi.”

Tôi cười đáp, “Phiền giáo sư xem chỗ này.” Đoạn xoay đầu Phật lại, trỏ vết nứt sau gáy. Giáo sư Trịnh ồ lên, ghé mắt ngắm nghía, còn sợ nhìn không rõ, phải móc kính lúp ra soi. Thấy giáo sư Trịnh chăm chú quan sát, Dược Bất Nhiên cũng chột dạ, song không hề hé răng, chỉ nhìn chằm chằm đầu Phật hòng tìm ra manh mối.

Lần này giáo sư Trịnh săm soi mất hai mươi phút mới ngẩng lên thở dài, “Cậu Nguyện nói không sai, vừa rồi đúng là tôi hoa mắt bò sót.” Đoạn quay sang bào Dược Bất Nhiên, “Ván này cậu thua rồi.”

“Đầu Phật chứ có phải đầu đạn hạt nhân đâu, sao bảo tôi thua được!” Dược Bất Nhiên vừa nghe đã nhảy dựng lên phản đối.

Giáo sư Trịnh ra hiệu cho gã bình tĩnh đừng nóng rồi quay sang tôi, “Hay cậu giải thích cho cậu ta đi?”

“Nói thẳng ra thì cũng không có gì.” Tôi mào đầu bằng một câu quen thuộc rồi tiếp, “Giám định đầu Phật, ngoài kiểu dáng và chất liệu, quan trọng nhất là phải xem mặt cắt ở cổ. Từ hình dạng mặt cắt, có thể đoán được tư thế pho tượng, từ đó mới xác định được giá trị.”

Dược Bất Nhiên bưng đầu Phật tôi mua, lật qua lật lại xem xét, song vẫn không thấy gì đặc biệt. Tôi bèn chỉ vào mặt cắt ở gáy, “Anh xem, mặt cắt của đầu Phật này rất phẳng, mé phải có rãnh nông dài mà hẹp, màu đá hơi khác những phần khác. Chứng tỏ kẻ trộm nó cực kỳ thành thạo, dùng xẻng sắt đặc chế chém vào mé phải cổ một nhát ngập hẳn, sau đó bẩy khẽ là đục được đầu Phật ra.”

Dược Bất Nhiên cứng họng, chăm chú nghe.

“Rãnh xẻng trước nông sau sâu, chứng tỏ tên trộm đứng bên phải tượng Phật chém từ trên xuống. Nếu là tượng Phật đứng thông thường, tên trộm sẽ chém ngang từ mé trái hoặc mé phải sang, rãnh xẻng cũng phải thẳng mới đúng. Rãnh trước nông sau sâu, hơi chếch về bèn phải, chứng tỏ hai bên tượng Phật có chướng ngại vật, nên hắn bất đắc dĩ phải bổ từ trên xuống. Bởi vậy pho tượng này không phải tượng đứng, mà là tượng ngồi, hơn nữa tay phải còn giơ nửa chừng, chắn mất không gian hoạt động của tên trộm. Trong Phật giáo, Phật tổ Như Lai chỉ giơ tay phải, ngón tay tạo thành hình hoa lan trong tình huống nào?”

“Tọa đàn thuyết pháp…” Dược Bất Nhiên lẩm bẩm.

“Đúng thế! Trong tạo hình này, miệng Phật tổ nửa khép nửa mở để thuyết pháp giảng kinh cho muôn vạn người nghe. Đầu Phật này môi đầy đặn, trên rộng dưới thon, quả là hình trạng nửa khép nửa mở, phù hợp với rãnh xẻng sau cổ, chứng tỏ suy đoán của tôi đúng.”

Vậy là đủ, chẳng cần nhiều lời. Tượng Phật ngồi thời Đường cực kỳ hiếm gặp, tượng Phật tổ giảng kinh lại càng hiếm. Đầu Phật tôi săn được đục xuống từ pho tượng Phật ngồi giảng kinh, e rằng giá trị phải gấp mấy lần đầu Phật bình thường. Giáo sư Trịnh định giá lại lần nữa, cuối cùng chốt sáu nghìn, trừ đi một nghìn bảy tiền vốn thì tôi lãi bốn nghìn ba, vượt xa hai nghìn rưởi của Dược Bất Nhiên.

Ván cược này, tôi thắng áp đảo.

Nghe giáo sư Trịnh tuyên bố kết quả, Dược Bất Nhiên ngượng chín mặt. Gã đảo mắt như rang lạc, trước là trừng mắt với tôi, rồi liếc sang giáo sư Trịnh, lại vờ lơ đãng đút tay túi quần nhìn người qua kẻ lại. Thua ván này, gã phải giữ lời về sau không được đến quấy phá tôi nữa.

Tôi cũng chỉ im ỉm, nheo mắt cười nhìn gã. Bị tôi nhìn mãi, gã phát cáu, hắng giọng trợn mắt nhìn bảng hiệu sau lưng tôi, nghiêm trang nói, “Thua thì thua, nhà họ Dược không ai nuốt lời cho béo. Cái chén nón này tặng chú…” Dứt lời gã quay đầu đi định huýt sáo làm bộ không để bụng, nhưng nghe như mèo hen kéo bễ.

Gã này đúng là sĩ diện, không chịu cúi đầu nhận thua. Tôi cũng chẳng định ép uổng gã, nhận lấy cái chén nhét vào túi áo. Theo một già một trẻ này chạy đôn chạy đáo quá nửa ngày trời, lấy ít thù lao cũng đáng. Gã ta đã là người trong Huyền môn, lại có Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa đứng sau, tiền bạc ắt hẳn rủng rỉnh, tôi chẳng tội gì mà khách sáo.

“Ngón này của cậu cũng học từ Tố đỉnh lục ư?” Giáo sư Trịnh hỏi.

“Vâng. Muốn biết đầu Phật thật hay giả, nhiều khi chỉ cần nhìn rãnh xẻng. Trong Tố đỉnh lục gọi là ‘nghiệm xác Phật’, nghe hơi khiếp, đại khái giống với thủ pháp khám nghiệm tử thi của pháp y.”

Giới giám định và làm giả đầu Phật thường chỉ quan tâm tới tay nghề điêu khắc và chất đá giả cổ, bỏ qua chi tiết nhỏ này. Tay chủ Thụy Tương Phong và giáo sư Trịnh đều không để ý vị trí rãnh xẻng, coi thứ tôi vét được là đầu Phật thời Vãn Đường thông thường, suýt nữa đã nhìn lầm báu vật.

Giáo sư Trịnh trả đầu Phật lại cho tôi, hết lời khen: “Đám trẻ bây giờ chẳng được mấy ai tinh mắt như cậu Nguyện. Tài năng này sao đành chôn vùi trong cái tiệm tin hin ở Lưu Ly Xưởng chứ?” Tôi cười nhạt, “Mỗi người một chí. Tiệm tôi tên Tứ Hối Trai, đặt theo lời trăng trối của ông già là hối lỗi, hối người, hối việc, hối lòng nên tôi cũng chẳng có chí hướng gì to tát, chỉ muốn yên ổn kiếm tiền đủ sống.”

Thực ra tôi nói dối.

Từ khi được cục trưởng Lưu tiết lộ, tôi đâm ra vô cùng hứng thú với Minh Nhãn Mai Hoa và năm gia tộc đứng sau Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa. Nhất là nguồn gốc của môn phái liên quan đến họ Hứa nhà tôi. Vì sao dòng họ tôi lại sa sút? Sao bố tôi không bao giờ nhắc đến chuyện này? Sao cục trưởng Lưu biết rõ những việc này như vậy? Minh Nhãn Mai Hoa tập hợp lại có ý nghĩa gì? Tố đỉnh lục lai lịch ra sao?

Hàng loạt câu hỏi dồn dập như một đàn dế bụng căng xanh biếc ồ ạt nhảy ra từ miệng lồng cỏ vừa mở nắp, búng mình tanh tách xung quanh, khiến tôi chỉ muốn bắt từng con lại nhìn cho rõ ràng.

Nhưng cần phải thận trọng, không thể hấp tấp làm bừa. Hai người này tự xưng là người thuộc năm phái, nhưng rốt cuộc lai lịch thế nào tôi sao biết được, vậy nên không thể quá thân thiết, đợi tin từ cục trưởng Lưu đã. Trên đời hạng người gì cũng có, tám chữ bố tôi trối lại chính là lời cảnh cáo - người làm cha không đời nào hại con mình, ông không cho tôi chen chân vào nghề này ắt có dụng ý riêng.

Tôi nhận đầu Phật từ tay giáo sư Trịnh, thầm tính xem tiếp theo phải làm sao, ánh mắt vô tình liếc qua vết nứt mới sau gáy Phật, tim tôi bỗng nẩy lên.

Gay go! Không hay rồi!

Tôi vội gí mắt vào vết nứt hết nhìn rồi ngửi, mượn cả kính lúp của giáo sư Trịnh. Thấy tôi tái mặt, giáo sư Trịnh và Dược Bất Nhiên không hiểu gì bèn sán lại.

Thình lình tôi giơ đầu Phật lên quá đầu rồi đập mạnh xuống đất. “Kịch” một tiếng, đầu Phật đập thẳng xuống nền xi măng, vỡ thành mấy chục mảnh, khiến xung quanh ai nấy giật bắn mình, nháo nhác nhìn sang. Hai người kia cũng ngẩn ra trước hành động của tôi, Dược Bất Nhiên lập tức kéo giáo sư Trịnh ra sau lưng, hùng hổ quát, “Hứa Nguyện! Anh mày đã chịu thua rồi, còn muốn cái đếch gì nữa?”

Tôi gượng cười lắc đầu, “Không đâu, anh thắng rồi.”

“Thằng ranh này còn… Hả? Chú bảo sao?” Dược Bất Nhiên ngớ người.

“Anh thắng rồi. Tôi bị lừa, mua phải đồ giả không đáng một nghìn tệ…”

“Chú mày thương hại anh đây nên định nhường phỏng?” Dược Bất Nhiên hầm hầm như bị sỉ nhục, “Nói cho mà biết, anh mày thua thiệt nhiều rồi, thế này chưa là gì đâu.”

Giáo sư Trịnh cũng nhíu mày, “Cậu Nguyện, thế này là sao?” Tôi trỏ đống đá vụn dưới đất, “Giáo sư là chuyên gia, phiền ông xem thử mấy mảnh vụn này có gì lạ không.” Giáo sư Trịnh ngồi xuống nhón hai mẩu đá vê vê rồi ngẩng phắt lên, giọng kinh ngạc, “Đây là… đá cỏ?”

“Vâng.” Tôi tiu nghỉu.

Có một cách làm giả đầu Phật cực kỳ hiếm gặp, gọi là cỏ dập. Trong các loại đá có thứ đá cỏ khá mềm dẻo, lại dễ ngấm màu, rất hợp để khắc đầu Phật giả cổ, có thể nhái y đúc những vệt rêu và dấu phong hóa, cực khó phân biệt.

Tôi nhặt mấy mảnh vỡ lên giải thích, “Sơ hở duy nhất của phương pháp này là ở chất đá. Đầu Phật bằng sa thạch rất cứng, đập xuống đất sẽ vỡ làm bốn năm mảnh; còn hàng nhái đẽo bằng đá cỏ sẽ vỡ thành hàng chục mảnh vụn cạnh tù. Nếu không vô tình trông thấy mép của vết nứt mới, tôi cũng không phát hiện ra.”

Giáo sư Trịnh nghe tôi nói xong, thẫn thờ hồi lâu mới lên tiếng, “Hóa ra còn ngón làm giả như thế nữa, đúng là khó mà phòng hết được.” Tôi đáp, “Trước thời Dân Quốc, thủ pháp này gần như không hề sơ hở. Có điều giờ khoa học kỹ thuật phát triển, chỉ cần đo mật độ, phân tích thành phần bột đá là biết ngay.”

Giáo sư Trịnh thở dài, “Thì cũng phải nghi là giả mới đem đi giám định chứ. Đầu Phật này làm khéo như vậy, ai mà ngờ là đồ dỏm.” Tôi cười gượng, “Cũng phải. Nó đâu có nhằm vào người chơi đồ cổ bình thường, mà nhắm đến hạng chuyên gia nửa mùa như tôi đấy chứ. Sơ ý một tí là mắc lỡm ngay.”

Tay làm giả này cũng hiểm ra phết. Không chỉ dùng đá cỏ, mà còn cẩn thận xóa sạch mọi dấu vết đáng ngờ, ngay rãnh xẻng cũng khéo léo khắc y như thật, khiến đầu Phật trông hết sức tự nhiên, không mảy may sơ hở.

Giáo sư Trịnh đứng dậy phủi bụi đá trên tay, đột nhiên hỏi, “Đầu Phật này được làm giả rất tinh vi, nếu cậu không nói thì chẳng ai nhìn ra được - ít nhất là tôi và cậu Nhiên đều không biết gì về mấy tiểu tiết này. Sao cậu không đánh đã khai vậy?”

Tôi nghiêm túc đáp, “Bố tôi từng nói, gia huấn của nhà họ Hứa chỉ có một câu: ‘Thành thật không giả dối’. Thế nên sau khi làm nghề này, tôi đã tự đặt cho mình quy tắc không làm giả, cũng không bán đồ giả.”

“Thôi đi, quạ nào mà quạ chẳng đen. Anh đếch tin Tứ Hối Trai của chú không có hàng giả, thằng nào buôn đồ cổ chẳng nhúng chàm.” Dược Bất Nhiên bĩu môi ngờ vực.

“Trong tiệm tôi tuyệt đối không có hàng giả - ít ra theo con mắt tôi chọn thì không. Thua anh, tôi nhận. Nhưng tôi làm người có nguyên tắc, thành thật không giả dối.” Bị tôi hùng hồn độp lại, Dược Bất Nhiên giật mình so vai lầm bầm, “Anh mày thuận miệng nói thôi, cũng có phải sở Công thương đến kiểm tra cửa hàng đâu…”

Tôi nói tiếp, “Tôi đen bị lừa mua phải hàng giả đã đành. Nhưng đem nó đi lừa người khác thì không đời nào.”

Nghe tôi nói một tràng, giáo sư Trịnh xúc động nắm tay tôi gật đầu lia lịa, “Hay lắm, khí khái lắm! Cậu nên biết năm phái chúng ta từ khi lập nghiệp tới giờ vẫn chèo chống cả giới đồ cổ, chưa bao giờ dám lơ là. Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa giữ được uy tín đến nay, chính nhờ vào nguyên tắc quyết không làm giả ấy đấy.”

“Hứa Nguyện nói thật hay điêu chẳng biết, nhưng thầy Trịnh nói năm phái xưa nay không bao giờ làm giả thì hơi võ đoán rồi.” Dược Bất Nhiên thình lình chen vào một câu đầy thâm ý.

Giáo sư Trịnh nhíu mày vẻ thắc mắc. Dược Bất Nhiên hỏi tôi, “Chú mua đâu được cái đầu này thế?” Tôi đáp, “Tiệm thứ tư đếm từ kia sang, tên Thụy Tương Phong.” Dược Bất Nhiên đưa ngón tay quẹt mũi, khinh khỉnh, “Ha ha, mồm chó sao mọc được ngà voi, quả nhiên là bọn chúng.”

Tôi ngơ ngác nhìn sang giáo sư Trịnh, thấy ông ta cũng nghiêm mặt cau mày, bèn hỏi rốt cuộc là sao, Dược Bất Nhiên giải thích, “Chú thấy cái tên ấy mà không nghĩ ra à?”

Thụy Tương Phong… Thụy Tương Phong… Thụy Tương Phong.

Tương có nghĩa là màu vàng nhạt. Lẽ nào cửa hiệu ấy cũng thuộc năm phái, chính xác hơn là Hoàng môn?

Nhưng Hoàng môn chẳng phải chuyên đồ đồng điếu và minh khí ư? Sao lại bán đầu Phật? Đó là lĩnh vực của nhà chúng tôi mà.

“Ôi chao, đấy là chuyện xưa rồi. Từ khi đổi thành Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, phá bỏ thể chế gia tộc, năm phái cũng chẳng phân chia chuyên ngành rõ ràng như trước nữa mà bắt đầu có sự giao thoa.” Giáo sư Trịnh ngập ngừng một thoáng mới tiếp, “Sau khi cải tổ, có vài nhánh nhỏ đã phá bỏ quy tắc ‘chỉ xem không bán’, lén lút mua bán dựa trên phương pháp giám định của Hội.”

Dược Bất Nhiên tiếp lời, “Thầy Trịnh nói bóng bẩy quá, mua bán quái gì, rõ là lừa đảo. Lòng người ấy mà, hễ đụng đến lợi ích là xoay chiều ngay. Đầy người chỉ vì cái lợi bằng mắt muỗi mà sẵn sàng giẫm đạp lên quy củ. Thụy Tương Phong là sản nghiệp của Hoàng môn, tiếng thối lẫy lừng, không ngờ hôm nay lại lừa cả chúng ta.”

Hơ, từ lúc nào tôi và Dược Bất Nhiên lại thành “chúng ta” rồi.

“Đi, đi tìm chúng tính sổ. Hoàng môn ngang nhiên làm chuyện này, chẳng lẽ mấy lão già trong Hội mắt lấp tai ngơ hết à.” Dược Bất Nhiên tức tối vung tay.

Tôi thầm chột dạ. Không ngờ lần đánh cuộc này lại kéo cả Huyền môn lẫn Hoàng môn vào. Đầu Phật kia được làm giả rất tinh xảo, rõ ràng là do bàn tay người trong nghề. Cũng chỉ người trong tổ chức chuyên nghiệp với hàng trăm năm kinh nghiệm giám định như năm phái mới có tay nghề mô phỏng cao siêu như thế.

Giáo sư Trịnh tóm lấy cánh tay Dược Bất Nhiên, “Đừng nóng, giờ đầu Phật vỡ rồi, người ta chắc gì đã nhận. Huống hồ cậu xông đến chỗ họ cũng không hợp lẽ. Tôi thấy nên mời người trong ban trị sự đứng ra phân xử thì hơn.”

“Chờ được vạ thì má đã sưng!” Dược Bất Nhiên gắt lên, “Vỡ thì vỡ, sợ cái gì? Đá cỏ là đá cỏ, sa thạch là sa thạch, gom hết mảnh vỡ đem đến đập vào mặt chúng, chúng dám chối chắc?”

“Hay là thôi…” Tôi bàn lùi.

Mua đồ cổ không giống như vào cửa hiệu mua đôi giày da, không ưng thì đem trả. Người trong ngành này đều biết câu “tiền trao cháo múc, bước chân đi cấm kỳ trở lại”. Hễ đã trả tiền rời tiệm thì đồ là của mình, bất luận thật giả tốt xấu đều không thể đổi trả. Nếu xúi quẩy mua phải đồ rởm là do mình có mắt như mù, không liên quan đến chủ tiệm. Chỉ đám gà mờ mới có trò mua nhầm đồ rỏm đòi trả lại.

Huống hồ tôi linh cảm chuyện này liên quan đến ân oán nhiều năm trong nội bộ Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, không nên dính vào thì hơn.

Thấy tôi không mặn mà, Dược Bất Nhiên nóng nảy túm cổ áo tôi: “Đầu chú mày để trồng hoa à? Mấy nghìn tệ đấy. Vênh vang xưng là người trong nghề mà lại để nó lừa, đồn ra ngoài còn mặt mũi nào nữa hả?”

“Tôi chỉ mở một cửa hiệu nhỏ chẳng có tăm tiếng gì, mất mặt cũng chẳng sao.” Thêm một việc chẳng bằng bớt một việc.

Dược Bất Nhiên hầm hầm vung tay, “Hôm nay anh mày thua chú, nếu chú mày bị lừa thì chẳng hóa ra anh thua thằng đầu đất à! Được, không ai đi tôi tự đi! Ông đây nhất định bắt chúng đền!” Dứt lời gã xô tôi ra, quay ngoắt người hùng hổ đi thẳng đến Thụy Tương Phong.

Tôi và giáo sư Trịnh ngẩn ra nhìn nhau, giáo sư Trịnh nói, “Tôi phải theo xem thế nào. Nhiên nó thẳng ruột ngựa, e sẽ làm loạn lên mất. Những cửa tiệm này dây dưa phức tạp, đều có thế lực chống lưng, không khéo một cái là chuốc vạ vào thân.”

Dứt lời ông ta lật đật chạy đi. Tôi thầm nghĩ Dược Bất Nhiên tuy nóng nảy nhưng cũng là người thẳng thắn hiếm thấy, giờ gã đi cãi lý với người của Thụy Tương Phong suy cho cùng là ra mặt thay tôi. Nếu tôi khoanh tay đứng nhìn kể cũng khó coi.

Nghĩ vậy, tôi cúi đầu nhặt đống mảnh vỡ bỏ vào túi ni lông rồi xách túi chạy đến Thụy Tương Phong. Vừa đến cửa đã nghe tiếng cãi cọ gay gắt, bụng nhủ thầm, tay Dược Bất Nhiên này gớm thật, vừa xông vào chưa đầy hai phút đã làm ầm lên rồi.

Đẩy mở cửa, cảnh tượng đập vào mắt khiến tôi sững sờ.

Hóa ra không phải cãi cọ, mà là bên chửi bên nghe. Dược Bất Nhiên chống nạnh chửi sa sả, nước bọt văng tung tóe. Tay chủ tiệm bán đầu Phật cho tôi thì khom lưng gật như bổ củi, chẳng khác học sinh cấp một làm thiếu bài tập. Giáo sư Trịnh đứng một bên, vẻ bất lực.

Thấy tôi bước vào, Dược Bất Nhiên cười nhạt bảo tay chủ, “Khổ chủ thỏ đế đến rồi kìa. Ông định xử lý thế nào đây? Nói nghe.”

Tay chủ rối rít phân bua, “Cậu hai Nhiên ơi, tôi không tự quyết được chuyện này đâu.”

Nghe cách gọi này đủ thấy vai vế Dược Bất Nhiên không phải vừa, chủ tiệm ngoài bốn mươi còn phải gọi gã là cậu hai.

Dược Bất Nhiên trừng mắt, “Câm mõm! Không tự quyết? Thế bán đồ giả thì ông tự quyết được phỏng? Có biết chuyện này nghiêm trọng thế nào không?”

“Tôi chỉ trông tiệm thôi mà. Bề trên đưa gì tôi bán đó, có việc gì cậu cứ bảo ông Hoàng ấy.” Tay chủ cười giả lả.

Tôi nhận ra ngay hắn đang đánh trống lảng. Bất luận Dược Bất Nhiên nói gì hắn đều chối đây đẩy, trả lời kín kẽ song nghe kỹ chẳng có thông tin nào hữu dụng.

Dược Bất Nhiên lôi tôi qua, “Người này vừa mua đầu Phật ở chỗ ông đúng không?”

Chủ tiệm gật đầu.

“Cửa hàng trong Hội có quy tắc không được bán đồ giả, đúng không?”

Tay chủ vừa nghe đến chữ Hội tức thì cụp mắt, nhưng ngay sau đó lại bình thản như thường, gật đầu.

“Cái đầu Phật đó chạm bằng đá cỏ, hàng giả một trăm phần trăm, ông giải thích thế nào đây?”

“Tôi chỉ là chân trông tiệm, bề trên đưa gì bán đó, có việc gì cậu cứ bảo ông Hoàng ấy.” Hắn vẫn bổn cũ soạn lại.

“…”

Dược Bất Nhiên cáu điên, chìa túi mảnh vỡ ra, “Chứng cứ đây, ông tự xem đi!”

Chủ tiệm liếc qua rồi cười xòa, “Vỡ vụn thế này, tôi đây mắt kém không nhìn ra được gạch Tần hay ngói Hán đâu ạ.”

Gặp phải hạng người này đúng là hết cách. Dược Bất Nhiên mặt đỏ gay vì giận, siết chặt nắm tay, đang định nổi xung thì giáo sư Trịnh bước lên ấn vai gã thì thầm, “Đừng gây gổ nữa. Chẳng qua là tay chân của nhà họ Hoàng thôi, cậu chửi chúng thì được cái gì? Cứ để Hội giải quyết đi.”

Chủ tiệm bồi thêm, “Về sau cậu hai Nhiên nhớ chọn bạn mà chơi kẻo lại bị liên lụy.”

Thấy Dược Bất Nhiên giận tím mặt, tôi vỗ vai gã, “Cứ để tôi.” Gã vặc, “Chú mày giải quyết nổi không?” Tôi cười, “Tôi vốn định bỏ qua, nhưng nếu bị ức hiếp quá thì cũng không phải hạng dễ bắt nạt đâu.”

Đoạn tôi đi đến trước mặt tay chủ tiệm. Hắn tưởng tôi muốn đôi co đang tính tiếp tục cãi chày cãi cối, nào ngờ tôi vòng ra sau lưng bưng đầu Phật còn lại lên.

Ban nãy tôi hỏi, chủ tiệm lôi ra hai đầu Phật, tôi mua một, còn một vẫn đang đặt sau tủ quầy chưa cất.

“Cái này bao nhiêu?” Tôi hỏi.

Tay chủ không biết tôi có ý gì, thuận miệng báo một cái giá. Tôi bèn giơ đầu Phật lên lắc lắc, “Kỹ thuật cỏ dập đã thất truyền từ thời Dân Quốc, hôm nay lại được diện kiến tận mắt, đúng là hiếm thấy. Thực mong có cơ hội làm quen với tác giả.”

Tay chủ đang gật đầu khom lưng lập tức lấy lại vẻ đáo để: “Cậu đùa đấy à, tiệm tôi xưa nay không bán hàng giả, cũng chả biết cỏ dập cỏ diếc gì hết.” Tôi cười, “Anh chắc không? Vốn tôi không định truy cứu, nhưng ông anh đã nói thế thì tôi phải đòi lại quyền lợi cho người tiêu dùng mới được.”

Tay chủ ngơ ngác, vờ như không hiểu.

Tôi bèn ước lượng đầu Phật trong tay, “Tượng Phật bằng đá cỏ đều cố ý tạo vết nứt thẳng, góc đứt gãy nhọn, giả sa thạch nứt vỡ vì chênh lệch nhiệt độ. Nhưng nếu đập ra, đường nứt sẽ như vết men rạn, mảnh mà rối.”

Nói tới đây, tôi nheo mắt liếc vào gian trong, “Cái của tôi đập vỡ rồi, còn cái ông đang bày đây thôi. Để tôi đập thử xem vết nứt thế nào. Nếu là sa thạch, tôi sẽ đền gấp mười, còn nếu là đá cỏ…” Dược Bất Nhiên chêm vào, “Muốn đền bao nhiêu anh mày chấp hết! Chú cứ lấy đập thật lực cho anh!”

Tay chủ tái mặt lắp bắp, “Cái đầu Phật này cửa hàng tôi không bán nữa, cậu không thể ép mua thế được.”

Tôi thủng thẳng, “Không bán thì ông bày bên ngoài làm gì? Sao nãy còn báo giá? Tôi cũng chẳng cần mua, để đi tố cáo, mời chuyên gia đến giám định công khai xem chuyện có to ra không.” Dứt lời làm bộ định đập.

Tay chủ tiệm miệng hùm gan sứa, có vẻ đã chột dạ lắm rồi, chỉ cần dọa mấy câu là nhũn như chi chi. Quả nhiên, hắn lừng khừng một lúc, cuối cùng cũng chịu móc ra một nghìn bảy trăm tệ trả lại tôi rồi giằng lấy đầu Phật, bưng ngay vào trong.

Tôi kéo Dược Bất Nhiên và giáo sư Trịnh rời Thụy Tương Phong. Trước lúc đi, Dược Bất Nhiên sầm mặt đe, “Các người đừng hòng bôi tro trát trấu vào danh tiếng của Hội. Chuyện này chưa xong đâu.” Tay chủ trơ mắt nhìn theo chúng tôi rồi đóng cửa lại.

Quanh đi quẩn lại đã quá ba giờ chiều. Sau khi rời Phan Gia Viên, chúng tôi ngồi xe về cửa tiệm của tôi ở Lưu Ly Xưởng. Xe vừa dừng, tôi liền bảo Dược Bất Nhiên, “Anh chờ chút, tôi lấy Tố đỉnh lục cho, nhưng photo xong anh phải trả lại, tôi có mỗi bản này thôi.”

Dược Bất Nhiên phẩy tay, “Hừ, anh mày thua là thua, đếch cần chú ra cái vẻ rộng lượng.” Gã đanh mặt ngồi lì tại chỗ.

Tôi mở cửa xe bước xuống rồi nói vọng vào, “Tôi mắt kém mua lầm đồ giả, anh nhận thắng có gì đâu mà ngại?”

“Anh anh với chả tôi tôi. Vờ vịt khách sáo nghe lợm cả giọng! Về sau tôi với ông cạch mặt đến già là được chứ gì.” Nói rồi Dược Bất Nhiên xoay cửa kính lên, giục bác tài lái đi.

Hai bên đang dùng dằng, chợt có người tiến lại, “Xin lỗi hai anh.”

Tôi và Dược Bất Nhiên cùng quay sang, hóa ra là Phương Chấn mất dạng mấy hôm nay. Y vẫn giữ vẻ mặt điềm nhiên, tay kẹp nửa điếu thuốc, chậm rãi bảo tôi, “Cậu về đúng lúc đấy, nhà cậu bị trộm kìa.”

Tôi bàng hoàng, tên trộm này khéo quá, chọn đúng lúc Dược Bất Nhiên kéo tôi đến Phan Gia Viên thi tài thì tới viếng.

Dược Bất Nhiên nghe vậy cau mày, cũng mở cửa xe xuống xem tình hình. Tôi đi đến cửa Tứ Hối Trai, thấy cửa giả mở toang, mấy tay công an đang tất bật ra vào, người chụp ảnh kẻ lấy vân tay, lại có hai người cầm cuốn sổ nhỏ hỏi han hàng xóm láng giềng.

Xem ra Phương Chấn không dọa, y bố trí cảnh sát theo dõi quanh đây, vừa phát hiện có trộm bèn chạy tới ngay, còn nhanh hơn cả chủ nhà là tôi.

“Kiểm tra xem có mất mát gì không!” Phương Chấn nhắc tôi.

Tôi đưa mắt nhìn khắp lượt phòng ngoài, thấy không thiếu gì mới đi vào phòng trong. Bên trong càng chẳng có gì đáng tiền ngoài một két bảo hiểm to màu xanh lá đậm, bên trên là ổ khóa vòng. Tôi ngồi xuống xoay mấy vòng theo mật mã rồi vặn tay cầm, chốt lẫy “cạch” một tiếng rời khỏi lưỡi khóa.

Trong két chỉ có hai ba miếng ngọc khách quen nhờ giữ hộ, vẫn còn nguyên, bên dưới là một cuốn sổ tiết kiệm mấy trăm tệ ở ngân hàng Công Thương, dưới nữa là xấp tài liệu dày cộp mấy năm trước tôi chuẩn bị để khiếu nại đòi minh oan cho bố mẹ.

“Có mất gì không?” Phương Chấn hỏi.

“Sách.” Mặt tôi xám ngoét.

Tố đỉnh lục cũng được tôi cất trong két, đặt cạnh xấp tài liệu khiếu nại, giờ không còn nữa.

Phương Chấn cho tôi biết, cửa rả Tứ Hối Trai vẫn nguyên vẹn, cảnh sát cài cắm xung quanh không hề phát hiện động tĩnh gì lạ, cũng chẳng thấy kẻ khả nghi nào ra vào. Điều này thì tôi có thể xác nhận, bởi mỗi khi ra ngoài tôi đều để lại vài ký hiệu chỉ mình mình biết gần các cửa. Những ký hiệu đó vẫn còn nguyên, chứng tỏ cửa không hề bị mở. Phương Chấn hỏi còn ai biết mã két ngoài tôi không, tôi trả lời chưa từng tiết lộ với ai khác.

“Nhưng chuyện này cũng chẳng nói lên gì cả.” Phương Chấn nói, “Nhân viên kỹ thuật của chúng tôi chỉ ba mươi phút là mở được loại khóa kiểu cũ này, không để lại dấu tích.”

Y nheo mắt nhìn quanh, hòng bới ra manh mối ẩn giấu trong phòng, rất có phong thái cảnh sát hình sự lão luyện.

Tôi sực nhớ ra một chuyện, “A, nếu cửa rả không hề hấn gì, két bảo hiểm cũng không bị cạy, lại không để ý thấy ai khả nghi thì sao anh biết nhà tôi bị trộm?” Phương Chấn cười, “Chúng tôi đã cài một món đồ chơi lên két sắt nhà cậu, hễ két mở nó sẽ tự động phát tín hiệu tới đồn cảnh sát gần đây.”

“… Các người cài lúc nào đấy?” Tôi bực bội, chuyện này rõ ràng chưa được tôi đồng ý họ đã tự tiện hành động.

“Hôm cậu đi gặp cục trưởng Lưu.”

Xem ra đám Phương Chấn đã có kế hoạch từ lâu, ban ngành liên quan quả nhiên thần thông quảng đại. Thấy tôi không vặn vẹo, Phương Chấn rít một hơi thuốc, nhả khói qua lỗ mũi rồi tiếp tục kể, “Đồn cảnh sát nhận được tín hiệu vào một giờ trưa nay, chúng tôi biết cậu đang ở Phan Gia Viên nên lập tức phái người đến điều tra. Người của chúng tôi đến Tứ Hối Trai là một giờ mười lăm, thấy không có gì khác lạ, không dấu vết đột nhập, không dấu vân tay, két bảo hiểm vẫn khóa kỹ. Cũng có nghĩa tên trộm kia từ lúc lẻn vào nhà cậu mở két đến khi đi khỏi, tổng cộng mất chưa đầy mười lăm phút.”

Giọng Phương Chấn đều đều, chẳng biết là thán phục hay cảm khái.

Tôi từng đọc vài tiểu thuyết trinh thám Nhật, biết có kiểu gây án gọi là án trong phòng kín, thủ phạm dùng phương pháp đặc biệt nào đó để đột nhập một căn phòng không thể vào được, xem ra tình huống hiện giờ rất phù hợp với định nghĩa này.

Tôi đứng dậy nhìn quanh rồi miết ngón tay lên nóc két, giơ ra trước mắt vê vê. Phương Chấn thấy vậy cũng bắt chước, “Các cậu buôn đồ cổ có khi còn tinh mắt hơn cảnh sát, có thấy manh mối gì không?”

“Đây không phải bụi mà là vụn vữa, là vữa trát tường hóng gió lâu ngày.” Tôi vê ngón tay vào nhau, để mấy hạt vữa li ti bám vào đường vân tay.

Tôi và Phương Chấn không hẹn mà cùng ngẩng lên.

Lúc mở cửa tiệm này, để giữ phong vị cổ, tôi không chọn nhà mái bằng mà cố công thuê cho được một gian nhà ngói. Căn nhà đã lâu đời, nóc nhà xếp tầng tầng lớp lớp những miếng ngói xám như vảy cá. Nếu kẻ trộm dỡ ngói chui vào thì có thể hiểu được vì sao nóc két lại có vữa trên mái.

Phương Chấn lập tức lệnh cho hai cảnh sát leo lên kiểm tra nóc nhà, một trong một ngoài. Đúng như tôi đoán, phần nóc ngay trên két bảo hiểm có bốn miếng ngói hơi lỏng, như thể bị rút ra rồi cố nhét vào, khiến cả hàng ngói ấy dồn không khít, kẽ hở không đều.

Cũng có nghĩa, kẻ trộm đã trèo lên mái lén dỡ bốn mảnh ngói rồi thả dây thừng trèo xuống mở két lấy đồ, sau đó lại leo lên che đậy mọi dấu vết rồi chuồn thẳng.

“Ra tay cũng gọn gàng đấy.” Tôi tặc lưỡi. Tên trộm này ghép ngói rất khéo, nếu không nhìn gần khó mà phát hiện.

Phương Chấn rít nốt hơi cuối, nhặt một chén trà bằng ngọc lưu ly bỏ đót thuốc vào. Y biết tiệm tôi chẳng có món gì quý giá nên cũng chẳng sợ làm hỏng. Nhưng tôi trông thấy vẫn xót, vội đổi sang chén sứ.

“Các vị điều tra xong rồi, có thể rút hết cảnh sát đi chưa?”

“Sao phải rút?”

“Tiệm tôi buôn bán ký gửi đồ cổ, an toàn phải đặt lên hàng đầu. Hở ra chuyện bị trộm còn ai dám gửi đồ vào nữa? Bảo tôi làm ăn thế nào đây?”

Phương Chấn đồng ý, ra lệnh thu quân. Dược Bất Nhiên thừa cơ chạy vào, “Lắm công an thế, làm sao đấy?” Tôi bèn kể lại việc mất Tố đỉnh lục, gã nói ngay, “Không phải tôi đâu, thật luôn.”

“Có ai bảo tại ông đâu.” Tôi cáu kỉnh đáp, gã này chỉ sợ người ta không liệt mình vào diện tình nghi thì phải. Phương Chấn nheo mắt nhìn Dược Bất Nhiên, bỗng dưng toét miệng cười, “Cậu hai nhà họ Dược à?”

“Phải.” Dược Bất Nhiên cấm cảu. Phương Chấn vừa nhìn đã nhận ra lai lịch gã, hẳn cũng là người trong giới nên không dám xấc xược.

Phương Chấn lại nói, “Vậy chắc cậu biết kẻ nào đánh cắp rồi nhỉ?” Dược Bất Nhiên sầm mặt, “Tôi đúng là rất muốn xem cuốn sách đó, nhưng không hứng thú với chuyện ăn cắp.”

“Tôi không bảo cậu lấy, nhưng hẳn cậu có thể đoán ra là ai đứng sau xúi giục, đúng không?”

Dược Bất Nhiên phân vân, “Bắt trộm phải bắt tận tay, không chứng cứ anh đây đếch nói được.”

Tôi trầm ngâm nhìn Dược Bất Nhiên. Theo lời gã ám chỉ, kẻ đánh cắp Tố đỉnh lục cũng là người trong Hội, chỉ không biết nhằm mục đích gì. Thực ra phương pháp giám định trong Tố đỉnh lục chẳng có gì bí ẩn. Cũng như “treo tơ bắt mạch” hay “nghiệm xác Phật”, thoạt trông có vẻ thần kỳ, nhưng nếu nắm được bí quyết thì ai cũng làm được cả. Thậm chí có vài kỹ thuật đã lỗi thời, hiện giờ vận dụng khoa học kỹ thuật còn chính xác hơn.

Nói trắng ra cuốn sách này giống một quyển tài liệu ôn thi đại học, liệt kê từng dạng bài sẽ có trong đề thi, nhưng nếu muốn nắm được kiến thức thì không thể chỉ đọc có chừng ấy. Giám định cũng giống Đông y, suy cho cùng vẫn phải dựa vào kinh nghiệm. Không có mấy chục năm rèn luyện thì xem sách quý đến đâu cũng chỉ học được cái vỏ ngoài mà thôi. Người giỏi thực sự chẳng ai buồn ngấp nghé cuốn sổ vô dụng này.

Huống hồ nó đã bị xử lý.

Phương Chấn và Dược Bất Nhiên ngỡ ngàng nhìn tôi, không hẹn mà đồng thanh hỏi, “Bị xử lý?”

“Đúng thế, cũng là một mánh phòng trộm thôi.” Nội dung Tố đỉnh lục được viết bằng mật mã, người không có chìa khóa giải mã thì không sao hiểu nổi.

“Cái đệch, thảo nào vừa nãy ông hào phóng thế, hóa ra đã biết trước tôi có mượn về đọc cũng không hiểu! Đúng là xảo quyệt!” Dược Bất Nhiên nhảy dựng lên.

“Giang hổ hiểm ác, cẩn thận không thừa.” Tôi thản nhiên đáp.

Đúng lúc này bên ngoài có tiếng bước chân, một cảnh sát ló vào, “Sếp Chấn, có điện thoại.” Phương Chấn ừm một tiếng rồi ra ngoài nghe điện, để lại tôi và Dược Bất Nhiên gườm gườm nhìn nhau.

“Mấy phương pháp ấy ông đều học trong cuốn sách kia hả?” Dược Bất Nhiên hỏi.

Tôi lắc đầu, “Đào đâu ra, tôi chỉ học được từ đó vài ngón vặt vãnh thôi, giám định cổ vật chủ yếu phải dựa vào kinh nghiệm bản thân.” Nghe tôi nói vậy, mặt Dược Bất Nhiên mới giãn ra. Gã nhìn quanh ngó quất rồi hạ giọng, “Nói ông nghe, cái Hội kia cũng chẳng đoàn kết đếch gì đâu. Từ sau cải cách mở cửa là đấu đá kịch liệt, mỗi phái một phách. Huyền môn bọn tôi còn đỡ, chứ mấy phái kia giờ tha hóa hết rồi, để đạt mục đích thì bất chấp thủ đoạn. Mười phần chắc chín là bọn chúng đánh cắp sách của ông.”

“Cái tiệm Thụy Tương Phong hôm nay có phải thuộc Hoàng môn không? Hình như Hoàng môn và Huyền môn các ông không hòa hợp cho lắm, nên giáo sư Trịnh mới ngăn không cho ông làm to chuyện, đúng không?”

Dược Bất Nhiên lặng thinh, coi như thừa nhận. Lẽ ra gã không được tiết lộ, chẳng qua nể tôi là con cháu họ Hứa nên mới hé cho biết vài chuyện.

Xem ra bốn phái trong Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa đều muốn đoạt Tố đỉnh lục, khác chăng là kẻ đến thẳng nhà đòi - ví như Dược Bất Nhiên, kẻ lại đi đánh cắp. Cục trưởng Lưu hẳn đã lường trước chuyện này nên mới sai Phương Chấn cắt người giám sát. Quyển sách kia tự nhiên lại thành miếng thịt béo, mới hở ra một góc đã thấy ruồi nhặng ùn ùn kéo đến.

Dược Bất Nhiên ngước nhìn mái ngói tặc lưỡi, “Chỗ ông an ninh kém quá, ban ngày ban mặt có kẻ dỡ ngói trèo vào mà chẳng ai thấy cả. Cảnh sát nhận được tin báo mười lăm phút sau mới lật đật chạy đến thì kẻ trộm thừa sức tập thêm một bài Thái Cực quyền.”

Nghe câu này, tôi sực nghĩ ra.

Không đúng, Phương Chấn nói từ khi nhận được tín hiệu két bị mở đến khi cảnh sát tới nơi là mười lăm phút, nhưng đồn công an ở ngay đầu phố, cách Tứ Hối Trai chưa đầy tám trăm mét, chạy bộ cũng chỉ mất một hai phút. Một tay lão luyện như Phương Chấn sao lại bỏ gần lấy xa, đặt trạm giám sát ở xa thế được?

Lẽ nào ông ta cố tình bật đèn xanh cho kẻ trộm? Rốt cuộc cục trưởng Lưu muốn gì đây?

Đương mải nghĩ thì Phương Chấn quay lại, tôi vội nói mấy chuyện tào lao với Dược Bất Nhiên để y khỏi sinh nghi. Phương Chấn cười khà châm điếu thuốc bảo tôi, “Chúng tôi sẽ nhanh chóng điều tra chuyện quyển sách bị mất. Còn vừa rồi cục trưởng Lưu gọi tới, bảo muốn mời cậu ăn tối.”

Dược Bất Nhiên đang định lên tiếng thì Phương Chấn nói luôn, “Cục trưởng Lưu cũng mời cả cậu nữa.”

Hừm, xem ra hôm nay tôi khỏi cần buôn bán gì nữa rồi.

Địa điểm dùng cơm ở gần Hậu Hải, Phương Chấn đích thân lái xe đưa bọn tôi đi. Giáo sư Trịnh đã lớn tuổi nên được đưa về nhà trước.

Bắc Kinh vừa mới lên đèn, mấy mùa hè gần đây, cứ đến tối cả thành phố lại nhộn nhịp hẳn lên, kẻ đi hóng mát người tản bộ, chưa kể đủ gánh hàng rong và xe cộ gầm rú lướt qua, tấp nập hơn cả ban ngày. Dược Bất Nhiên lái chiếc jeep đưa tôi chạy lên đường vành đai hai mới mở không có bóng dáng một cột đèn xanh đỏ, loáng cái đã tới phố Cổ Lâu rồi chạy thẳng ra Hậu Hải. Xe rẽ ngoặt mấy lần trong ngõ, nhanh chóng tới trước một tứ hợp viện.

Căn tứ hợp viện này không giống loại nhà dân thường ở, cổng chính hướng Nam, hai bên còn hai cửa ngách, trước cổng trồng hai cây ngân hạnh cao ngất, lại đặt hai con sư tử đá, dưới đất còn có bục đá đẽo hình cái trống. Hai cánh cửa lim sơn bóng loáng toát lên vẻ ung dung, bậu cửa cao đến bốn tấc. E rằng nơi đây vốn thuộc vương phủ nào đó dưới thời Thanh. Bên ngoài đậu mấy cỗ xe, không phải Santana thì là Hồng Kỳ.

Chúng tôi vừa xuống xe, cánh cửa đỏ rực tức thì mở kêu đánh “kẹtttt”, một nữ phục vụ bước ra, gập người chào chúng tôi, làm động tác mời rồi dẫn hai chúng tôi vào trong. Phương Chấn theo lệ lại đứng dựa xe, thong dong hút thuốc như chẳng liên quan gì đến việc này.

Chúng tôi vòng qua bức chiếu bích xây gạch hình số tám, băng qua hành lang vào sân trong rộng mênh mông được nhà chính, hai mái hiên Đông Tây và nhà sau quây lại thành hình vuông. Chính giữa sân trồng một cây lựu lớn, dưới gốc đặt hai ang nước miệng rộng, trên cành treo vài lồng chim, đúng kiểu tiêu khiển của người Bắc Kinh ngày hè.

Tôi cảnh giác đưa mắt nhìn, thấy dưới gốc lựu đã bày một bàn tròn lớn sơn đỏ thẫm mười hai người khiêng. Trên bàn bày vài đĩa thức ăn, có bốn người đã ngồi đợi sẵn. Chính giữa là cục trưởng Lưu mà tôi từng gặp, còn lại hai nam một nữ, tuổi đều xấp xỉ bảy mươi. Đứng sau họ lần lượt là ba người trạc tuổi tôi, chắp tay sau lưng, vẻ mặt nghiêm trang. Tôi nhận ra tay thư ký đứng sau cục trưởng Lưu.

Chỉ riêng một ông lão sau lưng không có ai đứng hầu. Tôi đang tò mò thì thấy Dược Bất Nhiên hối hả đi đến khom lưng thưa gửi, “Ông ạ.” Ông cụ lườm gã, “Mày lại gây chuyện đấy phỏng?”

“Đâu có, cháu chỉ đi xem thử thôi mà.”

“Hừ, đợi đấy rồi ông sẽ hỏi đến mày, đứng sang một bên đi.” Ông cụ nói. Dược Bất Nhiên nhìn tôi rồi kính cẩn lùi ra sau lưng ông cụ, chắp tay đằng sau, mắt nhìn mũi mũi nhìn chân, nom như lão tăng nhập định.

Thấy gã cũng đã vào chỗ, tôi hơi lúng túng. Trước mặt tôi có một ghế trống, nhưng những người ngồi đây đều là lão tiền bối, hạng trẻ nít ba mươi như tôi, đứng không được mà ngồi cũng không xong.

“Chào cậu Nguyện, mấy hôm rồi không gặp.” Cục trưởng Lưu lên tiếng.

“Ngài cục trưởng lại làm tôi mất buổi hàng rồi.” Tôi cười gượng đáp. Ông ta coi tôi là cái gì mà gọi là đến đuổi là đi chứ. Giờ thời đại mới rồi, mọi người bình đẳng, dù ông ta làm to cũng không thể tùy tiện sai phái người ta thế được.

“À, bữa hôm nay đột xuất quá nên không kịp báo trước, là tôi sắp xếp chưa được chu toàn, tự phạt một chén xin lỗi cậu nhé.” Cục trưởng Lưu đứng dậy uống cạn chén rượu trước mặt.

“Tôi không cho là vậy đâu.” Tôi đưa mắt nhìn khắp lượt, “Lúc vừa đến, tôi thấy lá ngân hạnh rụng đầy mấy con xe đậu ngoài kia, trên lá còn cả cứt chim khô, đủ thấy các vị đến đây được khá lâu rồi.”

“Bằng ấy tuổi mà đa nghi quá, có phải Hồng Môn yến* đâu.” Bà cụ duy nhất trên bàn tiệc cười nhạt.

Một sự kiện lịch sử diễn ra vào năm 206 TCN tại Hồng Môn, các bên tham gia chính gồm Lưu Bang và Hạng Vũ, hai nhà lãnh đạo nổi bật của các lực lượng nổi dậy chống nhà Tần, sau khi hoàng đế cuối cùng của nhà Tần là Tử Anh đầu hàng Lưu Bang. Trong văn hóa Trung Quốc, ‘Hồng Môn yến’ được sử dụng theo nghĩa bóng để chỉ một cái bẫy hay một tình huống vui vẻ nhưng trong thực tế lại nguy hiểm.

Thấy không khí có phần gượng gạo, cục trưởng Lưu cười xòa bảo tôi, “Để tôi giới thiệu với cậu, mấy vị này đều là trị sự trong Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, cũng là người đứng đầu năm phái hiện nay.”

Theo lời cục trưởng Lưu, tôi được biết ông cụ trước mặt Dược Bất Nhiên tên Dược Lai, là người đứng đầu Huyền môn; một ông lão khác ăn mặc theo lối thời Đường, tên Lưu Nhất Minh, cai quản Hồng môn; bà cụ tóc bạc là Thẩm Vân Sâm, người Thanh môn. Những người này đều là Thái Sơn Bắc Đẩu trong giới giám định ở Bắc Kinh, cũng là người đứng đầu mấy gia tộc có quan hệ chồng chéo với nhà tôi.

Tôi đếm thấy mới có ba, còn một phái nữa đâu?

Cục trưởng Lưu như đi guốc trong bụng tôi, “Cụ Hoàng của Hoàng môn chưa đến, dọc đường có chút việc.” Đoạn ông ta trỏ tôi bảo mấy người kia, “Chắc các vị cũng biết rồi, đây là cậu Nguyện, con trai Hứa Hòa Bình, truyền nhân duy nhất của Bạch môn.”

Các bề trên đưa mắt quan sát tôi, thái độ rất lạnh nhạt, chẳng hề vồn vã vì gặp được con cái người xưa, trái lại còn có vẻ cảnh giác. Chẳng biết tổ tiên nhà tôi đắc tội lớn nhường nào để họ thù đến tận bây giờ nữa.

Thẩm Vân Sâm lên tiếng trước nhất, “Giờ làm gì còn phái này phái kia, đã là hội nghiên cứu rồi, sao phải phân chia nữa?” Giọng bà phảng phất phong vận kịch Bắc Kinh, trầm bổng du dương đầy âm điệu, nghe rất êm tai. Tôi bỗng chú ý tới người đứng phía sau Thẩm Vân Sâm, người này nhìn quen quen, hình như đã gặp ở đâu. Bà ta chỉ giới thiệu ngắn gọn, “Đây là Thẩm Quân, nhân tài trong họ nhà tôi.” Thẩm Quân khẽ gật đầu rồi lại đứng lẩn vào bóng tối, chẳng nói chẳng rằng.

Cục trưởng Lưu cười, “Chị Sâm nói phải lắm. Nhưng hôm nay chúng ta ăn bữa cơm thân mật, không nói việc công, chỉ ôn chuyện nhà thôi. Người xưa có câu rất hay: Mát rượi ngày hè bóng cây râm, đình con ngồi duỗi sáo thì thầm *. Nào, để tôi kính các vị một chén, coi như mở màn.” Dứt lời ông ta cầm chén rượu trước mặt lên uống cạn, mấy người kia cũng lần lượt hờ hững nâng chén.

Trích trong bài “Đình Lục Vân” của Lục Hi Thanh thời Đường.

Có thể thấy cục trưởng Lưu không ở trong hội nhưng khá có ảnh hưởng, nhất cử nhất động đều tác động đến tình hình chung, dù sao cũng là người làm lãnh đạo, phong thái hiển nhiên khác hẳn đám học giả nhàn tản tiêu dao.

Hết tuần rượu, cục trưởng Lưu nhẹ nhàng đặt chén xuống, đan hai tay vào nhau, từ tốn nói, “Hôm nay mời mọi người cùng ăn bữa cơm, chính vì việc tập hợp năm phái chúng ta vẫn bàn bạc gần đây. Tôi gọi cả cậu Nguyện đến để mọi người thoải mái nêu ý kiến, dân chủ mà.”

Ông ta vừa dứt lời, tôi đã thấy những ánh mắt đổ dồn vào mình, lạnh lùng có, châm chọc có. Từ lúc bước vào đến giờ, cục trưởng Lưu không hề mời tôi ngồi, chẳng biết là cố tình tảng lờ hay còn dụng ý gì khác. Có điều ông ta đã nói rõ mục đích, tôi cũng không tiện bỏ đi thẳng, đành gượng gạo đứng yên tại chỗ.

Thẩm Vân Sâm lên tiếng, “Anh Lưu nói rõ xem, tập hợp năm phái nghĩa là sao?” Cục trưởng Lưu đáp, “Nếu đã tìm được truyền nhân nhà họ Hứa, tôi muốn mời Bạch môn về lại hàng ngũ năm phái, bằng không Hội chúng ta vẫn thiếu vẹn toàn.”

Thẩm Vân Sâm cười nhạt, “Năm phái xưa nay căn cứ vào tay nghề giám định, chứ không câu nệ cha truyền con nối. Một kẻ chưa ráo máu đầu, ăn may nhìn được mấy món cổ vật, dựa vào đâu mà đòi đứng đầu một phái, ngồi chung chiếu bàn việc với chúng ta?”

Dược Lai vỗ bàn tán đồng, “Cô Sâm nói phải, năm phái hay Hội nghiên cứu giám định cổ vật cũng vậy, đều phải căn cứ thực lực, chứ không xét dòng dõi.” Dược Bất Nhiên nghe vậy vội chen vào, “Trình độ giám định của Hứa Nguyện không phải vừa đâu, hôm nay cháu…”

“Câm ngay, đến lượt mày chõ vào đấy à.” Bị ông quát, Dược Bất Nhiên đành ngậm miệng, hậm hực lùi lại sau.

Cục trưởng Lưu đã lường trước hai người này sẽ phản đối, bèn cầm đũa lên vạch một vòng trên không, “Bất tài thì chẳng ai phục. Hôm nay tôi gọi cậu Nguyện tới cũng mong các vị trị sự cho cậu ta một cơ hội thể hiện bản thân.”

Dược Lai và Thẩm Vân Sâm bàn bạc một lát rồi quay sang tôi, “Nể tình cậu là người nhà họ Hứa, chúng tôi cũng chẳng hoạnh họe làm gì. Cậu xem trên bàn này đã lên một món chính. Nếu không động đũa mà đoán được đồ đựng có lai lịch thế nào, chúng tôi sẽ để cậu lên ngồi chung chiếu.”

Lưu Nhất Minh im lặng nãy giờ chợt mở mắt ra, chậm rãi phát biểu, “Thứ này là đồ sứ, sở trường của Huyền môn các vị, lại đem ra kiểm tra người Bạch môn, đúng là chỉ ông mới nghĩ ra được.” Dược Lai hếch cằm, “Thì sao? Đến mấy thứ vặt vãnh này còn không nhìn ra được thì hôm nay giải tán đi là vừa, tôi còn phải đi Thiên Tân nghe hát tấu.”

Lúc này tôi mới để ý nét mặt Lưu Nhất Minh nhang nhác cục trưởng Lưu, không chừng lại là họ hàng thân thích.

Cục trưởng Lưu hỏi tôi, “Thế nào? Cậu Nguyện thấy sao?”

Còn lựa chọn nào khác đâu, tôi đành đáp, “Tôi sẽ cố.”

Đề bài của ông cụ Dược quả là hiểm. Các đĩa đều bày đủ loại đồ ăn, lại không được động đũa. Đừng nói là sờ, đến nhìn tôi cũng không trông rõ được, những phương pháp giám định thông thường đều bó tay. Xem ra đành bắt tay từ đồ ăn vậy.

Thấy tôi lúng túng, Dược Lai buông một câu, “Tôi không bảo cậu phân biệt loại gốm, thật hay giả. Cậu chỉ cần nói sơ qua đồ nào từ thời nào là được.”

Mất bao công sức thế này chỉ để tranh một cái ghế. Thực chẳng biết ăn xong bữa này tôi còn cái gì nữa. Ai dám bảo không phải Hồng Môn yến, ông đập cho vỡ mồm! Dĩ nhiên, đập thì đập, tôi cũng chẳng còn lựa chọn nào khác, đành hít sâu một hơi, chăm chú quan sát đồ ăn trên bàn.

Chính giữa bàn là một đĩa sứ men xanh lớn, đặt hai đùi dê nướng than hoa đan chéo nhau, da giòn bóng nhẫy ngả màu vàng xuộm, đó đây lác đác vài cọng thì là, thơm nức mũi. Có thể thấy thấp thoáng hình hoa sen in trên đĩa.

Tôi nhìn chằm chằm hồi lâu rồi nói, “Cái này chắc là đĩa sứ Thanh Hoa song ngư liên hoa thời Nguyên?”

Dược Lai nhướng mày, “Cậu xem cho kỹ.”

“Tôi xem kỹ rồi, chắc chắn là sứ Thanh Hoa thời Nguyên. Thịt dê nướng là đặc sản thảo nguyên, hẳn là thời Nguyên rồi; đùi dê nướng vàng xuộm, ám chỉ màu đỏ lửa ở chân đế phôi, đây là đặc điểm của đồ sứ thời Nguyên. Tổng hợp lại là rõ ngay.”

Chợt thấy Dược Bất Nhiên đứng sau lưng ông ta xua tay, tôi nhanh trí bổ sung ngay, “Tiếc rằng đây không phải hàng thật, chỉ là hàng nhái chất lượng cao thôi.”

“Căn cứ vào đâu?”

“Nếu là hàng thật, màu đỏ ở chân đáy đĩa phải nằm ở chỗ giáp ranh giữa phôi và men, sáng bóng trong veo, ngấm vào phôi. Còn chiếc đĩa này rõ ràng là người đời sau bôi mạt sắt vào đáy đĩa rồi nung lên, màu lờ nhờ.”

“Chỉ thế thôi à?”

“Còn nữa.” Tôi nghiêm trang đáp, “Đĩa sứ Thanh Hoa song ngư liên hoa đời Nguyên là văn vật hạng nhất được lưu giữ tại bảo tàng Hồ Nam, trước đây tôi đi Trường Sa từng ghé vào xem.”

Ông Dược phá lên cười ha hả, ra hiệu cho tôi, “Giỏi lắm, không dọa được cậu rồi, ngồi, ngồi đi.” Dược Bất Nhiên nháy mắt với tôi, đôi bên đều ngầm hiểu. Thực ra tôi chẳng biết nhiều về đồ sứ, nếu bảo giám định thật e là trật lất hết. May nhờ Dược Bất Nhiên gà bài, tôi mới đưa ra được đáp án đúng, sau đó đắp thêm lý luận vào, dĩ nhiên không có sơ hở.

Nói bừa mà trúng, tôi thở phào nhẹ nhõm bước đến bên bàn toan ngồi xuống, nào ngờ Thẩm Vân Sâm lanh lảnh quát, “Gượm đã.” Tôi vội nhổm mông dậy, “Bà… có gì chỉ bảo?” Thẩm Vân Sâm lừ mắt với Dược Lai: “Vừa rồi là Huyền môn bọn họ tự tiện quyết định, Thanh môn đã ra đề đâu.”

Tôi nhớ Dược Bất Nhiên nói Thanh môn chuyên về đồ gỗ, thầm nhủ đã đến rồi thì lên cả đi, đánh liều nghiến răng đáp, “Bà cứ nói!”

“Nhà họ Dược đã không làm khó cậu, tôi cũng chẳng bắt nạt người dưới. Cậu thử xem cái ghế dưới mông là thật hay giả!”

Bấy giờ tôi mới để ý thấy tạo hình chiếc ghế dành cho mình khá đặc biệt. Thân ghế làm từ gỗ trắc, sờ bóng loáng nhẵn nhụi, bọc ghế có mười hai hạt châu buông rủ, lưng ghế gắn mặt đá viền hoa và mây lành. Mùa hè ngồi lưng áp vào đá sẽ thấy mát lạnh.

Nhưng tôi cũng chỉ biết có vậy. Đồ sứ tôi còn lơ mơ, chứ đồ gỗ thực sự là dốt đặc cán mai.

Hội này thực phô trương thái quá, ăn bữa cơm mà phải huy động nhà trong vương phủ, đĩa bát thì dùng sứ Thanh Hoa đời Nguyên - tuy chỉ là hàng nhái, còn ngồi ghế gỗ trắc lưng đá. Đúng là xa hoa hết mực.

Tôi vừa vờ vịt sờ lưng ghế câu giờ, vừa tính xem phải làm sao. Đoán thật giả thì dễ, dù không biết gì vẫn có năm mươi phần trăm xác suất nói trúng, chỉ sợ bà già kia hỏi duyên do, tôi không thể nói là đoán mò được.

Nghề giám định này có một mánh chỉ ngầm hiểu, không nói ra. Có lúc dựa vào kiến thức về đồ cổ không lần ra manh mối, thì đành suy luận theo logic. Nếu logic không hợp lý thì món đồ đó quá nửa là giả. Phương Chấn nói chơi đồ cổ cũng giống phá án là vì vậy.

Tôi không biết gì về đồ gỗ, xem ra đành dựa vào quan sát và logic xem có moi được điểm bất thường nào trên ghế không.

Thấy tôi ngắm đi ngắm lại chán chê mãi không nói gì, Thẩm Vân Sâm lên tiếng, “Nếu cậu không đoán được thì cứ nói thẳng, không cần cố ra oai trước mặt bà già này.” Dứt lời bà ta đắc ý liếc cục trưởng Lưu. Cục trưởng Lưu thản nhiên cầm đũa xẻ một miếng thịt dê, nhắm với rượu trắng.

Lưu Nhất Minh vẫn nhắm mắt dưỡng thần, tựa hồ không liên quan tới việc này. Dược Bất Nhiên thừa cơ thì thào gì đó với ông gã, hẳn là kể chuyện ở Phan Gia Viên.

Tôi sờ từ lưng ghế đến tay vịn, rồi lại từ tay vịn đến miếng đá tựa lưng.

Tuy không có kiến thức về đồ gỗ, nhưng kim thạch lại là sở trường của tôi.

Phiến đá này được đẽo hình bầu dục, gõ tay lên thấy chất đá cứng đặc. Theo lý loại ghế này dùng vào mùa hè, chất đá phải mềm lạnh, nhẵn nhụi mịn màng, dựa vào mới thư thái. Nhưng miếng đá này lại nứt nẻ thô ráp, vân đá ngoằn ngoèo, sần sùi lồi lõm.

Không còn nghi ngờ gì nữa, chế tác thô sơ thế này, ắt là giả.

Tôi tự tin đầy mình ngẩng lên, bắt gặp ánh mắt đầy thâm ý của Thẩm Vân Sâm, chợt chột dạ. Giả ư? Tôi không cho là vậy. Tôi vội xem xét lại. Lướt ngón tay qua tay vịn cong cong lần nữa, tôi chợt thấy bên trên hình như có khắc chữ. Nhìn kỹ trên tay vịn có sáu đường bằng nhau, xếp thành hàng từ trên xuống dưới.

Lại nhìn sang tay vịn bên kia, thấy đề hai chữ: Cửu tam.

Một ý nghĩ vụt lóe lên trong đầu tôi.

Sáu gạch và cửu tam, vậy thì chỉ có một khả năng.

Quẻ Càn trong Chu Dịch có tượng hai quẻ Càn đơn chồng lên nhau, sáu hào đều là dương, vạch ra thành sáu đường thẳng. Cửu tam rõ ràng là hào đề của quẻ Càn. Cửu là hào dương, tam là vị trí. Lăn lộn trong nghề này, phải thuộc nằm lòng Chu Dịch, tôi nhớ hào từ của hào này là “quân tử cả ngày hăng hái, tối đến vẫn thận trọng lo sợ nguy hiểm, mới không mắc lỗi”. Ý nói người quân tử ban ngày phải cố gắng, đến tối thì nghĩ ngợi tự xét lại mình.

Tôi sực vỡ lẽ, bèn đứng thẳng dậy bảo Thẩm Vân Sâm: “Đây là ghế lưng đá rủ châu gỗ trắc cuối thời Thanh, hàng thật trăm phần trăm.”

Thẩm Vân Sâm cười nửa miệng, “Cậu dựa vào đâu mà dám chắc thế?”

“Bởi chiếc ghế này không dùng để ngồi, mà là để răn dạy.”

Thẩm Vân Sâm khẽ gật đầu, giơ tay vén lọn tóc bạc trước trán, thái độ đã không còn lạnh lùng như vừa nãy. Xem ra tôi nói đúng rồi.

“Mời ngồi.” Bà ta hiền hòa nói.

Nếu không phải vì kính trên nhường dưới, tôi đã văng tục.

Ghế răn, tên sao dùng vậy, là loại ghế để răn đe con cháu trong nhà. Người xưa xem hành vi mà biết tính tình, nên rất chú trọng đứng thẳng như tùng bách, ngồi vững như chuông đồng. Lưng ghế này rất cộm, nếu dựa vào sẽ bị cấn tê cả lưng, người ngồi bắt buộc phải ngồi thẳng thớm ngay ngắn, hàm ý “ngày đêm thận trọng”, luôn luôn cảnh giác, không được thả lỏng. Vừa uốn nắn dáng ngồi, lại thể hiện đạo của người quân tử nên còn gọi là ghế Càn. Gửi gắm đạo lý vào đồ vật thế này là đặc trưng điển hình của văn hóa truyền thống.

Bọn họ vốn đã chủ tâm, chiếc ghế răn này có lẽ được chuẩn bị sẵn hòng cho tôi một đòn phủ đầu, ngầm bảo tôi là bề dưới, phải ngoan ngoãn nghe họ dạy bảo.

Tôi chẳng buồn khách khí gì nữa, kéo ghế đặt phịch mông xuống, cầm chén rượu trước mặt lên nhìn quanh một vòng: “Khoan bàn đến năm phái sáu phái, các vị ngồi đây đều là bề trên, còn tôi là bề dưới, bất luận thế nào cũng nên kính các vị một chén.” Đoạn chẳng đợi họ nói, tôi ngửa cổ uống cạn.

“Ha ha, cậu chàng này hẹp hòi thật đấy. Được, tôi uống với cậu!” Ông Lai vỗ bàn rót đầy chén, giơ về phía tôi rồi uống cạn. Lưu Nhất Minh và Thẩm Vân Sâm cũng nâng chén uống một hớp.

“Được rồi, mọi người dùng bữa thôi.” Cục trưởng Lưu vỗ tay, mấy người đứng sau mới lục tục ngồi xuống, chẳng mấy chốc bàn ăn đã có tám người, xôm hẳn lên. Dược Bất Nhiên ngồi bên trái tôi, thì thào bảo, “Đã thấy chưa? Mấy tên đứng sau đều là tinh anh các phái, rặt một lũ cáo mượn oai hùm mặt người dạ chó.”

“Ông chẳng phải một trong số đó à?” Tôi vặn.

“Hừm, tôi đây có lý tưởng có đạo đức có suy nghĩ có mục đích, đường đường thanh niên bốn có, chúng bì thế đếch nào được.”

Phục vụ liên tục bưng hết món nguội đến món nóng lên, bữa cơm này chủ yếu là món Giang Hoài, thêm vài món Tứ Xuyên, đều chế biến vô cùng tinh tế. Đĩa đùi dê nướng đặc sản Bắc Kinh bày giữa bàn trông lại hơi phóng khoáng quá độ. Tôi đói rã ruột, bất chấp bị ai đánh giá, gắp ngay một miếng cá mè chiên xù bỏ vào miệng, thấy mềm xốp thơm nức, không hổ là đầu bếp hàng đầu, nếu ở nhà hàng chắc phải tám đến mười tệ một đĩa.

Thẩm Vân Sâm chưa buồn động đũa, thong thả bảo tôi, “Cậu Nguyện này, vừa rồi chúng tôi chỉ nói nếu cậu vượt qua thử thách mới có tư cách ngồi vào bàn, chứ chưa đồng ý cho nhà họ Hứa trở về Hội đâu nhé.”

Tôi cũng đặt đũa xuống ung dung đáp, “Tôi chỉ muốn tìm hiểu về tổ tiên nhà mình, còn về việc tập hợp năm môn phái thì tùy ý cục trưởng, bản thân tôi không có tham vọng gì.”

Thẩm Vân Sâm bất lực quay sang cục trưởng Lưu, “Anh nghe chưa? Người ta cũng có thiết tha gì.” Cục trưởng Lưu cười xòa, “Mọi người làm quen với nhau đi đã, rồi đâu sẽ có đó.”

Đúng lúc này, một giọng nửa nam nửa nữ văng vẳng truyền đến, vang vọng trên đỉnh đầu mọi người, “Các vị ăn uống xôm nhỉ.”

Chương 1

Tiến >>


Nguồn: TVE 4U
Được bạn: Mot Sach đưa lên
vào ngày: 31 tháng 12 năm 2024