Triết Học Phật Giáo Việt Nam

nguyễn duy hinh

Lời nói đầu

Ngày 1-11-2005, khoa Triết học trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn mời tôi giảng học phần triết học Phật giáo cho lớp cao học. Vì vậy tôi phải trở lại vấn đề triết học mà năm 1984 tôi đã phát biểu bài Mấy suy nghĩ về nội dung tư tưởng của tông Trúc Lâm bàn về lý luận bản thể, lý luận giải thoát trong hội nghị nghiên cứu triết học và đã in bài này trong tập kỷ yếu Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam do Viện Triết học xuất bản năm 1986. Nay thể theo yêu cầu của các học viên tôi biên soạn cuốn sách này và vì vậy cách trình bày, trích dẫn mang ít nhiều phong cách bài giảng.

Việc nghiên cứu triết học Phật giáo của tôi bắt đầu từ năm 1963 khi được nhà sư chùa Bà Đá tặng cuốn Phật giáo triết học của Phan Văn Hùm gợi nên. Nay tôi vẫn noi theo cấu trúc cơ bản của nhà triết học Phan Văn Hùm đã quá cố mà phân chia triết học Phật giáo thành: Bản thể luận, Nhận thức luận, Giải thoát luận.

Tác phẩm Triết học Phật giáo Việt Nam của tôi gồm hai chương chính, một lời nói đầu và một lời kết.

Chương I. Triết học Phật giáo. Gồm ba tiết: Bản thể luận, Nhận thức luận và Giải thoát luận.

Chương II. Triết học Phật giáo Việt Nam. Gồm ba tiết: sơn môn Dâu, sơn môn Kiến Sơ và sơn môn Trúc Lâm.

Tư liệu về Phật giáo Việt Nam tôi dẫn lại tư liệu trong cuốn Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của tôi đã xuất bản năm 1999 có bổ sung, hiệu chính một đôi chỗ cần thiết và minh giải dưới gốc độ triết học tôn giáo.

Và để cho độc giả không ngỡ ngàng dưới đây trình bày tóm tắc lịch sử Phật giáo và lịch sử Phật giáo Việt Nam trước khi bước vào hai chương chính.

Phật giáo là tôn giáo của Ấn Độ sau đó truyền bá ra các quốc gia phương Đông hình thành những dòng Phật giáo khác nhau: Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Trung Quốc, Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Sri Lanka, Phật giáo Mianmar, Phật giáo Thái Lan, Phật giáo Cămpuchia, Phật giáo Lào, Phật giáo Tây Tạng, v.v...

Người sáng lập Phật giáo là Thái tử Tất Đạt Đa (Siddharta), con của Tịnh Phạn (Suddhodana) và hoàng hậu Ma Da (Maya), họ Cồ Đàm (Gautama), vương tộc Thích Ca (Sakya), nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu). Các danh từ thái tử, vua, hoàng hậu, nước đều là những thuật ngữ sau này người ta dùng, không phải đương thời thế kỷ VI trước công nguyên đã có những danh hiệu như thế, không nên hình dung theo tri thức hiện đại. Nhưng đó là một cộng đồng người có một tầng lớp trên cai quản xã hội mà có nhà nghiên cứu cho là bộ lạc, có nhà nghiên cứu cho là tiểu vương quốc. Trong những kinh sách sau công nguyên thuật lại sự tích của Ngài cho là Ngài sinh tại vườn Lâm Tì Ni (Lumbini) nay thuộc nước Nê-Pan. Bà Ma Da mơ thấy một con voi trắng đầu thai mà sinh ra Ngài. Ngài sinh ra từ nách mẹ, sinh ra bèn đi 7 bước, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, nói: Thiên thượng địa hạ duy ngã độc tôn. Đều là những huyền thoại văn hóa dân gian nhằm đề cao Ngài là một Siêu Nhân như không phải thực tế lịch sử. Đã từng có nhà nghiên cứu (Kern, Sénat, Paul Lévy, Ananda K. Coomaraswamy) cho rằng Thích Ca chỉ là một thần linh. Ananda K.C. cho là thuộc loại thần lửa (Agni) trong kinh Vệ Đà (Veda = Tri thức) đến thế kỷ thứ III trước công nguyên thời đại vua A Dục (Asoka) thì được Nhân hóa thành con người Thích Ca Mầu Ni (Sakyamuni - nhà hiền triết học Sakya). Nhưng cho đến nay tuyệt đa số các nhà nghiên cứu đều thừa nhận Ngài là nhân vật lịch sử sinh ngày trăng tròn tháng Vaisaka, thọ 80 tuổi. Nhiều cách suy tính ngày năm sinh tử của Tất Đạt Đa. Hiện nay Phật giáo Việt Nam chấp nhận ngày 15-4-544 trước công nguyên là ngày Phật đản (đó là năm Thích Ca tịch diệt) cho nên tính Phật lịch năm 2539 là năm 1995 dương lịch và năm 2006 là năm 2550 Phật lịch.

Tất Đạt Đa học tập văn võ toàn tài, đến năm 16 (hay 19) tuổi thì kết hôn với Da Du Đà La (Yasodhara), sinh hạ La Hầu La (Rahula). Năm 29 tuổi thì Ngài xuất gia, năm 35 (hay 30) tuổi đắc đạo. Ngài thuyết pháp đến năm 80 tuổi thì nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na Ca (Kusinagara). Tiểu sử của Ngài được biên tập rất muộn sau công nguyên trong các kinh Bản Sinh, Phổ Diệu, v.v... mang đậm tính truyền thuyết dân gian. Cho nên Thích Ca Mầu Ni xuất hiện trong thư tịch Phật giáo như một nhân vật nửa lịch sử nửa thần thoại. Thực tế đó là một nhân vật lịch sử được nhân dân nhiều thời tôn vinh bằng cách huyền thoại hóa. Huyền thoại hóa là thủ pháp văn hóa dân gian dùng để miêu tả Siêu Nhân. Huyền thoại hóa (thần thoại hóa) các Đại nhân là một thủ pháp văn hóa dân gian truyền miệng của nhân loại không riêng gì Ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam.

Khi mới xuất gia Ngài học tập với các tu sĩ Bà La Môn giáo như A-ra-la Ca-la-ma (Arala Kalama), Uất-đà-ca La-ma-tử (Udraka Ramaputta) vào Tuyết Sơn ngồi thiền tu khổ hạnh. Ngồi thiền là một phương pháp tu hạnh có từ trước và thịnh hành trước Thích Ca. Sáu năm ròng, Tất Đạt Đa mỗi ngày chỉ ăn một hạt lúa mạch rồi dần dần 7 ngày ăn một lần, ăn hoa quả, ăn cỏ... Truyền thống ngồi thiền đó cho đến nay vẫn tồn tại. Ngay năm 2005 tại Nê-pan có cậu bé 15 tuổi ngồi thiền trong hốc cây cổ thụ của khu rừng rậm tai ngôi làng phía nam thủ đô Kathmandu. Cậu bé 15 tuổi tên là Ram Bahadur Bamjan (Bamjon) đã ngồi thiền 6 tháng mắt nhắm nghiền, thân thể bất động. Hàng trăm ngàn người đến chiêm ngưỡng và tin là Đức Phật Thích Ca tái sinh. Cậu bé dự định ngồi thiền 6 năm. Mẹ của cậu tên là Maya Devi trùng tên mẹ Thích Ca. Cậu là người con thứ 3 trong 7 (4) người con của bà. Cậu bắt đầu ngồi thiền từ ngày 17-5-2005. Hiện chính quyền Nê-pan đang tổ chức bảo vệ và nghiên cứu khoa học về cậu bé ngồi thiền này. Có thông tin cậu bé không ăn, có thông tin cậu ăn nhựa rễ cây và có cả thông tin ban đêm cậu lén lút ăn như bình thường và đã béo ra!1 Có thể là một trò lừa bịp. Nhưng tâm linh Phật giáo là hiện hữu trong hàng vạn người đến chiêm ngưỡng.

Năm 2005, Benjam ngồi thiền trong hốc cây, dự định ngồi 6 năm. Đó là Benjam muốn lập lại việc 2559 năm trước Thích Ca ngồi thiền trong Tuyết Sơn 6 năm chăng? Có lẽ Benjam cho rằng mẹ mình là mẹ Thích Ca tái thế cho nên cậu là Thích Ca tái thế. Nhưng Benjam không biết rằng Thích Ca đã nhận thấy lối ngồi thiền đó không hiệu quả, đã từ bỏ Tuyết Sơn, tắm rửa, uống sữa rồi đến ngồi dưới gốc cây bồ đề tại Già Da (Gaya) và tại đó Ngài đã Đại Giác và vì vậy nơi đó trở thành Bồ Đề đạo trường (Bodh-Gaya) thánh địa Phật giáo. Từ bỏ ngồi thiền ở Tuyết Sơn là hành vi chối bỏ Bà La Môn giáo của Thích Ca Mầu Ni. Ngày nay trong nghệ thuật Phật giáo có tượng Tuyết Sơn cực đẹp đặt trên Phật điện chỉ là ghi lại hình tượng một bước đi thất bại trên con đường tu hành chứ không phải một phương pháp tu hành đắc đạo của Thích Ca Mầu Ni.

Tất Đạt Đa ngồi dưới gốc cây pippala (sau này gọi là cây bồ đề) phát nguyện nhập thiền cho đến bao giờ Giác mới đứng dậy. Tương truyền sau 49 (7 x 7) ngày đêm thì vào nửa đêm Tất Đạt Đa đại giác và thành Phật với 10 danh hiệu biểu dương tài đức của người sáng lập Phật giáo.

Đại Bát Niết Bàn kinh viết Thích Đề Hoàn Nhân (Đế Thích) biến thành quỉ La Sát đưa ra 4 câu kệ miêu tả nội dung Giác của Thích Ca Mầu Ni:

Các hạnh vô thường

Là pháp sinh diệt

Sinh diệt diệt rồi

Tịch diệt là vui2

Sau khi đắc pháp, Thích Ca Mầu Ni suy nghĩ không muốn truyền pháp nhưng Phạm Thiên, Đế Thích khuyến khích Ngài truyền giáo. Vì sao? Vì phát hiện của Ngài là Diệt hoàn toàn trái với tư tưởng Sinh của Bà la môn giáo. Đó chính là sự phản đối rốt ráo Bà la môn giáo mà sau này sẽ biểu hiện rõ hơn trong các kinh Phật. Thế tại sao lại có tư liệu về hai vị thần Bà la môn giáo Phạm Thiên và Đế Thích khuyến khích Ngài truyền bá tư tưởng chống Bà la môn này và trở thành hai hộ pháp gia nhập thần điện Phật giáo? Đó là cách thể hiện sau này Phật giáo tiếp thu ảnh hưởng Tân Bà la môn giáo hình thành Phật giáo Đại Thừa.

Bốn câu kệ chính là nội dung Tứ diệu đế.

Sau khi quyết định truyền giáo, Thích Ca Mầu Ni đến vườn Hươu (Mrgavana = Lộc Uyển) thuyết pháp cho 5 người đồ đệ đầu tiên. A Nhã Kiều Trần Như (Ajuata Kaundinya), A Thấp Bà (Asvajit = A Thuyết Thị = Mã Thắng), Bạt Đề (Bhadrika), Ma Ha Nam (Mahanamakulita = Ma Ha Nam Câu Lợi), Thập Lực (Dasabalakasyapa = Thập Lực Ca Diếp) đã từng theo Tất Đạt Đa ngồi thiền ở Tuyết Sơn, nhưng khi thấy Tất Đạt Đa từ bỏ Tuyết Sơn xuống sông Ni Liên Thuyền Na (Nairanjana) tắm rồi ăn bát sữa bò do cô gái chăn bò Nan Đà (Nanda) dâng thì họ cho thầy đã bỏ đạo nên bèn bỏ thầy đến Vườn Hươu tiếp tục tu hành. Bấy giờ đã đắc đạo, Thích Ca Mầu Ni bèn tìm họ truyền giáo, và họ trở thành 5 đồ đệ đầu tiên thường gọi là Ngũ tì kheo. Đó là lần thuyết pháp thứ nhất. Các tư liệu đời sau cho Thích Ca thuyết Tứ diệu đế và Thập nhị nhân duyên và coi đó là nội dung Phật giáo nguyên thủy. Cũng có tư liệu cho rằng ban đầu Thích Ca Mầu Ni chỉ thuyết giảng Tứ diệu đế. Lại có một cây trụ đá tương truyền thời vua A Dục dựng tại Vườn Hươu ghi lại: Thích Ca khuyên các đồ đệ không nên quá ép xác mà cũng không nên quá phóng túng. Cây trụ đã gãy, các đoạn gãy vẫn còn chôn đứng tại Vườn Hươu. Nếu thừa nhận nội dung như vậy thì đó là Trung Đạo. Đây là một cơ sở sau này Phật giáo Đại Thừa phát triển thành lý luận Trung Đạo và tự nhận là chính thống, đồng thời gọi các phái đối lập là Tiểu Thừa. Tiểu Thừa không phải là danh xưng của các phái này tự nhận, nói chung họ thường tự nhận là Thượng Tọa Bộ (Therevada).

Sau đó Thích Ca Mầu Ni thu nhập nhiều đệ tử mà nổi tiếng nhất thường gặp trong các kinh là 10 người mà kinh sách gọi là Thập đại đệ tử: Ma Ha Ca Diếp (Maha Kasyapa - Ca Diếp), Xá Lợi Phất (Sariputra), Mục Kiền Liên (Mahamaudgalyayana), Tu Bồ Đề (Subbhuti), Phú Lâu Na (Purna), Ma Ha Ca Chiên Diên (Maha Katyayana), A Na Luật (Aniruddha), Ưu Bà Ly (Upali), A Nan Đà (Ananda = A Nan), La Hầu La (Rahula). Nhiều đồ đệ là những tu sĩ Bà la môn giáo nổi tiếng đã có hàng trăm đồ đệ nay qui y Phật giáo.

Sau khi Phật Thích Ca nhập diệt thì nhận thức giáo lý của các đồ đệ không nhất trí cho nên diễn ra 4 lần kiết tập để chỉnh lý thống nhất giáo lý. Tư liệu về thời gian, địa điểm, người chủ trì các cuộc kiết tập không thống nhất. Nhưng cơ bản thường nói đến 4 cuộc kiết tạp như sau:

1. Lần thứ nhất tiến hành ngay sau khi Thích Ca Mầu Ni tịch diệt tại hang Thất Diệp trong thành Vương Xá (Rajagriha), có 500 tì kheo tham dự kiết tập do Ca Diếp chủ trì. A Nan tụng phần Pháp sau này là cơ sở kinh Tạng. Ưu Bà Ly tụng phần Giới luật sau này là cơ sở của Luật Tạng. Chỉ là hiệp tụng không có văn bản. Có nguồn tư liệu cho rằng đã hiệp tụng đủ Kinh, Luật, Luận ba tạng, sau này là nội dung văn bản Tam Tạng Sanscrit và Pali. Người ta thường gọi Tam Tạng Pali gần với Phật giáo nguyên thủy hơn bản Sanscrit. Tuy nhiên chưa có công trình nào định niên đại chính xác cho kinh Phật, ngoại trừ một số kinh Phật Đại Thừa xuất hiện khoảng đầu công nguyên.

Đồng thời với các cuộc kiết tập trong hang Thất Diệp thì ngay tại vườn Trúc Lâm ngoại thành Vương Xá có một số đồ đệ khác hội họp tuyên bố không đồng ý với nội dung cuộc họp trong hang Thất Diệp. Mầm phân liệt đã bộc lộ.

2. Lần thứ hai tiến hành sau lần kiết tập thứ nhất, khoảng 100 năm tại thành Phệ Xá Lị (Vesali) do Da Xá (Yasa) chủ trì với 700 tì kheo tham dự. Nội dung là thảo luận Thập sự hay có nguồn tư liệu khác là Ngũ sự.

Thập sự do giáo đoàn đông Ấn Độ nêu ra.

Thập sự là Diêm tịnh, Chỉ tịnh, Tụ lạc gian tịnh, Trụ xứ tịnh, Tùy ý tịnh, Cửu trụ tịnh, Sinh hòa hợp tịnh, Bất ích lũ-ni-sư-đàn tịnh, Thủy tịnh, Kim tiền tịnh. Nội dung cơ bản là các tì kheo phương Đông đề nghị nới rộng giới luật cho phép ăn uống, cư trú, tọa cụ thoải mái hơn và đặc biệt cho phép tì kheo nhận giữ và súc tích tiền bạc.

Truyền thống tu khổ hạnh cực đoan như kiểu tu tại Tuyết Sơn đã bị Thích Ca Mầu Ni giải khổ hạnh, chủ trương không quá phóng túng mà không quá ép xác, nay lại được giải khổ hạnh một mức nữa hướng tới khoan dung. Đặc biệt việc cho phép nhận bố thí bằng tiền bạc sẽ dẫn đến sự hình thành tư hữu tài sản trong Tăng già, điều này hoàn toàn trái với tinh thần giới luật của Thích Ca Mầu Ni.

Ngũ sự do Đại Thiên (Mahadeva) đề xuất phê phán quả vị A La Hán có 5 hạn chế. Một, bậc A La Hán vẫn còn có cơ năng sinh lý và tình dục (đại tiểu tiện, di tinh...) như người thường. Hai vẫn còn có chỗ "Vô tri". Ba, vẫn chưa nhận thức đầy đủ Tứ diệu đế, còn do dự. Bốn, không tự mình minh chứng được quả vị mà phải người chỉ dẫn. Năm, vẫn còn đau khổ. Đó chính là phê phán cái mà sau này gọi là Tiểu Thừa. Và Đại Thiên là tổ sư Đại Chúng bộ chủ yếu gồm các giáo đoàn đông Ấn Độ. Ngay sau đó Đại Chúng bộ triệu tập kiết tập riêng hình thành Ngũ Tạng: Kinh, Luật, Luận, Đại Pháp, Tạp và Bồ Tát tạng.

Dù theo nguồn tư liệu về Thập tính hay Ngũ sự thì kiết tập lần thứ hai đã dẫn đến phân liệt lần thứ nhất của Tăng già. Thượng Tọa Bộ (Therevada) thuộc các giáo đoàn tây Ấn Độ chủ trương bảo thủ nên tự nhận là thuộc Phật giáo nguyên thủy. Đại Chúng Bộ của các giáo đoàn đông Ấn Độ chủ trương khoan dung là tiền thân của Đại Thừa hay Bồ Tát thừa sau này. Với lần kiết tập này xuất hiện Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ. Thời kỳ Bộ Phái Phật giáo bắt đầu, về sau hình thành hơn 20 bộ phái khác nhau.

Tuy nhiên tư liệu phức tạp và Đại Thừa chỉ xuất hiện vào khoảng đầu công nguyên nghĩa là muộn hơn kiết tập lần thứ hai. Sau kiết tập lần thứ hai là kiết tập lần thứ ba.

3. Lần thứ ba được triệu tập khoảng 100 năm sau khi kiết tập lần thứ hai. Khoảng năm 246 trước công nguyên, vua A Dục (Asoka) (264-226 hay?-232 trước công nguyên), đề xuất triệu tập 1000 tì kheo tại thành Hoa Thị (Pataliputra) dưới sự chủ tọa của Mục Kiền Liên Tử Đế Tu. Chủ đề kiết tập là phê phán ngoại đạo. Tương truyền Đế Tu viết Luận Sự hay có tư liệu cho là soạn 7 bộ kinh và cho là từ đây kinh Phật thành văn. Nhưng nói chung các nhà nghiên cứu cho là trong lần kiết tập này vẫn không có văn bản. Tuy vậy ngày nay đang lưu truyền cuộc đối thoại của vua Milinda với Nagasena thường gọi là Những câu hỏi của vua Milinda (văn bản Pali), nội dung cực kỳ phong phú khó lòng coi đó là tư tưởng Phật giáo thời vua Milinda (khoảng thế kỷ thứ II trước công nguyên). Chính lần kiết tập này đã quyết định truyền bá Phật giáo đến Sri Lanka và các nước Nam Á dẫn đến hình thành Tam Tạng Pali. Trong các tư liệu Nam Truyền đề cập đến lần kiết tập này, còn các tư liệu Bắc Truyền thì không có lần kiết tập này.

4. Lần thứ tư do vua Ca Nhị Sắc Ca (Kaniska) (78-120 hay 144-170 sau công nguyên) khởi xướng. Có 500 A La Hán dự do Thế Hữu chủ trì tại Ca Thấp Di La (nay thuộc Catsơmia). Kiết tập luận giải Tam Tạng, cả thảy 300.000 tụng 6.600.000 câu. Vua Ca Nhị Sắc Ca sai khắc lên các tấm đồng, ròng rã 12 năm mới khắc xong, đặt vào trong tháp, nhưng sau đó đã mất!

Về lần kiết tập thứ nhất, còn có tư liệu cho tiến hành 500 năm sau Phật nhập diệt tức khoảng thế kỳ I trước công nguyên, do Ca Chiên Diên Tử chủ trì 500 A La Hán và 500 Bồ Tát họp tại Kê Tân (tây bắc Ấn Độ ngày nay). Mã Minh chấp bút biên soạn A Ti Đạt Ma Tì Bà Sa 1.000.000 tụng.

Một tư liệu khác lại cho kiết tập tại Sri Lanka dưới triều vua Phạt Đa Ca Ma Ni, A Ba Da (Vattagamani Abhaya) năm 103 trước công nguyên hay 89-77 trước công nguyên có 500 tì kheo tham dự, biên soạn Tam Tạng Pali.

Không phải chỉ tư liệu về lần kiết tập thứ 4 và tư liệu về tất cả các lần kiết tập đều phức tạp về niên đại, người chủ trì, về biên soạn Tam Tạng. Chính vì vậy khó lòng định chính xác niên đại các kinh Phật và càng khó phân biệt đâu là kinh Phật giáo nguyên thủy, đâu là kinh Đại Thừa.

Điều đáng quan tâm là các lần kiết tập minh chứng nhận thức của các đại sư về giáo lý khác nhau cho nên nội dung Tam Tạng Pali cũng như Sanscrit không hoàn toàn thống nhất. Người ta thường cho Tam Tạng Pali nguyên thủy hơn Tam Tạng Sanscrit và vì vậy thường dẫn văn bản Pali để nghiên cứu Phật giáo nguyên thủy, tuy nhiên theo tôi không hoàn toàn như vậy, ngay trong văn bản Pali cũng có nhiều thành phần Đại Thừa.

Và vì vậy đâu là giáo lý Phật giáo nguyên thủy mà có người đồng nhất với Tiểu Thừa? Chỉ có thể phân biệt kinh Đại Thừa là những kinh trong đó đã thần hóa Thích Ca Mầu Ni thành Phật tức một Thần Linh khác với trước Đại Thừa chị coi Thích Ca Mầu Ni là Thầy, một giáo chủ nhân vật lịch sử.

Các nhà nghiên cứu tương đối thống nhất nhận định nội dung chủ yếu của Phật giáo nguyên thủy là Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên vì những tư tưởng này quán triệt trong tất cả các kinh Phật. Nhưng bản thân nội hàm Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên cũng không hoàn toàn nhất trí trong các kinh vì chúng đã trải qua phát triển lâu dài. Đó chính là chỗ khó và chỗ bất cập khi nghiên cứu triết học Phật giáo. Theo tôi phát hiện độc đáo ban đầu của Thích Ca Mầu Ni chỉ là lẽ Vô Thường thể hiện trong Tứ diệu đế mà thôi. Thập nhị nhân duyên là một lý luận hình thành về sau trên cơ sở tư tưởng các học phái trước Thích Ca mà chủ yếu là tư tưởng phái Số Luận (Samkhya).

Chính vì vậy trong tác phẩm này tôi đành phân biệt nội dung triết học theo hai thời kỳ lấy Đại Thừa làm ranh giới. Trước Đại Thừa nội dung giáo lý chủ yếu là Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Ngũ uẩn, Nghiệp, Luân hồi, Niết Bàn... như đa số các nhà Phật học chủ trương. Đại Thừa có nội dung là phát triển các phạm trù thời kỳ trước và đề xuất Thiên Phật với Tam thân, Phật tính, A lại da thức, Sắc Không, Bất Nhị, Trung Đạo... Tôi cho rằng các nhân vật trước Đại Thừa là những nhân vật lịch sử như Tất Đạt Đa, 5 tì kheo đầu tiên và 10 đại đồ đệ. Những thần linh như Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế Âm, A Di Đà là những thần linh hư cấu của Đại Thừa. Tất nhiên, Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước, Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Năng... là những nhân vật lịch sử trong Đại Thừa. Đó cũng là một cách để phân biệt kinh trước Đại Thừa và kinh Đại Thừa. Đó chỉ là nhận thức riêng tôi chưa chắc đã hoàn toàn đúng khi khảo sát kinh Phật vì kinh Phật mang tính hỗn dung rất sâu đậm.

Kinh Phật nói riêng, lý luận Phật giáo nói chung là thành quả tư tưởng của nhiều thế hệ đại sư vô danh và hữu danh chứ không phải đều là của một mình Thích Ca Mầu Ni mặc dù hầu hết các kinh Phật đều mở đầu bằng giới thiệu Thích Ca Mầu Ni thuyết pháp giảng kinh này ở đâu với ai.

Thử nêu một ví dụ như Duy Ma kinh (Vimalakirti-nirdesasutra) đề cập đến việc Phật sai các đồ đệ như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp, Tu Bồ Đề, Phú Lan Na, Ca Chiên Diên, A Na Luật, Ưu Ba Ly, La Hầu La, A Nan tức Thập đại đệ tử đi thăm cư sĩ Duy Ma Cật ốm, nhưng không vị nào dám đi vì đã từng bị Duy Ma Cật chất vấn không đối đáp được. Cuối cùng Phật sai Văn Thù Sư Lợi đi thì mới ứng đối được với Duy Ma Cật. Tưởng chừng thuộc dòng kinh trước Đại Thừa vì chỉ định rõ địa điểm thuyết giảng kinh này tại vườn Am La thành (Vaisali) lại kể đến việc sai bảo Thập đại đệ tử (những nhân vật lịch sử). Nhưng xét đối tượng nghe kinh là vô số bồ tát và bồ tát Văn Thù được sai đến cùng Duy Ma Cật luận bàn Bồ Tát hạnh thì đó là kinh Đại Thừa.

Và nội dung chủ yếu của tác phẩm là bàn về triết học Phật giáo trong Phật giáo Việt Nam. Phật giáo Việt Nam đầu tiên được các nhà sư Ấn Độ theo thuyền buôn đi đường biển đến Luy Lâu (Dâu) nay thuộc huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh mà tư liệu hiện biết là dưới thời Sĩ Nhiếp (làm thái thú Giao Châu năm 187) khoảng thế kỷ II công nguyên. Sĩ Nhiếp có nhiều người Hồ cầm hương đi theo xe. Những người Hồ đó chính là nhà sư Ấn Độ. Nhiều nhà sư Ấn Độ đến Luy Lâu rồi tiến lên phương Bắc vào nội địa Trung Quốc. Một nhà sư đã ở lại Luy Lâu truyền giáo. Đó là Cà-la Xà-lê (Kala Acarya = Tôn sư đen, sau này diễn biến thành Khâu Đà La) truyền giáo cho Man Nương. Hình thành sơn môn Dâu.

Khoảng năm 195 dưới thời Hán Linh đế, Mâu Tử chạy loạn đến Luy Lâu nương tựa Sĩ Nhiếp đã viết cuốn Mâu Tử Lý Hoặc Luận phản ảnh tư tưởng Phật giáo Dâu. Về sau Khương Tăng Hội (?-280), con của một thương nhân Ấn Độ đến Luy Lâu buôn bán học Phật giáo tại Luy Lâu, biên soạn Lục Độ tập kinh, đến năm 247 lên Kiến Nghiệp dựng chùa Kiến Sơ độ tăng dưới thời Ngô Tôn Quyền.

Tư liệu về Cà-la Xà-lê ghi trong Lĩnh Nam Chích Quái, một tác phẩm có tính chất văn học dân gian, dễ dẫn đến nghi ngờ về tính xác thực. Nhưng tư liệu về người Hồ trong truyện Sĩ Nhiếp có trong sử cổ Trung Quốc và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của nước ta. Tư liệu về Lý Hoặc Luận của Mâu Tử ghi trong Hoằng Minh Tập của Tăng Hựu (455-548). Truyện Khương Tăng Hội có trong Xuất Tam Tạng Ký Tập của Tăng Hựu, Cao Tăng Truyện của Huệ Hạo (497-554). Ba sách này đều là văn bản Phật giáo Trung Quốc, không thể nghi ngờ về tính xác thực.

Cho nên sơn môn Dâu do tu sĩ từ Ấn Độ theo đường biển trực tiếp truyền nhập nước ta là điều khẳng định. Đó là cơ tầng Phật giáo Việt - Ấn có trước khi Phật giáo Trung Quốc truyền nhập.

Cơ tầng Phật giáo Việt - Ấn này tồn tại khoảng từ thế kỷ II đến thế kỷ V công nguyên. Sau đó Phật giáo Việt Nam tiếp thu ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc, hình thành thượng tầng Phật giáo Việt - Trung hay nói cho đúng hơn Việt - Ấn - Trung. Hiện nay vẫn có người cho rằng Phật giáo Việt Nam do Phật giáo Trung quốc truyền. Nói như vậy không đúng sự thực lịch sử.

Sau khi Khương Tăng Hội lên Kiến Nghiệp năm 247 thì còn có tư liệu về hai nhà sư nước ta vào nội địa Trung Quốc tiếp tục tu hành: Huệ Thắng (430-519), Thích Đạo Thiền (457-527). Tư liệu về hai ngài có trong Tục Cao Tăng Truyện của Đạo Tuyên làm năm 645. Và một nhà sư Trung Quốc là Đàm Hoằng đến chùa Tiên Châu Sơn nước ta tu hành rồi tự thiêu năm 455. Năm 580, nhà sư Ấn Độ Tì Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) sau khi sang Trung Quốc thì đến Dâu gặp nhà sư nước ta là Pháp Hiền, tu hành tại đây mà sách cũ do đó gọi phái Tì Ni Đa Lưu Chi hay phái Diệt Hỉ và cho là thuộc Thiền Tông, nhưng theo tôi Tì Ni Đa Lưu Chi không thuộc Thiền Tông tuy ông có gặp Tăng Xán một lần. Thiền Tông do Vô Ngôn Thông truyền vào nước ta.

Thế kỷ thứ VII có một nhà sư Trung Quốc đến nước ta cùng một số nhà sư nước ta sang Sri Lanka hay Ấn Độ cầu pháp. Nghĩa Tịnh (635-713) đã ghi lại sự tích của họ trong Đại Đường Tây Vực cầu pháp cao tăng truyện.

Năm 820 thiền sư Vô Ngôn Thông đến chùa Kiến Sơ chính thức truyền Thiền Tông hình thành sơn môn Kiến Sơ hay còn gọi là phái Vô Ngôn Thông. Đó là thượng tầng Việt - Trung trong Phật giáo Việt Nam.

Đến năm 1299 Trần Nhân Tông (Trần Khẩm, năm 1258-1308) lập sơn môn Trúc Lâm hội nhập hai dòng Dâu và Kiến Sơ. Và về sau tiếp tục phát triển theo xu hướng Trúc Lâm cho đến ngày nay.

Đó là những nét cơ bản của Phật giáo Việt Nam. Ngay từ khi truyền nhập thì đã là Phật giáo Đại Thừa. Truyền thừa Phật giáo Việt Nam còn phức tạp hơn. Nhưng tác phẩm này chỉ hạn chế nghiên cứu trong phạm vi các tư liệu của Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục, Tam Tổ thực lục cùng một số tư liệu về Trần Thái Tông và Tuệ Trung thượng sĩ. Đó là những tư liệu giàu tính triết học nhất trong Phật giáo Việt Nam. Tôi đã dẫn các tư liệu đó trong cuốn Tư Tưởng Phật giáo Việt Nam xuất bản năm 1999, nay dẫn lại một phần có bổ sung, hiệu chính và lý giải về phương diện triết học.

Trong Tư Tưởng Phật giáo Việt Nam có trình bày Phật giáo miền trung Trung bộ, Nam bộ và thời kỳ từ thế kỷ XV về sau. Nhưng trong tác phẩm này không đề cập đến phần đó.

Tác phẩm tất không tránh khỏi những sai sót vì triết học Phật giáo rất phong phú phức tạp đã có nhiều học giả nước ngoài dày công nghiên cứu mà vẫn chưa thành định luận thống nhất. Cho nên mong rằng các nhà nghiên cứu trong nước chỉ giáo và hi vọng mai sau có những công trình nghiên cứu khoa học hơn, chính xác hơn. Còn bản thân tôi đã quá già - 75 tuổi - không đủ sức nghiên cứu sâu hơn.

Hà Nội, ngày 20-12-2005

Lời nói đầu

Tiến >>

Đánh máy: Nguyễn Đan Thanh
Nguồn: NXB Văn Hóa Thông Tin &Viện Văn Hóa
VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 1 tháng 9 năm 2018