Đi

doãn quốc sỹ

Chương 1

BÀ nội bảy mươi bảy tuổi chẳng bao giờ ngờ chuyến đi từ Hà Nội vô Sài Gòn này lại chỉ để chứng kiến đám con cháu nội ngoại trong Nam ra đi gần trọn ổ. Thật buồn! Nhưng qua kinh nghiệm và cảm nghĩ bản thân, cụ cũng thấy rằng điều đó chẳng thể tránh được.

Đây là lần thứ hai cụ vô Nam đấy. Lần đầu cụ vô Sài Gòn vào tháng 3 năm 1977. Ngày đó thằng con trưởng của cụ (di cư vô Nam từ 1954) đã bị bắt giữ rồi. Tuy nhiên cụ tuyên bố với đám con cháu miền Bắc: “Tao vào Nam là anh chúng mày, bác chúng mày được tha!” Giọng cụ tuyên bố chắc nịch. Nhi – chú con trai thứ hai của cụ - cười hỏi: “Chắc cụ đã xin thẻ (sâm) và được thánh dạy như vậy, có phải không cụ?”

Cụ không trả lời. Cụ tập trung hết sức lực vào việc xin giấy tờ tại Công an huyện Từ Liêm, khu Ba Đình. Vô Nam lần thứ nhất đó, cụ chờ thằng trưởng mười ba tháng liền, nó vẫn không được tha. Cụ đành về Bắc, thật ngao ngán. Cụ thương thằng trưởng sau hai mươi ba năm xa cách, bố chết ngoài Bắc không được gặp mặt, mẹ vô Nam cũng không được gặp mặt. Cụ thương thằng trưởng đến chảy nước mắt. So với anh em trong Nam, nó nghèo hơn cả, nhưng bao giờ cũng giàu tình thương người, mà sao cứ gặp toàn vất vả. Củ trở về Bắc lần đó được ngót hai năm, tháng Giêng 1980 cụ nhận được điện báo tin thằng trưởng của cụ được tha. Thế là cụ tức tốc đi lo liệu giấy tờ lấy. Cô cán bộ Công an huyện sau khi nhận đơn bèn hẹn cụ tuần sau. Tuần sau cụ tới cô lại khất cụ tuần nữa. Thế là cụ dậm chân, dận đầu gậy, sau đó cụ đập bàn nữa. Cụ nói lớn, lúc thì nghẹn ngào, lúc thì chảy nước mắt: “Ô hay, cô nói gì lạ, nhà tôi luôn luôn chấp hành tốt chính sách, sao cô lại thất hứa. Nhà cô có người già không…Tôi ao ước trong bao nhiêu năm để vào Nam gặp con gặp cháu…Tôi già thế này rồi, tôi mà chết không gặp được con cháu, tôi oán cô ba đời…”

Bao nhiêu cán bộ ở các phòng xung quanh nghe cụ to tiếng đều đổ xô lại, lựa lời xin cụ nguôi nguôi đi, một người đưa cụ gặp thẳng anh trưởng phòng. Nữ cán bộ nói với những người còn lại: “Mọi lần cụ dễ tính lắm kia.” Vì vậy mà lần này kịp giấy tờ để cụ vào Nam trước Tết Canh Thân, đúng trưa ngày 27 Tết, bằng đường hàng không.

Mẹ con sau hai mươi sáu năm trời xa cách (trên một phần tư thế kỷ) được gặp nhau trước Tết; lũ cháu nội ngoại được quây quần quanh bà ríu rít chuẩn bị đón Xuân. Lũ cháu ngoại là đám con Quỳ, đứa con gái đứng hàng thứ tư trong tổng số bảy đứa con của cụ. Như vậy là sau hiệp định Genève 1954, năm con (ba trai, hai gái) ở lại miền Bắc, hai đứa (thằng trưởng và Quỳ) di cư vô Nam. Cháu nội cũng như cháu ngoại, mặt mũi đứa nào cũng vằng vặc, mô Phật, và nhất là đứa nào tâm địa cũng trung hậu, điều này làm cụ mừng nhất. Suốt từ 1954 đến nay có ngày nào đêm nào cụ quên niệm Phật đâu: “Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn linh cảm Quan Thế Âm Bồ Tát!” “Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát độ cho gia đình con sinh tâm hiền, diệt tâm tham, trên thuận dưới hòa một nhà êm ấm!”

Tối lũ cháu nhỏ nội ngoại tranh nhau ngủ với cụ (kể cả đứa đã lớn tới mười lăm, mười bảy tuổi) để được cụ gãi đầu và xoa lưng trước khi ngủ.

Hạnh phúc mẹ gặp con, bà gặp cháu của một đại gia đình thương yêu hòa thuận thực không bút nào tả xiết. Vậy mà cụ có ngờ đâu chỉ sau đó ít lâu cụ chứng kiến cảnh chúng nó ra đi dần, có đứa bị bắt giữ rồi được thả, rồi lại ra đi nữa.

“Đừng đòi hỏi tuyệt đối, người thánh thiện đến đâu cũng có điểm bất toàn, gia đình hạnh phúc đến đâu cũng có điểm đen bất toàn.” Ấy giá là nhà hiền triết thì tự an ủi như vậy, nhưng cụ tâm Phật, cụ chỉ biết niệm Phật, tin Phật, thương và yêu tất cả mọi người. Cụ tin như hai với hai là bốn là cụ, con cháu cụ và tất cả những người tốt trên thế gian đều được trời Phật phù hộ dù gặp nghịch cảnh nào đi nữa. Và ở nghịch cảnh nào cụ cũng tìm ra được khía cạnh tốt đẹp để vui với nghịch cảnh đó, hoặc đương nhiên coi nghịch cảnh đó không còn nghịch cảnh chút nào nữa. Cụ há đã chẳng từng nói nhiều với mọi người về việc cụ được gặp thằng trưởng: “Thật là Trời Phật tận thương tận độ tôi mới được gặp cháu nó (hoặc em nó), mà cháu nó (hoặc em nó) cũng được Trời Phật tận thương tận độ mới gặp được tôi. Mẹ con được gặp nhau!” Ấy thằng trưởng của cụ tuổi trời cũng gần sáu mươi rồi, nhưng dưới mắt cụ thì nó cũng không khác gì hồi nó còn là thằng cu Tèo đánh bi đánh đáo, nên cụ vẫn đơn giản dùng những từ ngữ “cháu nó, em nó” để chỉ nó. Mọi người vẫn gọi ông là ông giáo, vì ông đi dạy học.

Từ lúc đột nhiên khám phá ra lũ con cháu trong Nam đang tuần tự ra đi dần cụ chỉ biết niệm Phật, hầu như thường xuyên niệm Phật, kể cả đêm khuya lúc cụ thiếp ngủ tâm tưởng của cụ vẫn hướng về lời niệm. Và sáng sớm cụ đốt ba nén nhang thật ngát (bao giờ cụ cũng kén mua và dự trữ bằng được những bó nhang thật ngát) vái bốn phương rồi một nén cắm lên bàn thờ Phật, một nén cắm lên bàn thờ tổ tiên, một nén cắm lên bà thờ lộ thiên mà cụ thường khấn vái thổ thần và bách linh. Nguyên do sự nhận xét của cụ như sau.

Qua Tết chừng mười hôm cụ thấy con cháu tụ họp xì xào bàn tán, chợt về chợt đi với vài khu- ôn mặt lạ. Thoạt cụ không để ý. Một buổi trưa con Hoa chợt lướt tới ôm cụ và hôn nhẹ lên gò má, nói rất nhanh: “Cháu đi thăm người bạn vài ngày bà nhé!” Rồi quay lướt đi nhanh, cụ không kịp nhìn khuôn mặt nó. Bữa cơm chiều cụ hỏi bố nó: “Con Hoa bảo đi thăm bạn vài ngày, thế bạn nó ở đâu?” Bố nó đáp: “Bạn nó ở Bình Dương cụ ạ.” Cụ nhận thấy dáng điệu bố nó cực kỳ bứt rứt.

Vài ngày qua đi, không thấy Hoa về, vẫn trong bữa ăn cụ hỏi: “Ô hay, thời buổi gạo châu củi quế, muối hạt trai này sao nó đến chơi nhà bạn lâu dữ thế!” Lần này bố nó nói thật là nó đã cùng Lịch, chồng chưa cưới của nó, vượt biên bằng đường biển. Lúc đó cụ mới rụng rời người vỡ lẽ rằng buổi trưa hôm đó nó đã ôm hôn từ biệt bà nội. Khổ thay hôm sau cả nhà hay tin chiếc ghe vượt biên của chúng không thoát. Cả đám người trên ghe đều bị bắt giữ hiện giam ở khám lớn Mỹ Tho thì phải. Bố nó nói: “Xin cụ đừng lo, đàn bà con gái và trẻ nhỏ thường chỉ bị giữ trong vòng một tháng là thả thôi.” Ly, con em nó, cấp tốc đi Mỹ Tho, không đúng ngày thăm nuôi phải về không; lần thứ hai hai chị em mới gặp nhau. Cụ được biết thêm, trước đây nửa năm Hoa đã vượt biên lần đầu và cũng bị giam hơn một tháng mới được thả. Nào biết lần này bao giờ nó mới được thả đây. Tội nghiệp con bé, nó ẩn tuổi bà nội, tuổi Thìn. Tuổi Thìn bao giờ cũng vất vả thế đấy!

May thay lần này Lịch trốn thoát, chiều hôm sau đã có mặt ở nhà. Lịch chỉ kịp kể lướt với ông giáo là khi ghe Công an vứa sát vào ghe nhà đương mắc cạn gần bờ thì Lịch và hai bạn nhảy ào xuống nước trốn lên bờ, lẩn vào rừng đước, Công an bắn theo nhưng không sao. Kế đó Lịch đi mất dạng, vừa để nghe ngóng tin tức về Hoa vừa lánh mặt Công an truy lùng nếu chẳng may họ tìm ra manh mối.

Bà giáo vẫn cần mẫn trong coi “vườn trẻ” của bà trên lầu và âm thầm đợi Hoa về. Bà không quên – quên làm sao được – lần trước nó ở trại giam Thốt Nốt về trong như “người dưới hố đào lên.” Vườn trẻ của bà từ sau ngày “giải phóng” là căn gác nhà bà, trong nom ba đứa trẻ con mấy nhà hàng xóm, mỗi ngày được hai đồng mỗi đứa. Bà yêu trẻ, chăm nom chúng như chăm nom con cháu mình. Thôi thì cho chúng nó ăn, chúng nó bú, dọn cứt dọn đái, dỗ chúng nó ngủ, trưa tắm cho chúng một lần, chiều trước khi trả về cho cha mẹ chúng, tắm một lần nữa. Vào lúc cả ba đứa cùng quấy hoặc đứa la thét, đía ỉa, đứa đái, trong bà tả xung hữu đột thật tội nghiệp. Lần đầu tiên, Chu, cô em chồng từ Hà Nội vô, thấy chị dâu như vậy cứ luôn miệng xót xa: “Chị trong nom lũ trẻ như thế này thật là đổi bát máu lấy bát cơm.” Nghe vậy, bà giáo nói: “Ấy cô đừng lo, tôi hoạt động như vậy lại không ốm, nhàn nhã cái là ốm liền, số tôi vất vả mà.”

Đám con lớn ở nhà thấy mẹ quá vất vả đã có lần bảo mẹ thôi giữ trẻ. Bà hỏi chúng nó: “Ồ tao trả lũ trẻ về cho bố mẹ chúng nó, đứa nào tháng tháng kiếm thêm trăm tám chục đồng cho tao đây? Chúng mày ra đường trong đám người đội mưa đội nắng bán hàng trên các vỉa hè, thấy bóng cảnh sát áo vàng, mũ vàng lại lật đật ôm đồ chạy, chúng mày sẽ thấy tao trông trẻ ở ngay nhà còn sướng chán.” Đám con im thin thít không cãi vào đâu được. Một lần Ánh – đứa con gái thứ hai đã tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm ban Anh Văn “Thời Ngụy” – hiện dạy ở trường cấp ba Vũng

Tàu – vào những ngày nghỉ về thấy mẹ vất vả cũng đã đề nghị mẹ thôi không trông trẻ nữa. Bà giáo bảo cô con: “Lương mày giáo viên cấp ba, 51 đồng thêm vài lần chúng bán cho một ít nhu yếu phẩm, liệu có bằng nửa số tiền trăm tám tao kiếm ở ngay nhà này không?”

Một lần mẹ đi chợ, Ly phải dọn cứt lau đái mấy đứa trẻ cáu quá hét lên: “Tụi quỷ này, ỉa đái vô tổ chức!”

Vừa lúc bà giáo xách giỏ chợ về, bà chỉnh Ly ngay tức khắc: “Chỉ người lớn mới có thể thành quỷ, trẻ con bao giờ cũng là thiên thần!”

Duy một lần – hiếm hoi lắm – đúng vào lúc cả ba đứa trẻ cùng khóc dữ quá như khúc tam tấu bi ai đến đoạn Fortissimo, bà vừa xoay quanh dỗ đứa này, đưa võng cho đứa ki, đặt bình sữa vào miệng cho đứa nọ bú vừa nó nghe xúc động vô cùng: “Vào thời buổi này người lớn không khóc thì thôi, chúng bay khóc làm gì!”

Âu cũng là cái nghiệp của bà giáo!

Và lần này bà vẫn cần mẫn quay cuồng với lũ trẻ, âm thầm đợi Hoa về.

Chương 1

Tiến >>


Nguồn: DoanQuocSi.com
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 18 tháng 6 năm 2021