ĐỐT LÊN MỘT NGỌN LỬA

jack london

nguyên tác: “to build a fire” của jack london (1)

Đọc “To Build a Fire” của Jack London, tôi thấy hay quá; nó suy tưởng đến bản thể, giúp cho người trí (“homosapiens”) biết được mình, từ đó may ra mình có thể tự trả lời cho mình các thắc mắc: mình được sinh ra để làm gì, sống để làm gì; từ đó, may ra, dẹp bớt được phần nào lòng ham danh, hám lợi... Tuy nhiên, tôi cũng chỉ mới hiểu lờ mờ. Học bài học “no man must travel alone...”(2) trong truyện, tôi mạo muội xin dịch ra đây với mong ước được các bậc thức giả chỉ bảo thêm (ND).

Khi người đàn ông rời con đường độc đạo Yukon để leo lên triền dốc, nơi con đường mòn khuất nẻo ngoặt về hướng Đông xuyên qua khu rừng vân sam dày đặc, trời cũng vừa rạng, lạnh ngăn ngắt và xám xìn xịt. Triền dốc khá cao. Leo lên đến đỉnh, anh dừng lại để thở và bất giác đưa mắt liếc nhìn chiếc đổng hồ đeo nơi cổ tay. Đã chín giờ. Không có bóng dáng mặt trời dù trên bầu trời không một vẩn mây. Hôm đó là một ngày trời quang nhưng vạn vật dường như chìm dưới một làn hơi mỏng, một làn hơi mờ mờ ảo ảo làm cho ngày đã ảm đạm vì thiếu ánh mặt trời trông lại càng ảm đạm hơn. Điều đó không làm cho người đàn ông lo ngại; anh đã từng sống thiếu ánh mặt trời; đã khá lâu anh chưa nhìn thấy mặt trời, và anh biết phải khá lâu nữa thì cái quả cầu rừng rực ấy mới nhô lên trong chốc lát ở tít tận chân trời ở hướng chính Nam(3).

Người đàn ông ngoái nhìn lại con đường mình vừa đi qua. Băng nguyên Yukon trải rộng, chìm lấp dưới hàng thước băng. Trên mặt lớp băng là lớp tuyết dày đến cả thước. Từ Bắc chí Nam, cả một nền trắng trải rộng đến mút tầm mắt, chỉ trừ một vệt mảnh sẫm màu uốn lượn theo bìa khu rừng vân sam. Vệt mảnh sẫm màu đó chính là con đường mòn, con đường độc đạo chạy dài hơn năm trăm dặm từ phía Nam tới đèo Chilcoot ở thị trấn Dyea, ngoặt ra mé biển, rồi chạy tiếp hơn bảy mươi dặm về phía Bắc tới Dawson, rồi tiếp tục kéo dài cả ngàn dặm nữa tới Nulato, rồi thêm một ngàn năm trăm dặm nữa mới tới cảng nước sâu St Michael trên biển Bering.

Nhưng tất cả những cái đó - con đường mòn dài tít tắp, bầu trời thiếu ánh mặt trời, cái lạnh khủng khiếp, và cả vẻ lạ lùng kỳ bí của thiên nhiên, tất cả những cái đó không gợi được cho người đàn ông một ý tưởng gì. Không phải vì anh đã quen với cảnh tượng đó; anh là một chechaquo(4) - lính mới - đối với vùng đất này, và đây là mùa đông đầu tiên anh nếm trải ở đây. Cái gay là ở chỗ anh thiếu óc suy tưởng. Trong cuộc sống, anh rất năng nổ, thông minh, những đó chỉ là thứ khôn lỏi, khôn vặt chứ không phải là cái khả năng tư duy thông tuệ. Đối với anh, năm mươi độ âm chỉ có nghĩa một cái lạnh hơn tám mươi độ(5), một cái lạnh hết sức khó chịu, vậy thôi; điều đó chẳng làm anh phải suy nghĩ đến khả năng chịu lạnh của anh, và nói chung, nó chẳng làm anh phải suy nghĩ đến khả năng chịu đựng của con người, cái khả năng sinh tồn trong những giới hạn nào đó của cái nóng và cái lạnh, và cũng do vậy mà nó chẳng làm anh nghĩ ngợi gì tới cõi trường tồn, tới vị trí của con người trong trời đất. Năm mươi độ âm, đối với anh, điều đó chỉ có nghĩa là lạnh khủng khiếp, nó chỉ khiến anh nghĩ tới quần áo mũ mãng, những thứ có thể giúp anh chịu đựng được cái lạnh đó. Năm mươi độ âm, đối với anh, điều đó chỉ có nghĩa là năm mươi độ dưới không, ngoài ra nó chẳng gợi cho anh một ý niệm gì khác.

Lúc xoay người tính đi tiếp, người đàn ông thử phun nước bọt; tiếng lách cách khô khốc làm anh giật mình. Anh thử phun một lần nữa, rồi một lần nữa; trong không khí, bãi nước bọt đông cứng lại và vỡ ra trước khi rơi xuống tuyết. Anh biết, với nhiệt độ năm mươi độ âm, nước bọt sẽ đông cứng lại và vỡ ra trong tuyết, nhưng lúc này nó lại vỡ ra trong không khí; anh biết chắc chắn là nhiệt độ lạnh hơn năm mươi độ âm, còn lạnh tới bao nhiêu độ thì anh không biết, vả lại điều đó cũng chẳng khiến anh phải bận tâm. Anh đang hướng đến khu mỏ cũ trên bờ trái nhánh sông Henderson, nơi đám thanh niên trai tráng chắc đã đến rồi. Trong khi họ đi tắt qua lưu vực sông Indian thì anh lại đánh một vòng qua các ốc đảo vùng băng nguyên Yukon để tiện thể xem xét khả năng khai thác gỗ khi trời sang xuân. Lẽ ra thì anh có thể sẽ đến trại vào lúc sáu giờ; đúng vậy, vào lúc đó hẳn trời đã chập choạng tối, và mọi người đều đã đến đó; hẳn có một đống lửa đã được đốt lên, và trên đó là một nồi cháo đang ngui ngút tỏa hơi... Nhớ đến bữa ăn, anh áp tay vào túi hành trang gồ lên dưới lớp áo khoác; chiếc túi được bọc trong một chiếc khăn vuông quấn sát người, trong lớp áo sơ mi. Đó là cách duy nhất để giữ cho số bánh anh mang theo khỏi bị đóng băng. Nghĩ đến những chiếc bánh đó, anh cảm thấy vững dạ: các chiếc bánh đều đã được phết bơ và trong mỗi chiếc còn có kẹp thêm một miếng thịt khá dày.

Anh bước vội vào giữa đám cây vân sam cổ thụ. Con đường mòn chỉ còn thấy lờ mờ, kể từ khi chiếc xe trượt tuyết cuối cùng đi qua đây, tuyết đã rơi dày thêm hàng mấy tấc. Anh cảm thấy mừng vì đã không dùng xe trượt tuyết, không dùng đèn pin. Thật vậy, ngoài thức ăn được gói trong chiếc khăn vuông, anh không mang theo thứ gì khác. Tuy vậy, anh vẫn cảm thấy lạ lùng trước cái lạnh khủng khiếp anh đang trải qua. Lạnh kinh khủng, vừa nghĩ anh vừa đưa tay chà xát lên mũi, lên đôi gò má tê cóng; món tóc mai của anh khá dày nhưng vẫn không đủ giữ ấm cho khuôn mặt, nhất lả ở những chỗ nhô lên hứng trọn làn không khí giá buốt.

Chạy lúc thúc sát một bên chân người đàn ông là một con chó săn to lớn giống bản địa: đó là một con chó có bộ lông xám sáng, lai chó sói, trông không khác mấy so với chó sói rặt giòng. Con chó rũ xuống vì lạnh; hẳn nó cũng biết thời tiết này không thuận tiện cho việc đi lại; trong những tình huống như thế này, bản năng cùa nó thật sự đáng tin cậy hơn sự phán đoán của con người. Thật vậy, trời quá lạnh, phải đến sáu mươi, bảy mươi độ âm chứ không phải là năm mươi độ âm như người ta vẫn nghĩ. Không chừng phải đến bảy mươi lăm độ âm cũng nên. Với nhiệt độ làm nước đóng băng là ba mươi hai độ dương thì cái lạnh bảy mươi lăm độ âm cũng có nghĩa là lạnh tới một trăm lẻ bảy độ. Con chó chẳng biết tí gì về nhiệt độ; có lẽ cách nghĩ của giống nòi nó về cái lạnh không giống với cách nghĩ của con người, nhưng con vật có bản năng; nó cảm nhận được mối hiểm nguy đang đe dọa nó, do vậy bất giác nó chạy đến sóng bước với lữ khách, dường như nó mong ước được lữ khách dẫn nó vào một cái trại nào đó, hoặc tìm một nơi trú ẩn nào đó và đốt lên một ngọn lửa. Con chó đã từng biết hơi ấm của lửa; nó mong ước có được một ngọn lửa; không có lửa, nó chỉ còn có cách là bới tuyết thành một cái hang rồi cuộn tròn lại, vùi mình vào trong đó để chống chọi với cái không khí giá lạnh bên ngoài.

Trên bộ lông dày của con chó phủ một lớp sương giá; chung quanh mõm, trên mi mắt, hơi thở nó đóng băng, trắng toát. Trên hàm râu rậm màu hung đỏ của người đàn ông, băng cũng đã đóng càng lúc càng dày hơn cùng với hơi thở của anh phả vào không khí. Cũng bởi anh nhai thuốc lá nên lớp băng trên râu đóng dày đến nỗi mỗi khi phun bã thuốc ra ngoài, anh không thể nào chùi sạch miệng được, làm cho lớp băng đóng trên râu nhuốm màu hổ phách càng lúc càng dài thêm; mỗi khi anh vấp ngã, lớp băng đó lại mẻ ra những mảnh vụn sáng lấp lánh. Tuy vậy, anh chẳng mảy may để ý đến lớp băng vướng víu đó; đó là hình phạt mà những người nhai thuốc lá ở vùng này phải gánh chịu, và anh chỉ có thể rũ bỏ được sự trừng phạt đó giữa hai đợt lạnh; anh biết, trong khoảng thời gian đó, trời không đến nỗi lạnh thế này tuy rằng ở xóm Cột dặm Sáu mươi, hàn thử biểu có thể đã chỉ đến mức năm mươi, năm mươi lăm độ dưới không.

Anh tiếp tục đi xuyên qua vạt rừng trải rộng hàng mấy dặm, băng ngang một trảng cỏ rộng rồi đi men theo bờ một dòng suối đã đóng băng; đây là lưu vực sông Henderson, còn cách ngã ba đầu tiên khoảng mười dặm; anh nhìn đồng hồ: đã mười giờ; một giờ đi được bốn dặm đường, vậy là khoảng mười hai giờ rưỡi anh sẽ đến đó; anh quyết định đến lúc đó mới dừng lại để ăn trưa.

Khi người đàn ông rẽ xuống đi dọc theo bờ suối, con chó vẫn chạy lúc thúc bên chân anh, đuôi rũ xuống trông thật thảm hại. Con đường mòn kéo xe vẫn còn trông thấy nhưng cả những vệt xe mới nhất cũng đã chìm sâu dưới một lớp tuyết dày. Trong cái lưu vực vắng vẻ này, cả tháng trời không có lấy một bóng người qua lại. Người đàn ông vẫn cắm cúi bước; ngoài việc sẽ dừng lại để ăn trưa ở chỗ ngã ba và rồi sẽ đến trại vào lúc sáu giờ, anh chẳng còn suy nghĩ đến bất kỳ chuyện gì khác. Chẳng có ai để nói chuyện; vả lại, dù có muốn nói chuyện đi nữa thì cũng khó, vì quanh miệng anh đã đóng cả một lớp băng; bởi vậy anh cứ vẫn nhai thuốc lá, làm cho hàm râu màu hổ phách càng lúc lại càng dài ra.

Đôi lúc, ý nghĩ về cái lạnh chợt trở lại, anh nghĩ: trời lạnh quá, từ trước đến nay mình chưa từng trải một cái lạnh như thế này bao giờ, và anh vừa đi vừa bất giác đưa lưng bàn tay đeo găng chà xát lên mũi, lên đôi gò má, chốc chốc lại đổi từ tay này sang tay kia, nhưng dù có chà xát đến mấy đi chăng nữa, vừa lơi tay là đôi gò má, chót mũi lại tê cóng. Chắc chắn là đôi gò má đã đóng băng, anh biết vậy và cảm thấy hối tiếc là đã không nghĩ đến loại mũ chống lạnh có quai đeo che kín cả mũi mà có lần anh đã nhìn thấy; có được một chiếc quai đeo như thế hẳn sẽ giữ được cho đôi gò má khỏi bị đóng băng, mà nào nó có nặng nề, rắc rối gì lắm cho cam! Nhưng xét cho cùng, đó cũng chưa phải là chuyện gì to tát lắm. Đôi gò má tê cóng đi ấy à? Đau thì quả có đau thật đấy, nhưng cũng chưa đến nỗi nghiêm trọng lắm.

Khi không còn gì để suy nghĩ, người đàn ông lại chăm chú nhìn quanh; anh để ý quan sát những thay đổi của dòng suối, những quãng cong, những ngả rẽ, những vạt rừng ăn sát ra đến tận bờ, và anh luôn luôn để ý nhìn kỹ những điểm sắp đặt chân bước tới. Một lần, sau khi đi vòng qua một khúc quanh, anh sững người khi thấy mình đã đi tách khá xa lối đi đã vạch, và đã phải bước lùi trở lại khá nhiều bước. Anh biết, dòng suối đã đóng băng suốt từ trên xuống đến những chỗ sâu nhất; vào mùa đông, nước ở tất cả các nhánh sông, dòng suối ở vùng địa cực này đều đóng thành băng; tuy vậy, tuyết đóng trên các sườn đồi vẫn có thể có lúc tan ra, tạo nên những dòng chảy trên mặt băng nhưng ẩn sâu dưới lớp tuyết dày; anh cũng biết, ngay trong những đợt rét đậm, vẫn có những dòng chảy như vậy, và anh cũng biết rõ sự hiểm nguy của những dòng chảy đó: chúng tạo thành những hố nước có khi sâu đến hàng ba feet(6) ẩn dưới lớp tuyết dày, có khi trên mặt những hố nước như vậy là một lớp băng mỏng non nửa inch(7) rồi mới đến lớp tuyết che phủ bên trên; cũng có khi dưới lớp tuyết là các lớp nước và băng nằm xen kẽ... Đó là những cái bẫy mà người nào bị sụp xuống có thể bị ướt đến tận thắt lưng.

Chính bởi vậy mà anh phải dè chừng mối hiểm nguy đó. Anh dò dẫm ướm thử độ lún dưới mỗi bước chân, lắng nghe tiếng lớp băng ẩn dưới tuyết vỡ lắc rắc. Thời tiết thế này mà để cho chân bị ướt là điều hết sức nguy hiểm và phiền phức. Chí ít là phải trì hoãn, phải dừng lại, đốt lửa lên sưởi cho đôi chân thật ấm để rồi cởi giày, cởi vớ ra hong cho khô. Anh đứng lại, chăm chú nhìn nhánh sông, nhìn cả hai bên bờ và tin chắc rằng dòng nước hẳn phải chảy từ bên phải. Anh đứng ngẫm nghĩ - trong khi đó thì hai bàn tay cứ tự động luân phiên chà xát lên má, lên mũi, mãi một lúc sau anh mới men theo bờ trái, vừa bước tới vừa dò dẫm ướm thử từng chỗ đặt chân xuống. Cứ như thế, anh lần dò suốt từng chặng bốn dặm dài, và cứ mỗi khi vượt qua được một chỗ nguy hiểm, anh lại nhón một nhúm thuốc lá bỏ vào miệng nhai.

Trong suốt hai giờ liền, anh bắt gặp hàng loạt các hố nước nằm ẩn sâu dưới tuyết. Thường thì lớp tuyết đóng trên mặt các hố nước đó hơi hõm xuống đủ cho người ta có thể nhìn thấy mối hiểm nguy; tuy vậy, có lần anh đã suýt bị nguy, và có lần, bụng cảm thấy nghi ngờ, anh đã xua bắt con chó chạy lên phía trước; con chó không muốn đi, nó lùi lại cho đến khi người đàn ông đẩy nó tới trước nó mới vọt nhanh qua mặt tuyết phẳng lì, bất chợt một mảng tuyết sụt xuống làm nó hẫng chân nhưng đã phóng tới được bằng đôi chân sau. Đôi chân trước nó bị ướt, và nước đóng trên chân nó tức thì đóng thành băng. Theo bản năng, con chó vội gặm lấy gặm để đôi chân trước cố làm cho lớp băng bong ra, rồi nằm lăn trên tuyết cố liếm cho tan hết những mảnh băng đọng trong kẽ các ngón chân. Để băng đóng trong kẽ các ngón chân sẽ làm chân chết cóng; con chó không hiểu được điều đó, nó chỉ hành động theo một thói quen đã hình thành không biết tự đời thuở nào trong giống loài của nó. Nhưng người đàn ông thì biết rõ mối nguy đó, anh vội cởi găng tay, gỡ giúp cho con chó những mảnh băng còn mắc kẹt lại. Cởi găng ra chưa đến một phút mà các ngón tay đã buốt cóng, anh vội xỏ tay vào găng rồi ủ vào ngực áo.

Đến mười hai giờ trưa trời cũng sáng hẳn ra dù mặt trời vẫn còn ngao du đâu đó ở tít tận phương Nam. Giữa trưa, trên vùng đất vồng lên giữa đường chân trời và lưu vực sông Henderson nơi người đàn ông đang đi, bầu trời trong veo nhưng đến cả cái bóng của mình, anh cũng chẳng thấy nó đổ xuống đất. Anh đến chỗ ngả ba con sông băng đúng mười hai giờ ba mười, không sai chạy lấy một phút. Anh cảm thấy hài lòng về tốc độ mà anh đã đạt được; nếu cứ giữ được tốc độ đó, chắc chắn anh sẽ đến chỗ các bạn vào đúng sáu giờ. Anh cởi nút áo khoác, cởi tiếp nút áo sơ mi rồi lấy nhanh bọc đồ ăn ra. Hành động đó kéo dài không đến một phần tư phút, vậy mà các ngón tay anh đã tê cóng ngay; tuy vậy, thay vì xỏ vào găng trở lại, anh đập mạnh tay vào đùi hàng chục cái cho đến khi đùi đau rát lên. Sau đó, anh ngồi xuống một tảng đá nhô lên dưới lớp tuyết, bắt đầu ăn. Hốt nhiên, anh giật mình vì cái cảm giác đau rát trên đùi đã tan biến một cách nhanh chóng. Chưa kịp ăn, anh đã phải dùng một tay vừa đập mạnh vào đùi vừa không ngừng co duỗi các ngón tay, cố để rảnh tay kia để cầm bánh đưa lên miệng. Anh cố ngoạm miếng bánh nhưng lại bị vướng lớp băng đóng trên hàm râu. Anh đã quên không đốt lên một ngọn lửa để hơ cho lớp băng đó tan ra. Anh cười thầm cho cái sự hơ hỏng của mình và khi tự cười mình, anh mới chợt nghĩ đến mấy ngón tay đang tê cóng; rồi, nghĩ đến mấy ngón tay, anh mới chợt nhớ ra là mấy ngón chân đã đờ di từ lúc mới ngồi xuống, không biết mấy ngón chân còn ấm hay đã tê dại đi rồi; anh thử ngọ ngoạy bàn chân trong đôi ủng da; mãi tới lúc đó, anh mới biết chắc là các ngón chân hầu như đã bị chết cóng.

Anh hoảng sợ, vội xỏ tay vào găng và đứng dậy, nhảy cà tưng cho đến khi chân cảm thấy nhói buốt trở lại, bụng thầm nghĩ: đúng là lạnh thật; ở lưu vực nhánh sông Sulphur, khi nói là ở vùng này đôi khi trời lạnh đến cùng cực là người ta đã nói thật; và lúc này, anh chỉ còn biết tự cười mình. Phải chăng điều đó cho thấy là người ta không bao giờ được quá chủ quan trước mọi việc? Lạnh, đâu phải lỗi tại trời lạnh? Anh sải bước đi tới đi lui, vung mạnh tay, dẫm mạnh chân cho đến khi có thể tin được là cơ thể đã ấm trở lại; sau đó, anh móc túi lấy bao diêm quẹt ra tìm cách đốt lên một đống lửa. Chui xuống lùm cây bụi, nơi thường có cành cây trôi tấp vào những lúc suối còn chảy, anh tìm được ít củi. Thận trọng nhen lên từ một đốm nhỏ, chẳng mấy chốc anh đã đốt được một đống lửa hừng hực cháy; anh hơ cho băng trên mặt tan ra và nhờ có sức nóng của ngọn lửa anh mới ăn xong được mấy miếng bánh. Chỉ trong chốc lát, cái lạnh của đất trời được xua tan. Thấy lửa, con chó mừng lắm; nó chạy đến nằm duỗi chân, vừa đủ gần cho ấm nhưng cũng vừa đủ xa để khỏi bị cháy xém lông.

Ăn xong, người đàn ông nhồi tẩu thuốc vừa hút vừa tận hưởng khoảng thời gian dễ chịu đó. Được một lúc, anh lại xỏ tay vào găng, cẩn thận kéo dải mũ che kín tai rồi tiếp tục đi theo vệt đường mòn sát mé bờ trái con sông nhánh. Con chó tiếc nuối nhìn đống lửa; cái con người này không biết lạnh hay sao ấy; không biết các thế hệ cha ông của y đã từng biết thế nào là lạnh, một cái lạnh thật sự lạnh, một cái lạnh một trăm lẻ bảy độ dưới độ lạnh làm nước đóng băng? Nó thì biết, cả tiên tổ giống loài nó đã từng biết và nó thừa hưởng cái biết đó; nó cũng biết là đi ngoài trời trong cái lạnh dễ sợ như thế này thật chẳng hay tí nào. Những lúc lạnh như thế này thì phải bới tuyết tạo thành một cái hang rồi nằm co trong đó, đợi cho đến khi có mây bay ngang trời. Mặt khác, về thể chất, giữa chó và người thì có khác biệt gì nhau? Chó phục dịch cho người, bù lại nó sẽ được vuốt ve dù có khi đó là những cái vuốt ve bằng roi da hay ít ra thì cũng là những lời đe dọa mang hình ảnh chiếc roi da! Bởi vậy chó không buồn chia sẻ cái hiểu biết của nó cho người; cái đó có làm cho con người trở nên giàu có đâu! Khi quay lại nhìn đống lửa, hẳn con chó đã nghĩ như vậy. Nhưng người đàn ông đã huýt sáo, gọi nó bằng giọng đe dọa, vậy là nó lại lúc thúc chạy theo, sát vào người anh ta.

Người đàn ông nhúm một nhúm thuốc lá cho vào miệng. Cũng vừa lúc đó, hơi thở của anh đã đóng lại trắng xóa trên râu, trên cả lông mày, lông mi. Hình như bên phía trái con sông nhánh Henderson chẳng có nhiều suối ngầm, cả nửa giờ đường anh vẫn chưa nhìn thấy dấu vết con suối nào, vậy mà ngay lúc đó đã có chuyện xảy ra. Tại một khoảnh tuyết xốp, liền lạc, phẳng phiu, hình như bên dưới hoàn toàn chắc chắn, không có một dấu hiệu gì khác lạ, anh bị sụp hố. Hố không sâu lắm nhưng trước khi phóng lên được, anh đã bị ướt tới bắp chân.

Anh tức giận, lớn tiếng văng tục. Anh hy vọng là sẽ tới trại gặp những người kia vào đúng sáu giờ, vậy mà chuyện này chắc chắn sẽ làm anh phải chậm ít ra cũng cả tiếng đồng hồ vì phải đốt lên một đống lửa để hong cho khô giày, vớ, ủng... Anh quá biết là với thời tiết quá lạnh như thế này thì điều đó là bắt buộc, không thể miễn cưỡng được. Anh vội tấp vào, leo lên bờ, trên đó có những cành vân sam lớn chết khô quấn vào bụi rậm cùng với những búi cỏ khô bị cuốn theo giòng chảy và vướng lại từ năm trước. Anh ném những cành to nhất lên mặt tuyết để làm lớp nền ngăn không cho mồi lửa rơi xuống tuyết và đồng thời cũng để cho lớp băng bên dưới không bị tan chảy; xong, anh lấy bao diêm quẹt và mảnh vỏ cây xuyên mộc từ trong túi ra, đốt lên một mồi lửa, rồi cẩn thận đặt mồi lửa lên trên lớp nền xốp bằng cành to, và sau cùng là quơ cỏ khô cùng các cành con sắp lơi trên ngọn lửa.

Ý thức rõ mối hiểm nguy đối với mình, anh nhóm lửa một cách chậm rãi, thận trọng. Khi mồi lửa đã cháy mạnh hơn, anh từ từ sắp vào những cành to vừa. Anh ngồi xổm trên tuyết, gỡ các cành cây vướng trong bụi sắp cao bên trên ngọn lửa; anh biết phải làm như vậy mới chắc ăn. Khi trời lạnh dưới bảy mươi lăm độ âm, ngay từ cố gắng đầu tiên để nhóm lửa, con người không được phép thất bại, đặc biệt là khi chân anh ta bị ướt. Trong trường hợp chân còn khô, nếu thất bại, anh ta còn có thể chạy dọc theo lối mòn hàng nửa dặm cho đến khi máu lưu thông bình thường trở lại; còn khi chân bị ướt và đóng băng mà trời lại lạnh tới bảy mươi lăm độ âm, anh không thể nào chạy cho máu lưu thông lại được. Dù anh có chạy nhanh đến mấy đi nữa thì đôi chân ướt vẫn sẽ bị đóng băng càng nhanh và càng cứng hơn.

Người đàn ông biết tất cả những điều đó. Mùa thu năm ngoái, dân cố cựu ở lưu vực nhánh sông Sulphur đã nói với anh về chuyện này, và bây giờ thì anh đã thấy thấm thía với những lời chỉ bảo của họ. Đôi chân anh đã hoàn toàn mất cảm giác. Để nhóm lửa, anh buộc phải tháo đôi găng tay ra nhưng vừa tháo găng ra, mấy ngón tay anh đã tê cóng ngay. Khi đi với tốc độ bốn dặm một giờ, tim anh tiếp tục bơm máu ra khắp người cho đến tận đầu các ngón tay, ngón chân, nhưng khi anh vừa dừng lại, nhịp bơm cũng chậm hẳn xuống. Cái lạnh của không gian đã đè bẹp cái chóp đỉnh trần trụi của trái đất, và anh, đứng trên cái chóp đỉnh đó, anh đã phải hứng trọn sức mạnh của cái lạnh đó. Trước cái sức mạnh đó, máu trong người anh như bị dội lại. Giống như con chó, máu là một chất sống, và cũng giống như con chó, máu muốn trốn cái lạnh dễ sợ đó bằng cách co mình lại. Chừng nào anh vẫn còn đi được bốn dặm một giờ thì dù muốn dù không, máu vẫn được bơm ra khắp người, nhưng lúc này nó đã lùi lại, ẩn vào các ngăn chứa sâu bên trong cơ thể anh. Đầu các ngón tay ngón chân là những nơi đầu tiên cảm nhận được sự thiếu vắng của nó. Đôi chân ướt của anh đóng băng lại còn nhanh hơn, và các ngón tay để trần ra cũng tê cóng đi nhanh hơn dù chưa đến nỗi đóng băng. Mũi và đôi gò má đã đóng băng từ trước, trước cả lúc da bắt đầu thấy tê vì thiếu máu.

Nhưng anh vẫn chưa sao. Giá lạnh chỉ mới chạm được vào má, vào mũi, vào các ngón chân, và đến lúc này thì lửa đã bắt đầu cháy mạnh. Anh tiếp tục sắp lên đó những cành cây to cỡ ngón tay; chỉ một phút nữa thôi là anh đã có thể sắp lên đó những cành to cỡ cổ tay; đến lúc đó anh sẽ có thể cởi đôi ủng ướt ra để hong cho khô, và trong lúc đợi cho ủng khô, anh sẽ có thể hơ đôi chân trần bên ngọn lửa, tất nhiên, trước đó còn phải làm tan băng bằng cách hốt tuyết xát vào chân. Đốt lên được ngọn lửa đã là một bước thành công; anh sẽ không sao. Anh cười thầm, nhớ lại lời khuyên của những người cố cựu ở lưu vực sông Sulphur. Nhũng người đó thật đã quá nghiêm khắc khi đặt ra luật là không một người nào bị buộc phải đi một mình ở Klondike khi trời lạnh dưới năm mươi độ âm. Vâng, vậy mà anh đang ở đây, và anh đã gặp nạn; anh chỉ có một mình, và anh đã xoay xở để tự cứu mình. Trong số những người cố cựu đó, anh nghĩ, cũng có mấy người kỹ tính lo xa còn hơn cả đàn bà. Đối với đàn ông, điều quan trọng nhất là phải giữ cho được cái đầu; và anh đã giữ được. Là đàn ông, bất cứ ai cũng có khi buộc phải đi xa một mình. Kể cũng lạ, mũi và đôi gò má lại đóng băng nhanh đến như vậy. Và anh cũng quên không nghĩ đến chuyện là các ngón tay anh cũng có thể tê dại đi cũng chỉ trong ngần ấy thời gian. Mà cho dù chúng có chết dại đi, vì vừa phải dùng đến chúng để vơ củi, anh vẫn cảm nhận được là dường như chúng đã rời khỏi thân thể anh, không còn là của anh nữa. Khi chạm đến một que củi, anh phải nhìn, nhìn thật kỹ để biết có chắc là anh đã cầm được nó hay chưa; giữa anh và các đầu ngón tay của anh, hình như các sợi gân vẫn còn hoạt động.

Tất cả những cái đó cứ cho là chuyện vặt. Ngọn lửa đã bùng lên, tí tách; cái lưỡi lửa đã nhảy múa reo vui hứa hẹn sự sống. Anh bắt đầu tháo ủng. Cả đôi ủng bọc kín một lớp băng. Dây buộc ủng cứng còng; chúng vặn xoắn, thắt nút lại như các que thép vừa được vớt ra từ trong lửa đỏ. Đôi vớ dài lên tới bắp chân như được dệt bằng sắt. Bằng các ngón tay tê cóng, anh cố giật mạnh sợi dây buộc ủng nhưng rồi lập tức anh nhận ra ngay là làm như vậy thật là điên rồ; anh vội rút con dao bọc trong chiếc bao da.

Tuy nhiên, trước khi anh kịp cắt dây buộc ủng, đã có chuyện xảy ra. Anh đã sơ suất, hay đúng hơn, đã sai lầm. Lẽ ra anh phải đốt lửa ở nơi hoàn toàn trống trải. Lẽ ra anh không nên đốt lửa ngay gần bên cây vân sam dù rằng đốt ở đó sẽ dễ dàng hơn cho việc rút các cành nhỏ vướng trong lùm cây bên cạnh ra rồi sắp thẳng lên ngọn lửa. Anh đã đốt lửa trên khoảnh trống liền kề một cây vân sam, và trên các cành lớn của cây đó, tuyết đã đóng dày. Hàng mấy tuần nay, gió không thổi tới, và tuyết đã đóng trĩu cả các cành. Mỗi khi rút lá một cành con, anh đã làm cây vân sam lay động nhẹ, nhẹ đến mức dù có để ý, anh cũng không sao nhận ra được, nhưng chỉ một lay động nhẹ thôi cũng đủ gây nên tai họa. Tít trên cao, một cành cây oằn xuống dưới sức nặng của tuyết; nó oằn xuống các cành bên dưới lảm các cành này cũng oằn xuống theo, cứ như vậy, toàn bộ các cành cây đều oằn xuống dưới sức nặng của tuyết, trông như cả một khối tuyết từ bên dưới trồi cao lên; bất thần, khối tuyết đó đổ ập xuống người anh và lấp mất ngọn lửa; nơi ngọn lửa vừa cháy lúc này chỉ còn ngổn ngang một bãi tuyết tươi nguyên.

Người đàn ông ngơ ngác như thể vừa nghe lời tuyên án tử hình. Anh sửng sốt nhìn xoáy vào chỗ ngọn lửa vừa mới được đốt lên. Anh lặng người, có lẽ những người cố cựu ở lưu vực sông Sulphur đã nói đúng. Nếu anh có được dù chỉ một người bạn đường thôi thì giờ này anh đã không gặp nguy. Người bạn đường hẳn sẽ đốt lửa. Giờ thì chính anh phải đốt lại ngọn lửa, và lần thứ hai này anh không được phép thất bại. Cho dù có thành công, điều hầu như chắc chắn là anh phải chịu mất một vài ngón chân. Tuyết đã làm dày thêm lớp băng bao kín chân anh, và anh buộc phải chịu đựng cho đến khi đốt lên được đống lửa khác.

Bao nhiêu ý nghĩ xuất hiện trong đầu, nhưng anh đã không ngồi không để suy nghĩ. Mặc cho giòng suy tưởng cứ cuồn cuộn, anh hối hả sắp lại một cái nền mới, lần nàay ở nơi hoàn toàn trống trải, nơi hoàn toàn không có một cái cây phản phúc nào có thể đổ ập lên đống lửa anh sẽ đốt lên. Sắp nền xong, anh vơ cỏ khô, cành con trôi giạt từ hồi băng tan, giờ nằm vương vãi khắp nơi. Anh không còn co duỗi được các ngón tay để kéo các cành cây, túm cỏ đó lên, nhưng anh vẫn còn có thể dùng bàn tay và cả cánh tay để gom chúng lại. Bằng cách đó, anh gom được các cành mục và đành chịu, phải vơ luôn cả các túm rêu bám trên đó. Anh làm tuần tự; ngay cả khi lựa một ôm các cành to hơn để sắp lên ngọn lửa khi lửa đã cháy bùng, anh cũng làm một cách thận trọng. Trong suốt thời gian đó, con chó ngồi nhìn anh đau đáu; duy nhất chỉ có anh là có thể đem lại cho nó ánh lửa, vả chỉ còn chút nữa thôi là ánh lửa sẽ bùng lên.

Khi đâu đó đã sẵn sàng, người đàn ông thọc tay vào túi để lấy ra mảnh vỏ xuyên mộc thứ hai. Anh biết chỗ để mảnh vỏ đó, và dù các ngón tay đã mất cảm giác, anh vẫn còn nghe được tiếng loạt soạt khi mò tìm nó; anh đã cố hết sức nhưng vẫn không sao cầm được. Và, từ nãy đến giờ, bằng ý thức, anh cũng biết là chân anh cứ mỗi lúc lại càng đông cứng thêm. Ý nghĩ đó làm anh lo sợ, nhưng anh cố giữ bình tĩnh. Anh dùng răng kéo găng ra, lắc mạnh đôi tay, rồi dùng hết sức đập mạnh vào hai bên sườn. Vừa đập, anh vừa ngồi xuống, đứng lên; trong khi đó thì con chó ngồi co trên tuyết, cái đuôi xù của nó quấn vòng ra giữ ấm cho đôi chân trước, đôi tai nhọn giỏng lên nghe ngóng trong khi ánh mắt nó vẫn đăm đắm nhìn người đàn ông. Và anh, trong lúc vừa đập vừa vung tay, trong anh bỗng trào lên một niềm khát khao mãnh liệt khi nhìn con vật vẫn giữ được ấm và an toàn nhờ vào bộ lông mà thiên nhiên đã ban tặng cho nó.

Được một lúc, anh mơ hồ nhận ra là các ngón tay anh đã có cảm giác trở lại. Cảm giác râm ran càng lúc càng rõ hơn, trở thành ngưa ngứa rồi đau nhoi nhói làm anh thấy mừng mừng trong bụng, cởi vội chiếc găng bên phai, anh thò tay vào túi lấy mảnh vỏ cây rồi mặc cho các ngón tay trần tê cóng ngay trở lại, anh lấy luôn bao diêm quẹt ra, nhưng cái lạnh cùng cực đã làm các ngón tay anh chết cóng. Khi cố tách ra một que diêm, anh đã đánh rơi cả bao diêm xuống tuyết; anh cố tìm cách nhặt lên, nhưng không sao nhặt được; chẳng những không nắm được, cả sờ tới, các ngón tay chết cóng cũng không sao sờ được. Anh cố tập trung. Anh lái ý nghĩ sang đôi chân băng giá, sang đôi gò má tê cóng mà anh vừa lãng quên, rồi dồn toàn bộ tâm trí vào bao diêm quẹt. Thay vì sờ vào, anh huy động toàn bộ khả năng của thị giác để nhìn, và khi nhìn, anh cố điều khiển cho mấy ngón tay lại gần sát bao diêm; thật ra, chỉ có ý thức của anh là lại gần sát bao diêm, vì các sợi gân đã liệt, các ngón tay anh không còn tuân theo anh nữa. Anh xỏ tay vào găng trở lại rồi đập liên hồi kỳ trận vào đầu gối; rồi, chẳng còn cách nào khác, anh chập hai cánh tay lại và bằng cả hai bàn tay mang găng, anh xúc cả bao diêm lẫn mớ tuyết phía dưới, ủ luôn vào vạt áo.

Anh xoay xở cố kẹp cho được bao diêm vào giữa hai cổ tay rồi đưa lên miệng, rồi dồn hết sức lực, anh ráng há miệng ra, làm cho lớp băng đóng quanh miệng vỡ lắc rắc. Hạ hàm dưới xuống, vảnh môi trên ra, anh dùng hàm trên cố lừa tách ra một que diêm. Tách được một que, anh lại đánh rơi xuống vạt áo. Tuy không nhặt que diêm lên được nhưng anh đã nghĩ ra cách: dùng răng cắn chặt que diêm rồi quẹt mạnh vào chân; quẹt tới quẹt lui đến hai chục lần cho đến khi que diêm bật cháy, ánh tiếp tục cắn chặt que diêm dí vào mảnh vỏ cây, nhưng đầu diêm đang cháy rời ra, rơi vào lỗ mũi tuột luôn xuống khí quản làm anh ho sặc sụa, que diêm đang ngậm trên miệng rơi xuống tuyết, tắt ngấm.

Cố nén nỗi tuyệt vọng sắp trào lên, anh nghĩ: những người kỳ cựu ở lưu vực sông Sulphur quả thật chí lý: ở nhiệt độ năm mươi độ dưới không, muốn đi xa, bắt buộc phải có bạn đồng hành. Anh thử đập tay nhưng không sao lấy lại được cảm giác gì. Hốt nhiên anh dùng răng gỡ đôi găng ra, rồi kẹp cả bao diêm vào giữa hai cổ tay. Các cơ cánh tay chưa đến nỗi đông cứng; anh vẫn còn đủ sức ép chặt hai cổ tay vào các que diêm, xát mạnh vào chân. Diêm bật cháy, cả bảy mươi que cùng một lúc!

Trời im gió nên các que diêm vẫn hực cháy. Vừa nghiêng đầu tránh làn khói hăng xè, vừa tìm cách dí búi diêm đang cháy vào miếng vỏ cây, và vì vẫn còn kẹp chặt búi diêm đang cháy trên tay, anh chợt nhận ra cảm giác nơi cánh tay: thịt nơi cổ tay anh đang bắt cháy. Anh ngửi thấy mùi thịt cháy. Sâu thẳm trong người, anh cảm nhận được là tay anh đang bị cháy, rồi cảm giác đó chuyển thành cái đau nhức buốt, và, chừng nào còn cảm thấy đau, anh vẫn còn cố sức kẹp búi lửa tìm cách đưa đến gần miếng vỏ cây dù rằng miếng vỏ mãi vẫn chưa bắt lửa được vì lửa cứ bị hút vào chỗ tay đang cháy.

Cuối cùng, đến lúc không còn chịu nổi nữa, anh giật nẩy cả hai tay; búi diêm cháy rơi xuống tuyết, kêu xèo xèo, nhưng mảnh vỏ cây xuyên mộc cũng đã bắt được lửa. Anh tìm cách đắp cỏ khô và các cành con vào mồi lửa; anh không thể nhặt, cũng không thể chọn lựa vì phải nhấc những thứ đó giữa hai cổ tay. Bám vào các cành con là những mẩu gỗ mục và cả rong rêu, anh phải dùng răng để gỡ chúng ra, được chừng nào hay chừng ấy. Anh nâng niu ngọn lửa một cách vụng về nhưng thận trọng. Có lửa tức là có sự sống, không thể để cho nó tàn lụi được. Anh bắt đầu run lẩy bẩy vì máu dưới da đã rút sâu vào bên trong, do vậy anh càng vụng về hơn. Một mảng lớn rêu xanh rơi thẳng vào ngọn lửa vừa mới bắt cháy. Bằng mấy ngón tay đã chết cóng, anh cố cời mảng rêu lên, nhưng cái lạnh run trong người đã làm anh cời quá mạnh làm tắt cả mồi lửa, các búi cỏ và cành con vừa bắt lửa rời toe ra. Anh cố gom chúng lại, nhưng cái lạnh trong người đã làm vô hiệu mọi nỗ lực, anh tuyệt vọng nhìn các cành con càng toe ra xa hơn, từ mỗi cành, một làn khói nhẹ tỏa lên và đốm lửa ở đầu cành tắt ngấm. Mọi nỗ lực đốt lửa đã hoàn toàn thất bại. Anh thẫn thờ, bất chợt nhìn thấy con chó đang ngồi bần thần trên tuyết, giữa anh và đám tàn lửa, mắt đăm đắm nhìn anh trong khi hai chân trước, theo bản năng, hết chân này đến chân kia nhấc lên hạ xuống liên tục làm cho cả thân mình nó cứ lắc qua lắc lại không ngừng.

Thấy con chó, trong đầu anh, một ý nghĩ man dã chợt loé lên. Anh nhớ lại chuyện có người, khi gặp bão tuyết, đã giết một conbò mộng, mổ bụng nó ra rồi chui vào và nhờ đó mà thoát nạn. Anh phải giết con chó rồi vùi tay vào cơ thể nóng hôi hổi của nó cho đến khi cái tê cóng tan đi hết, để rồi sau đó có thể đốt lên một đống lửa khác. Anh dịu dàng gọi con chó, nhưng giọng anh có âm hưởng là lạ làm con vật sợ sệt; từ hồi nào đến giờ, nó chưa từng nghe con người nói với nó bằng giọng nói đó. Do bản năng dè dặt, nó cảm thấy có cái gì đó không lành. Nó không biết cái gì là không lành, nhưng ở đâu đó, bằng cách nào đó, trong óc nó đã nảy sinh sự hiểu biết về con người. Nghe giọng của người đàn ông, nó cụp tai xuống trong khi vẫn không ngừng làm cho cả thân mình nhúc nhích bằng cách liên tục nhấc lên hạ xuống hai chân trước, hết chân này đến chân kia; tuy vậy nó vẫn không dám nhích lại gần nguời đàn ông. Anh chống hai tay xuống, lết hai đầu gối, bò lần tới chỗ con vật. Tư thế khác lạ đó càng làm cho con vật nghi ngại hơn; nó lùi dần.

Người đàn ông chống tay ngồi lại trên tuyết, cố trấn tĩnh, rồi dùng răng kéo găng tay ra lót xuống chân. Anh cố dựng người đứng dậy. Vì chân đã mất cảm giác, anh phải đưa mắt liếc nhìn xuống xem xem có chắc là có thật mình đang đứng hay không. Dáng đứng thẳng của anh phần nào đã xóa được áng nghi ngờ trong óc con chó, và khi anh gọi bằng giọng đe dọa, gay gắt làm cho nó nhớ lại bản chất trung thành vốn dĩ của nó, nó tiến lại. Lúc nó tiến lại đã khá gần, người đàn ông không còn giữ bình tĩnh nổi; anh vươn tay chộp con vật, và ngơ ngác nhận ra là bàn tay mình không sao chộp dính được, không sao co duỗi hay rờ mó gì được. Anh vừa quên là bàn tay anh đã bị đóng băng và băng giá càng lúc càng rắn hơn; tuy vậy, trước khi con chó kịp chạy thoát, anh đã kịp nhoài mình tới ôm nó vào giữa hai cánh tay. Anh ngồi xuống tuyết, cúi cả thân mình đè chặt con chó trong khi nó vùng vẫy, gầm gừ, rên ư ử...

Tuy nhiên, anh cũng chỉ làm được có bấy nhiêu: ôm chặt con chó và ngồi đó. Anh biết chắc chắn là anh không có cách nào giết được con vật. Hoàn toàn không có cách nào. Với đôi bàn tay bất động, đến rút con dao từ trong bao ra, anh còn không rút được, nói chi đến việc cầm dao thọc vào cổ con vật. Anh buông lỏng tay, con chó cuống cuồng vọt ra, đuôi cụp vào giữa hai chân sau, sủa ăng ẳng. Nó vọt thẳng đến hơn bốn mươi feet mới dừng lại, quay đầu giương ánh mắt tò mò nhìn anh, tai giỏng lên nghe ngóng. Người đàn ông nhìn xuống đôi bàn tay để xem coi chúng có còn hay không, và nhận ra, chúng vẫn còn dính trên cánh tay. Anh lấy làm lạ là con người có lúc lại phải dùng đến mắt để xác định xem bàn tay mình nằm ở chỗ nào. Anh thử lắc cánh tay, đập mạnh bàn tay vào sườn. Anh ráng hết sức đập, có cả đến năm phút, và trong thời gian đó, tim anh bơm máu ra đủ cho anh khỏi bị cóng. Nhưng, hai bàn tay đã mất hết cảm giác, anh có cảm giác như đó là hai quả tạ gắn dính vào hai cánh tay.

Cái cảm giác đó làm anh lo sợ, một nỗi sợ mơ hồ nhưng nặng nề và u ám. Anh càng sợ hơn khi hiểu ra rằng đó không còn đơn giản chỉ là chuyện mấy ngón tay, ngón chân bị đóng băng, không còn đơn giản chỉ là chuyện mất hai bàn tay, hai bàn chân, mà là chuyện sống chết, và mọi cơ may đều đã tuột khỏi tay anh. Ý nghĩ về cái chết làm anh hoảng sợ và cái sợ đẩy anh bật nẩy lên, vùng chạy về phía vệt đường mòn lờ mờ dọc theo nhánh sông. Con chó nối gót, rồi chạy lên ngang hàng với anh. Anh chạy, hoảng loạn, trong nỗi sợ mà anh chưa từng biết đến trong đời. Anh ngã sóng soãi trên tuyết và nhìn thấy, đằng kia, đôi bờ nhánh sông băng, lùm cây với mấy cây vân sam cổ thụ, mấy cây thông trụi lá, và cao phía trên là bầu trời; anh lại vùng dậy, lại chạy và lúc chạy, anh cảm thấy đỡ hơn. Không còn lạnh. Có lẽ, nếu tiếp tục chạy, đôi chân anh hẳn sẽ tan băng. Và nữa, nếu tiếp tục chạy thêm, biết đâu anh sẽ có thể đến trại và sẽ gặp được đám thanh niên. Chắc chắn là đến lúc đó anh sẽ phải chịu mất mấy ngón tay, mấy ngón chân và một vài bộ phận trên mặt, nhưng cũng chắc chắn là đến đó, đám thanh niên sẽ lo liệu cho anh, sẽ cứu được các bộ phận còn lại. Cùng lúc đó, trong đầu anh nẩy sinh một ý nghĩ khác, báo cho anh biết là không bao giờ anh còn có thể đến trại được nữa, không bao giờ anh còn có thể gặp lại đám thanh niên được nữa, chỗ đó còn xa lắm; cái lạnh đã thấm sâu vào người anh, cả người anh sẽ đóng thành băng và anh sắp chết. Cái ý nghĩ sau cùng đó, anh cố tránh không nghĩ đến nhưng nó cứ trào lên, và anh phải cố nén nó xuống, cố lái ý nghĩ sang những chuyện khác.

Anh lấy làm lạ, không hiểu sao chân anh vẫn còn chạy được dù chúng đã đóng thành băng đến mức anh không còn cảm nhận được chúng, không còn cảm nhận được là chúng nâng cơ thể anh lên ra sao, chạm vào trái đất như thế nào; dường như anh đang chạy lơi khơi bên trên mặt đất, không còn dính dáng gì với trái đất... Có lúc hình như anh đã thoáng nhìn thấy đâu đó bóng dáng Thần Mercury(8) mang dưới chân đôi giày có cánh, và kinh ngạc với cái ý nghĩ là Thần hẳn cũng có cảm giác giống như cảm giác của anh khi bay là là trong khoảng không bên trên trái đất.

Cái ỷ tưởng cho rằng anh cứ chạy, chạy mãi thì có thể đến được chỗ đóng trại và gặp được bọn trẻ, đúng ra, chỉ là một ảo tưởng: anh không đủ sức chịu đựng. Biết bao lần anh vấp ngã, loạng choạng, ngã ập xuống, ngã sõng soài, và cuối cùng, khi không còn vùng dậy được nữa, anh buộc phải gượng dậy, ngồi nghỉ, vừa nghỉ vừa nghĩ bụng, kể từ lúc này trở đi, minh phải đi, chỉ có thể đi và phải ráng đi cho thật vững. Khi ngồi và lấy lại nhịp thở, anh để ý, cảm thấy ấm áp, dễ chịu. Không còn lạnh; dường như còn có cả một làn hơi ấm áp mơn man trên mặt, lan khắp người. Và nữa, khi sờ lên mũi, lên má, anh chẳng cảm thấy có gì khác lạ. Chạy không làm tan được băng đóng cứng mũi, má, chân, tay. Tiếp đó, lại đến với anh cái ý nghĩ là các bộ phận trong cơ thể càng lúc càng bị đóng băng nhiều hơn, nhanh hơn. Anh cố nén, cố quên cái ý nghĩ đó, cố không nghĩ đến điều mà điều đó sẽ dẫn đến, và thấy sợ là mình đã hoảng sợ; tuy vậy, cái ỷ nghĩ đó vẫn dai dẳng bám riết vào tâm trí anh cho đến khi cả cái nhìn của thân xác anh cũng đóng băng. Một nỗi khiếp hãi đến củng cực lại đẩy anh bật vùng dậy, cuống cuồng chạy dọc theo con đường mòn. Có lúc anh đã chạy chậm lại, tính đi từng bước một, nhưng rồi cả ý nghĩ của anh cũng đã đóng băng, và thế là anh tiếp tục chạy luôn.

Suốt trong quãng thời gian đó, con chó cùng chạy với anh, ngang hàng với anh, và khi anh lại ngã gục xuống, nó cũng dừng lại, ngồi xuống trước mặt anh, đuôi vòng tới quấn vào hai chân trước, mặt đối mặt với anh, đau đáu nhìn anh dò hỏi. Cái ấm áp, cái sức đề kháng hoang sơ của con vật làm anh tức giận; cổ họng anh phập phồng phát ra tiếng rồ rồ như nguyền rủa làm cho con vật thõng tai xuống, ve vẩy. Cùng lúc ấy thân xác anh đã lạnh đi một cách mau chóng; anh đã mất hẳn sức chống chọi với cái lạnh và lúc này nó đang ngấm sâu vào khắp cơ thể anh. Ý nghĩ đó đã đẩy anh vùng lên chạy tiếp, nhưng chưa đến một trăm feet, anh đã loạng choạng, ngã chúi đầu tới trước. Hết cơn hoảng sợ. Anh gượng nhổm dậy, cố lấy lại hơi thở và liền đó, anh hiểu ngay ra là mình đã đến gặp cái chết một cách xứng đáng. Tuy vậy, cái hiểu đó không phải đến với anh theo cách thức như vậy. Nó đến theo cái cách là khi vùng lên chạy quẩn như một con gà vừa bị cắt mất đầu, anh đã tự đem thân ra để làm cái bia miệng cho thế gian đàm tiếu. Nhưng thôi, dù sao thì anh cũng sẽ được băng mai táng; được như vậy há chẳng phải là tươm tất lắm hay sao. Cũng tốt thôi, một giấc miên viễn... Như vừa được gây mê, anh lịm dẩn rồi đi luôn vào cõi vô thức. Cái lạnh chẳng đến nỗi dở như người ta vẫn nghĩ; có nhiều cách chết còn dở hơn nhiều.

Mai mốt biết đâu đám thanh niên trai trẻ sẽ tìm được xác anh. Hốt nhiên anh đang cùng với họ đi dọc theo con đường mòn để tìm anh; rồi, cũng cùng với họ, anh vòng lại con đường mòn một vòng nữa và thấy anh đang ngồi trên tuyết. Anh không còn là của anh; lúc đó, anh đã ở ngoài thân xác anh, đang đứng cùng với đám thanh niên trai tráng nhìn anh ngồi trong tuyết xốp. Trời lạnh thật; khi nào về nước, anh đã có thể nói cho mọi người biết thế nào là lạnh, một cái lạnh thật sự lạnh. Ý tưởng đó hẳn đã đưa đẩy anh trôi giạt vào vùng suy tưởng của những người cố cựu ở lưu vục sông Sulphur; và hẳn là anh đã có thể thấy anh rõ hơn, miệng đang ngậm tẩu thuốc, sảng khoái, ấm áp, ánh mắt nheo nheo nhìn các bậc tiền bối: “Đúng là các vị có lý, có lý thật!”.

Và rồi anh chìm hẳn vào giấc ngủ yên lành nhất từ trước đến nay. Con chó ngồi nhìn anh, chờ đợi. Ngày tàn dần; không có dấu hiệu gì cho thấy sắp có lửa được đốt lên; vả lại, con chó cũng chưa từng biết là con người lại có thể ngồi trong tuyết lâu như vậy mà không đốt lửa. Ngày tàn; lòng khát khao ngọn lửa đến cháy bỏng thôi thúc, nó rên ư ử, cố nhấc đôi chân trước; sợ người mắng mỏ, nó buông thõng đôi tai, nhưng con người vẫn lặng câm. Nó kêu ăng ẳng, đợi một lúc rồi rón rén lần lại gần sát người đàn ông và ngửi thấy mùi chết chóc. Lông trên mình dựng cả lên, nó vội lùi lại. Sau một thoáng chần chừ, nó ngước mõm nhìn các vì sao lấp lánh, cất tiêng tru dài; sau đó, nó xoay mình, lủi thủi chạy dọc theo con đường mòn chạy về hướng có cái trại mà nó từng biết, nơi đó sẽ có người cho nó lửa, cho nó thức ăn.

HẾT

(Theo “Jack London - The Call of the Wild... and Other Stories”, edition World’s Classics, Oxford University Press)


(2) “Không ai bị buộc phải đi một mình...”

(3) Ở vùng chóp địa cực Bắc, mọi phương hướng quanh ta đều là hướng Nam, và tiện đây, xin lưu ý: ở đó, các khái niệm về ngày - đêm, sáng - tối, nóng - lạnh, giờ giấc,.. đều không giống với khái niệm thông thường.

(4) “Chechaquo”: Không rõ thuộc ngôn ngữ nào; có lẽ là một từ thuộc phương ngữ vùng Bắc cực, theo âm tiếng suýt soa vì ngạc nhiên, vì lạnh...

(5) Tác giả dùng đơn vị 0F.

(6) Feet: số nhiều của foot; 1 foot = 30,48cm.

(7) 1 inch = 2,54cm.

(8) Theo truyền thuyết, thần Mercury (tức Mercurius trong thần thoại La Mã, hay Hermes trong thần thoại Hy Lạp) là vị thần khôn lanh, mưu trí, phụ trách việc đưa tin cho các vị thần linh; do chức trách này, thần Mercurycòn có nhiệm vụ tiếp nhận và đưa linh hồn người chết về âm phủ. Thần Mercury là linh thần của các giới doanh thương, du hành, thuyết gia và cả của các giới lừa đảo, trộm cắp v.v.., thường được hình dung như một chàng trai khôi ngô tuấn tú, chân mang giầy có các đôi cánh nhỏ, đầu đội chiếc mũ rộng vành cũng có gắn một cặp cánh.

Tạp chí Kiến thức Ngày nay
Đánh máy: hoi_ls
Nguồn: Diễn Đàn Vnthuquan.net
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 18 tháng 8 năm 2022