Đa số dân ta (dân tộc đông người, dân tộc ít người) sống tại làng, bản, sóc và làm ruộng, nương, rẫy. Họ là nông dân, là khối đa số thầm lặng. Và là một lực lượng cơ bản. Vậy mà chưa bao giờ vấn đề nông dân được nghiêm trang giải quyết.
Lý do dễ hiểu: những kẻ nắm quyền bính không như xưa - xuất thân đồng ruộng, quần nâu áo vải - thường là thị dân, tách rời hẳn khỏi khối đa số quần chúng đó.
Các đảng phái, đoàn thể tự nhận là cách mạng, chưa bao giờ tích cực vận động nên cũng chưa bao giờ được sự hậu thuẫn của nông dân. Do đó, dĩ nhiên chưa bao giờ là một thực lực. Ngoại trừ cộng sản. Họ lấy nông dân làm chủ lực. Và đã thành công!
Và mối ưu tư của thanh niên Đỗ Thúc Vịnh vào năm 1946 là: Phải có sự sát lại gần nhau giữa cái thiểu số thành thị và cái đa số nông thôn; phải có sự thông cảm giữa những người nhận lãnh công việc quang phục quê hương với khối đại đa số quần chúng; hay một cách văn hoa, phải nông thôn hoá thành thị và thành thị hoá nông thôn.
Với những bạn ham sách vở, Đỗ Thúc Vịnh không xa lạ. Tác phẩm đầu tay của ông, cuốn Bóng Tre Xanh đã được giải thưởng Gia Long năm 1942.
Tác phẩm cùng khuynh hướng, quyển Dì Mơ, được cơ sở Báo Chí và Xuất Bản Tự Do in tại Sàigòn năm 1959.
Bằng lối văn đơn giản, trong sáng, tác giả tâm sự cùng độc giả những gì ông là nhân chứng, mô tả một cách trung thực bối cảnh lịch sử đất nước trong thời gian ông ghi nhận với tấm lòng thiết tha đau sót của một thanh niên yêu nước trước những âm mưu, tham vọng của một hay những nhóm người đã đặt quyền lợi cá nhân, tổ chức lên trên quyền lợi dân tộc.
Thủ thỉ, nhẹ nhàng, nhưng tác giả dứt khoát hỏi:
Anh Hai mà phản bội ư? Vậy những ai mới không phản bội?
Giải phóng? Giải phóng cho ai? Giải phóng cái gì? Thế nào là giải phóng?
Nếu chưa biết mình muốn gì, đừng có nói giải phóng vội. Hãy tìm hiểu đã. Phải tìm mà hiểu nhau, phải tìm mà hiểu sự việc đã.
Nhưng ai sẽ được đây? Kháng chiến được hả? Nhưng kháng chiến là những ai? Những kẻ dẫn về thủ đô trong chiến thắng sau này có phải là kẻ thực sự kháng chiến không? Mà thắng để rồi sao nữa? Để áp bức đói khổ ư?
Đỗ Thúc Vịnh là một người quan sát, ghi nhận, phân tích và tâm sự. Tủ Sách Người Dân hân hạnh giới thiệu với độc giả những tâm sự ấy trong tác phẩm này (tác giả không hề nhận một chút tác quyền nào khi cho phép chúng tôi tái bản), những tâm sự, với thời gian, đã chứng tỏ không phải chỉ của lớp người trong giai đoạn lịch sử của thập niên 40 mà còn của cả chúng ta BÂY GIỜ.
Vì ngay bây giờ, câu hỏi của Văn, chàng thanh niên thành phố, vẫn còn nguyên ẩn số:
Chúng ta muốn gì? Và làm gì bây giờ đây?
-1-
Văn chỉ làng Thụy dựa lưng vào con đê, và ngoảnh nhìn ra đầm nước. Qua một sân rộng nền cao, còn có một nhà bia án ngữ mặt văn chỉ, có vòng thành và bậc xây lên xuống trông thật cổ kính và trang nghiêm. Bốn trụ nhà bia là bốn ngọn bút lông, còn chính nóc thì không hiểu sao không đắp nghiên mực mà lại đắp một bầu rượu với cuốn thư; có lẽ muốn biểu lộ phong thái khoáng đạt của kẻ sĩ nơi đây xem công danh là trò chơi và mơ tưởng nối gót Lão, Trang chăng? Cảnh trí quả là đẹp. Ý hẳn những tay văn học khoa hoạn cũng dụng tâm xây dựng khu văn chỉ để cho cả vùng huyện Thượng nhớ rằng đây là đất văn vật, phong thủy đã dành riêng cho dân làng Thụy có phần khoa bảng. Cả huyện Thượng này, làng nào có nổi một ông nghè, với các ông cử, tú, nhất, nhị, tam trường... như làng Thụy? Có làng nào xây cất được văn chỉ với nhà bia như làng Thụy? Đình, thì làng nào mà chẳng có! Chứ văn chỉ, ắt phải là nơi văn học, có khoa hoạn mới dám xây dựng để xuân thu, trên nền đất cao kia, các tay văn tự được vinh dự thành khẩn tế cáo Thánh Hiền. Miếng đất nhỏ nhoi ấy không thể có chỗ cho hào phú được.
Tòa nhà ba gian gồm hai lớp. Lớp trong thiết lập bàn thờ Khổng Phu Tử với thất thập nhị hiền. Lớp ngoài, thường ngày dùng làm lớp học cho trường làng; chỉ khi nào tế lễ mới tạm dẹp học trò nghỉ một buổi cho quan viên hành lể. Nếp đất cổ kính văn hiến của làng Thụy, tuy vào lúc hán học suy tàn, vẫn hình như không hề giảm mất chút nào vượng khí. Phần nào cái đó là ở như làng Thụy thức thời sớm biết canh tân. Hán học vừa suy thì đã xin ngay chính phủ ‘‘bảo hộ’’ bổ về cho một thày giáo ăn lương tại tỉnh. Ít nữa ra thì cả tổng, riêng làng Thụy mới có trường học mà thôi!
Cái làng nhỏ êm đềm dưới bóng tre xanh rờn ven sông Hồng kể ra thanh lịch thật. Chẳng thế mà thầy giáo bổ về dạy trường làng cũng phải cảm mến. Với số lương tuy ít ỏi song đủ sống phong lưu nơi thôn ổ, ông giáo cũng không buồn xin đổi đi đâu nữa hết; dĩ chí ông còn tự ý xin được lưu ở nguyên nhiệm sở này. Rồi từ ngụ cư, đến xin "vào làng ", ông giáo thành một dân làng thực thụ, đóng góp hẳn hoi. Cuộc đời thầy đồ tân học cũng êm ả, nhàn tản như thời nho học. Dân làng Thụy vốn khó tính, nên buổi ban đầu khi phải bỏ cái học thánh hiền để chuyển qua tây học đã không khỏi coi rẻ ông giáo trẻ tuổi; song vốn là dân hãnh diện vì nếp đất văn học, và mừng rằng đất lành chim đậu, nên cũng vui vẻ tiếp nhận người con mới.
Khi tới nhận lấy công việc rèn tập lũ trẻ làng, ông giáo còn trẻ lắm, ông chưa tới hai chục tuổi đầu, nên dân làng quen gọi là thầy giáo. Năm này qua năm khác, "thầy giáo " đã thành danh hiệu chính thức cả tổng Thụy đều biết. Từ khi bước chân tới trọ tại nhà một đàn anh trong làng cho đến lúc đã lấy con gái làng, yên vui lập gia đình, rồi xin vào làng, thầy giáo chẳng hề cho biết gốc tích từ đâu. Dân làng cũng mừng khỏi thấy nhà thầy một chốn đôi quê. Vả lại, nơi thôn ổ, tuy chỉ lắ một tiểu công chức vô danh, thầy giáo cũng là một nhân vật phong lưu nhàn tản, nhất là có văn học, nên đứng vào lớp đàn anh được biệt đãi, thì gốc tích thầy từ đâu dân làng cũng không cần biết.
Năm này qua năm khác, phong trào tân học càng phát triển. Thầy giáo dạy hết lớp con em này đến lớp con em khác. Có những trẻ kiếm được chút chữ nghĩa đọc viết thông thạo ; có những trẻ hàng năm lên trường phủ thi giựt được mảnh bằng sơ học ; có những trẻ được thầy rèn cặp đã khôn lớn và kế tục cha anh giữ chức vị trong làng ; và cũng còn có một vài người tiếp tục sự học ngoài tỉnh. Qua năm, tháng, người thư sinh bỡ ngỡ vào đời gõ đầu trẻ, nay tóc đã hoa râm ; mà trường làng Thụy thu gọn ở tiền đường văn chỉ vẫn chỉ có một mình thầy dạy dỗ từ lớp vỡ lòng đến lớp ba thi sơ học. Giọt nước nhỏ nhoi ấy cứ thấm dần, thấm mãi vào từng thế hệ của dân làng Thụy và cả tổng Thụy nữa.
Con em làng Thụy đi học thì cũng là vì cha anh cho đi học, sớm võ vẽ chút ít chữ nghĩa, may mà được mảnh bằng sơ học thì sau này ra làm việc dân, việc làng, còn giấy tờ khi lên quan cho xứng đáng ăn trên ngồi trước. May ra nữa, được chút phẩm hàm thì cũng lấy được hai chữ " văn giai" chứ không phải là " bá hộ " cục cằn thô lỗ.
Cho nên thầy giáo chăm chỉ dạy đàn trẻ biết đọc, biết viết, biết tính, cho chúng thi lấy mảnh bằng sơ học là mãn nguyện. Còn dùng cái học rồi để làm gì? Thì đâu phải việc của thầy? Thầy chẳng hề bận tâm. Tất cả chương trình giáo huấn ấy, một vài bài học thuộc lòng, một vài bài luân lý đơn giản, một vài điều yếu lược về sử ký, địa dư, cách trí... có lẽ ra khỏi trường là bọn trẻ sẽ để rơi mất hết. Việc của thầy giáo cũng không khác mấy thầy đồ dạy trẻ ê a ‘‘nhân chi sơ, tính bản thiện...’’, khác chăng là ở chỗ các thầy đồ xưa bắt trẻ nhai nhải ê a như vẹt những câu về phép tu thân xử thế là mong cùng thời gian mà dần thấm được phần nào vào bộ não, cho chúng sau này có được đôi chút khí tiết nào chăng? Chứ tây học có chương trình của nó, thầy giáo đâu làm khác được!
Nên chi bọn trẻ có để rơi mất mớ chữ nghĩa cũng tự nhiên như thầy đã quên chúng, để dùng thì giờ nhàn tản bên bàn tổ tôm họp với đàn anh trong làng, và vui cùng gia đình ngày một đầy đủ, ấm cúng. Tậu được mươi mẫu ruộng cho cấy rẽ, với số lương tháng tháng lên tỉnh lãnh về, đời sống thật êm ả! Cô giáo chẳng phải chân lấm tay bùn ; con cái thầy giáo cũng no ấm như ở các gia đình hào mục. Và cô Thọ, con gái lớn của thầy, cứ nhàn tản lớn lên trong sung túc, mặc ngày tháng trôi qua êm ả như làn nước phẳng lặng của ao tù dưới bóng tre xanh. Mảnh bằng sơ học quá ít ỏi ở nơi thôn ổ còn cho Thọ thêm một chút cao quý hão huyền. Số vốn học thức ấy thực sự cũng chỉ giúp cho Thọ ham đọc tiểu thuyết, hết truyện này đến truyện kia, đọc đi đọc lại cả bao nhiên lần, nhất là mùa đông giá lạnh, những ngày mưa dầm đóng cửa ngồi trong nhà chẳng biết cất nhắc làm gì cho hết thời giờ. Cuộc đời thực tế của Thọ quá giản dị, quá êm ả, lại cứ song song kéo dài với biết bao nhiêu cuộc đời tiểu thuyết, để mỗi ngày một in sâu vào tâm hồn cô gái nhàn tản quá thảnh thơi nên quá nhiều mơ ước.
Thầy giáo cứ bình tâm vui vẻ với nghề nghiệp, cô giáo cứ bình thản sống chuỗi ngày giản dị, gia đình, thầy giáo êm đềm sống thảnh thơi như lũy tre quanh nhà thở hút không khí đồng nội, hút lấy màu đất nơi làng nhỏ u tịch ven sông Hồng phì nhiêu này mà lớn. Nhưng Thọ đã không thể mãi mãi là cô gái nhỏ để sống vô tận cuộc đời bình thản như mặt nước tù hãm phẳng lặng ; Thọ ngày một khôn lớn theo với mái tóc ngày dần bạc của thầy giáo.
Cho đến cái năm dân ngoài tỉnh lo lắng nhộn nhạo vì bom đạn, thì ông giáo già cũng vội vã tắt đi như tắt theo cùng cả một lớp người đã hết thời hoặc tưởng chừng đã hết nhiệm vụ. Ông giáo không còn kịp thấy đất nước chuyển mình ; mà ông cũng
không được thấy hậu quả của công việc quá tầm thường ông hằng làm cả mấy chục năm qua, dù tự thâm tâm ông chẳng hề nghĩ đến và chẳng hề cần biết bọn trẻ học để làm gì!
Ông giáo già đã mất. Một ông giáo trường làng mà người ta đã quên cả hằng mấy chục năm giời, ngoại trừ người phát lương cho ông ở tỉnh, thì mất hay còn đâu có ngoài cái việc bôi bỏ một hàng tên trên bảng lương. Người ta thản nhiên gạc bỏ, cũng như khi vô tình viết lầm, tẩy xóa một chút là xong. Một ông giáo trường làng lại chết nhằm lúc nhộn nhạo Nhật áp đảo lớp người Pháp thống trị, thì cái chết thật càng tê tái; và việc học của bầy trẻ làng Thụy nhỏ bé kia còn có nghĩa lý gì. Ông giáo già mất đi, văn chỉ làng Thụy vắng tiếng trẻ học thì lớp tiền đường chỉ ngày rằm, mồng một mới mở cửa để quan viên khoa trường lễ thánh. Trường làng Thụy khởi cùng Tây học, sẽ suy tàn theo quyền thống trị của người Pháp chắc? Dù sao thì trường học làng Thụy nơi tiền đường văn chỉ vẫn còn đầy đủ dãy bàn ghế lim nhẵn bóng, mà bỗng nhiên tẻ lạnh; và ngôi nhà bia từ bao nhiêu năm làm nơi cho bọn học trò nhỏ làm thành lũy công phá chống nhau, nay cũng chơ vơ im ả như tàn tích một ngôi thành cổ bỏ hoang.
Làng Thụy ngày một dìu hiu tiêu điều. Từ khi quân Nhật tới Hải Phòng, cảnh trên bến dưới thuyền của làng Thụy cứ giảm sút. Xưa nào ngô, đậu, từ các làng phía trong, qua cả con đường số một, cứ mùa tháng năm xong là kẽo kẹt gánh tới bến làng Thụy cân hàng cho các hãng chở ra Cảng. Chiến tranh thế giới tự đâu đâu làm cho ngô không bán ra ngoài được là bến làng Thụy tàn hoạt động; vì còn khách đâu tới cân ngô cân thóc cho suốt vùng đồng chiêm ven sông Hồng này? Những dãy nhà làm kho, mươi quán ăn mọi khi ngày mùa đến là tới tấp phu phen ăn uống ánh đèn như sao sa, nay đã chỏng chơ tẻ ngắt.
Một không khí nặng nề u uất không biết từ đâu dần dần thấm qua lũy tre xanh rờn mà bàng bạc trên đồng ruộng xóm làng. Tuy đời sống vẫn im lìm buồn tẻ, vì súng nổ tận đâu kia, song dân làng Thụy thấy sưu thuế cứ dần thêm nặng chĩu trên vai, hết thuế đinh, thuế điền, lại cân thốc, cân đay... Mảnh ruộng đã không còn đủ nuôi sống họ. Những nét mặt hốc hác thiếu ăn, những thân hình gầy guộc xạm nắng trong manh áo rách, dân quê đã rút hết xương tủy đổ vào đất mầu, và chỉ còn biết đôi lúc thẫn thờ than thở bâng quơ: "Biết bao giờ mới lại thái bình mà làm ăn? ". Thời "thái bình" họ ao ước, có chăng là ở trong mộng tưởng của họ qua những cuốn truyện phổ thông bình dị, hoặc qua những câu giáo đầu của gánh chèo khi hát diễn ở đình lễ thánh!
Làng Thụy đương thoi thóp như thể mạch đất làng đã hết vượng khí, thì một ngày cuối thu Giáp Thân (1944) trên bến sông bỗng nhiên nhộn nhịp. Cụ Hường cho tải về làng gởi ông anh biết bao nhiêu là đồ đạc quý. Cụ là em ruột cụ chánh bá cựu, nhờ làm phán sự đầu tòa tại tỉnh ‘‘mông ân nhà nước bảo hộ’’ ban cho hàm hồng lô, nên trong họ ngoài làng đều gọi là quan Hường. Hai thuyền đinh chở khẳm cặp bến làng Thụy. Phải hai hiệp phu cật sức mới dỡ và khiêng hết được về nhà là vừa kịp tối. Dân làng náo nức xem, trầm trồ khen ngợi. Toàn là đồ quý! Nào chóe sứ cổ, nào đỉnh đồng hun, nào sập gụ chạm bát tiên, nào tủ gương bóng lộn... Dân làng Thụy quen với chõng tre, phản gỗ, quen với bát phố đũa mộc, nên chỉ biết bỡ ngỡ nhìn.
Rồi mấy ngày sau, cả hai cụ Hường đem con cái và chi trang ông phán Thành là con trai cụ chánh Bá, kéo nhau về thăm làng. Dần làng xôn xao, không hiểu có chuyện gì mà cụ Hường và ông phán Thành lại dọn bớt đồ đạc quý về quê như vậy. Làng Thụy đương yên tĩnh và hiu hắt sống dưới bóng tre xanh xơ xác, bỗng dưng cũng xao xuyến lây. Họ xầm xì hỏi nhau, rồi tự trả lời vu vơ, chỉ biết rằng nghe nói ngoài Hà nội không được yên, người ta đánh nhau, máy bay ném bom, sợ lắm...
Thế giới chiến tranh tận đâu đâu kia! Phải chờ đến cái lúc chiến tranh đã tàn, mới thấy lũy tre dày đặc và ao nước tù hãm bắt đầu rung động.
Dần dần người ở tỉnh kéo về đông quá, phần nhiều là đàn bà trẻ con. Nào bạn bè cụ Hường, nào bạn bè và họ hàng đằng vợ ông phán Thành... Nhà cụ Chánh Bá cựu thật là đông, suốt ngày vui như hội. Thậm chí ông phán Thành còn tải về quê cả những thứ đến là lạ, nào gỗ lim phiến, nào sắt thanh, nào xi măng... Mấy năm gần đây, ông phán đã xin từ chức, và nghe đồn đi làm thầu với Nhật thì phải. Thực hư dân làng chẳng rõ, song bấy giờ thấy ông phán Thành về ở hẳn quê nhà, mà tiền tiêu cứ như nước. Cụ chánh Bá cựu nay chẳng còn làm việc vua việc quan nữa, song quyền thế của cụ Hường và của ông Phán là đủ. Thành thử ông Phán có tạm về ở ẩn nơi quê nhà cũng vẫn hống hách tự cảm thấy như vua con nơi đình trung miếu sở.
Chỉ ông Lý và hàng chức dịch là lo lắng. Nhất là từ hôm được cụ Chánh Bá cựu, chỗ quan thầy cũ, gọi vào thì thầm cho biết toàn là chỗ danh giá tai to mặt lớn ở tỉnh cả, phải liệu mà canh phòng tuần giờ cho cẩn mật rồi các ông các bà ấy chẳng chịu để thiệt cho anh em tuần tráng đâu, thì ông Lý đã phải cho họp ngay phó lý và trương tuần bàn định xin làng cắt thêm tuần phiên mỗi xóm để các ông bà ở tỉnh về được bình tâm đánh tổ tôm và ngủ cho ngon giấc.
Đời sống của làng Thụy thêm tấp nập; dân làng Thụy bỗng thấy cái gì cũng bán được cả, từ quả trứng đến mớ rau, trái bầu... nay đắt gấp ba gấp bốn. Thôi thì tội gì chẳng bán! Bóp mồm bóp miệng bán được đồng tiền chẳng thích hơn ư? Mỗi phiên chợ nay mổ tới hai con lợn cũng hết ; tôm, cá, cua, ốc... cái gì cũng bán chạy. Người dân quê moi mốc, vơ vét từ nơi chuôm ao tới đìa ruộng, chân giậu, có gì ăn được là đem ra bán, bán hết, để lấy chút sung sướng chắt chiu mươi lăm đồng bạc, và chờ ngày đổ hết ra nộp thuế cho yên lòng.
Trên con đê làng, chiều chiều những tà áo mầu, những cánh quần lụa trắng phất phới bay. Họ cười nói tự nhiên quá, mạnh bạo quá. Dân làng chố mắt, khẽ thì thầm: ‘‘Sang quá nhỉ! Ấy họ bà phán Thành, ấy người nhà cụ Hường đấy!...’’, và vô tình cứ ne né tụt xuống ven đê nhường lối cho các bà, các cô, các cậu tung tăng như thể chủ nhân của cái làng nhỏ yên tĩnh văn hiến này mà dân làng có bổn phận phải phục dịch vậy.
Hai lớp người sống cạnh nhau mà cách biệt như hai thế giới. Không một chút trao đổi ngoài việc mua bán thông thường. Người tản cư giầu có, cốt tránh bom đạn, vung tiền ra mua so với ở Hà nội thấy rẻ như bèo, nên thấy cuộc đời nhàn tản sung sướng quá. Âu cũng là một cuộc nghỉ mát! Họ cảm thấy hãnh diện, tự xem ở trên tầng lớp dân quê nghèo hèn ngu dốt và cục mịch. Dân quê quen với đời sống thiếu thốn im lìm sau lũy tre, cũng thấy bọn người tản cư sang trọng quá. Thoạt đầu, nếp sống ầm ỹ, phóng phiếm, sung túc tới xa xỉ của dân tỉnh chạy bom đạn... chỉ làm họ ngạc nhiên và tò mò nhận xét. Ngày qua ngày, mãi rồi cuộc sống ấy cũng khiến họ khó chịu, cảm thấy tủi cực. Rồi một vài lời nói, một vài cử chỉ, một vài dáng diệu, dần dần khiến họ không thể thân thiện ; và mối căm hờn cái giầu sang kiêu hãnh của bọn người lấy của làm giẫy, đã nhem nhúm để âm ỷ bùng cháy lúc nào không hay...
LỜI NHÀ XUẤT BẢN - 1 -
Tiến >>
Bản scan Tủ sách Tiếng Việt
Đánh máy: Thanh Vân & Ct.Ly
Nguồn: NXB Tủ sách NGƯỜI DÂN 1959
VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 30 tháng 3 năm 2020