Phép Lạ
dịch giả: phạm vũ lửa hạ
(dịch từ bản tiếng anh của denys johnson-davies trong “modern arabic short stories”)
ai cập
Đức cha dậy sớm như thường lệ, chỉ dậy sau mỗi bầy chim trong tổ, và bắt đầu đọc kinh, dâng lời cầu nguyện, và phụng sự cho giáo phận ở vùng đất miền đông mà tại đó ông là ánh sáng tinh thần, được các tu sĩ nể trọng và được dân chúng tôn kính. Trước cửa nhà ông có một cây chà là nhỏ do chính tay ông trồng; ông luôn tưới cây trước lúc mặt trời mọc, đồng thời ngắm nhìn mặt trời khi vành mặt trời đỏ như trái chà là xuyên thủng chân trời nhô lên rọi những tia sáng lên những chiếc lá đẫm sương, bao bọc những giọt nước lấp lánh như bạc sắp rơi xuống bằng những lọn nắng vàng óng.
Sáng hôm ấy, vừa tưới cây xong và sắp sửa trở vào nhà thì đức cha thấy đứng trước mặt mình là một đám người mặt mày buồn bã và lo âu. Một người trong bọn thu hết can đảm nói với ông bằng giọng cầu khẩn:
“Thưa đức cha, hãy cứu chúng con! Ngoài cha ra chẳng có ai có thể cứu chúng con! Vợ con đang trên giường hấp hối, muốn được cha ban phúc trước khi trút hơi thở cuối cùng.”
“Vợ con đang ở đâu?”
“Không còn thời gian nữa!” họ đồng thanh lên tiếng. “Bà ấy sắp chết. Có thể lúc ta về đến gặp bà ấy thì đã quá trễ. Xin cha hãy đi với chúng con ngay nếu cha đúng là ân nhân của chúng con và là đấng cứu rỗi nhân từ của người đàn bà đang hấp hối. Làng cách đây không xa lắm và chúng ta sẽ đến đó và quay về trước khi mặt trời lên tới đỉnh vào giấc trưa.”
“À, thế thì ta đi ngay thôi!” Đức cha đồng ý rất nhiệt thành. Đức cha tiến về phía hai con lừa, và đám người bước theo cha. Cha leo lên một con, còn người chồng của người đàn bà đang hấp hối leo lên con kia và họ lên đường.
Mấy giờ liền hai chú lừa liên tục gõ móng trên con đường đất trong khi đức cha luôn mồm hỏi họ đi về đâu, còn bọn họ vừa quất roi giục lừa vừa đáp “Chúng ta sắp đến nơi rồi!”. Mãi đến trưa ngôi làng mới hiện ra trong tầm mắt. Họ tiến vào làng trong sự nghênh tiếp của bầy chó sủa vang và đám đông dân làng hồ hởi. Cả đoàn tiến về đình làng. Họ đưa đức cha đến một căn phòng lớn, tại đó cha thấy một người đàn bà nằm dài trên giường, mắt nhìn trừng trừng lên trên trần nhà. Cha gọi bà, nhưng bà chẳng đáp lại, vì bà đang ngấp nghé ở ngưỡng cửa của tử thần. Cha bèn bắt đầu cầu nguyện, ban phúc cho bà, và ngay khi cha vừa dứt lời thì bà chợt buông ra một tiếng thở dài thật lớn rồi lại khóc thổn thức, vì thế đức cha tưởng bà sắp sửa về với Chúa.
Thay vì thế, mí mắt bà bật mở, mắt bà bỗng nhìn rõ, bà trở mình và thì thầm hỏi:
“Tôi đang ở đâu?”
“Con đang ở nhà con,” đức cha ngạc nhiên trả lời.
“Cho tôi miếng nước uống.”
“Mang ấm nước tới đây!” Những người bà con đứng quanh bà kêu lên. “Mang bình nước tới đây!”
Có người vội chạy đi rồi mang lại một vại nước, và bà uống một ngụm rõ dài. Rồi bà ợ hơi một tiếng rõ to và hỏi:
“Có đồ ăn không? Tôi đói quá!”
Mọi người trong nhà bắt đầu mang đồ ăn đến cho bà. Trước ánh mắt sửng sốt của những người xung quanh, bà bắt đầu ngấu nghiến hết thức ăn; rồi bà bước xuống khỏi giường và đi quanh nhà trong tư thế hoàn toàn khoẻ mạnh như xưa. Đến đây mọi người phủ phục trước đức cha, hôn hết tay rồi lại hôn đến chân của đức cha, và kêu lên: “Thưa đức cha nhân từ! Phúc lành của cha đã đến với ngôi nhà này và đưa bà ấy từ cõi chết trở về. Chúng con biết làm gì để bày tỏ ngàn vạn lời cảm ơn mà chúng con nợ cha, để thể hiện lòng biết ơn của chúng con đối với cha?”
“Ta đâu có làm gì để đáng được thưởng hay cảm ơn,” đức cha đáp, lòng vẫn bối rối chưa hiểu chuyện vừa xảy ra. “Chính sức mạnh của Chúa đã làm nên điều ấy.”
“Cha muốn gọi là gì cũng được,” ông chủ nhà lên tiếng. “Dù gì đi nữa đó cũng là một phép lạ mà Chúa muốn được thực hiện qua đôi bàn tay của cha, thưa đức cha nhân từ. Cha đã hạ cố quá bước đến tệ xá của chúng con, và điều này vừa mang lại vinh dự lớn lao vừa đem đến may mắn cho chúng con. Cha phải để cho chúng con thực hiện bổn phận bày tỏ lòng hiếu khách theo cách mà hoàn cảnh của chúng con cho phép.”
Ông ta ra lệnh dọn một căn phòng yên tĩnh cho vị khách quý, rồi mời đức cha vào nghỉ ở đó. Mỗi khi đức cha lên tiếng đòi về thì ông chủ nhà lại thề thốt bằng những lời lẽ thiêng liêng nhất rằng ông sẽ không để cho vị khách mang điềm lành của ông ra đi nếu chưa lưu lại được ba ngày - thời gian tối thiểu thể hiện lòng hiếu khách dành cho một người đã cứu sống vợ ông. Khi thời hạn bày tỏ lòng hiếu khách chấm dứt, ông đóng yên một con lừa và chất đầy những quà là quà, nào là bánh mì làm tại nhà, nào là đậu đinh lăng cùng với gà; ngoài ra ông còn nhét vào tay đức cha năm bảng trích từ quỹ của nhà thờ. Ông vừa đưa đức cha ra cửa và giúp cha leo lên mình lừa thì xuất hiện một người đàn ông thở hổn hà hổn hển, quỳ xuống bên cạnh đức cha.
“Thưa đức cha,” anh ta van nài, “chuyện về phép lạ của đức cha đã lan đến mọi làng quanh đây. Con có một ông chú mà con coi như cha ruột của mình, và chú ấy sắp chết. Chú con hy vọng được cha ban phúc lành, vậy con cầu xin cha đừng để linh hồn chú con rời khỏi chú con trước khi chú con được toại nguyện!”
“Nhưng con à, ta đã chuẩn bị xong xuôi để về nhà,” đức cha đáp.
“Chuyện này không mất nhiều thời gian đâu - con sẽ không để cha đi chừng nào cha chưa đi với con đến gặp chú con.” Nói đoạn, anh ta nắm lấy cương lừa và dẫn đức cha đi.
“Thế chú con ở đâu?” Đức cha hỏi.
“Rất gần đây - chỉ đi vài phút là đến.”
Đức cha chẳng biết gì hơn ngoài việc đành phải chấp thuận. Họ đi một tiếng đồng hồ mới đến ngôi làng kế tiếp, ở đấy đức cha thấy một ngôi nhà giống ngôi nhà lần trước với một người đàn ông hấp hối đang nằm trên giường, cả gia đình vây quanh ông, dao động giữa hy vọng và tuyệt vọng. Đức cha vừa tiến đến và ban phúc lành cho bệnh nhân xong thì ngậy lập tức phép lạ đã diễn ra; người đàn ông đang hấp hối đứng vọt dậy đòi đồ ăn thức uống. Kinh ngạc trước cảnh tượng vừa diễn ra, mọi người hết lời thề thốt là họ phải thực hiện bổn phận tỏ lòng hiếu khách đối với vị đức cha linh thiêng này - giữ ông lưu lại ba ngày.
Thời gian tiếp đãi khách quý cũng đã hết, trong suốt thời gian đó đức cha luôn được trọng vọng và săn sóc ân cần. Sau đó, khi họ đưa đức cha ra đến cổng làng trên con lừa chất đầy quà, một người đàn ông từ ngôi làng thứ ba xuất hiện và khẩn thiết mời ông ghé đến thăm làng mình, dù chỉ một lát ngắn ngủi, và cho làng mình được hưởng phúc lành của một người có tiếng thơm bay khắp vùng.
Đức cha không thể né tránh được người đàn ông này, vì ông ta ngay lập tức nắm dây dắt lừa đi và đưa đức cha đến một ngôi nhà trong làng ông ta. Ở đó họ thấy một thanh niên bị liệt chân; đức cha vừa chạm tay chàng thanh niên thì lập tức anh ta đứng thẳng dậy trên đôi chân của mình, trong tiếng hò reo vui mừng của toàn thể nam phụ lão ấu. Tất cả mọi người đều thề thốt là phải bày tỏ lòng hiếu khách dành cho người đã tạo ra phép lạ, và họ đã làm đâu ra đó đúng ba đêm không kém; hệt như những người khác đã làm. Hết thời gian ấy, họ mang đến cho vị khách quý nhiều quà cáp, khiến cho số quà của đức cha đã nhiều lại càng nhiều hơn, cho đến khi con lừa của đức cha như muốn quỵ ngã vì sức nặng của chúng. Họ cũng biếu ông số tiền hậu hĩ hơn số ông đã nhận được ở mấy làng trước đó, để đến nay ông đã thu được gần hai mươi bảng. Ông bỏ tiền vào ví rồi giấu dưới áo. Đoạn, ông leo lên con lừa và nhờ những vị chủ nhà hộ tống đưa ông về đến làng của mình, vì thế họ lên đường cùng ông, cả bọn đi theo sau con lừa của ông.
“Tấm lòng chúng con luôn theo cha, chúng con đem mạng sống ra bảo vệ cho cha.” Họ nói. “Chúng con sẽ không rời cha chừng nào chúng con chưa đưa cha về với người của cha: đối với chúng con, cha quý như vàng.”
“Ta gây phiền hà cho các con,” đức cha nói, “nhưng con đường này không an toàn, và như các con đã biết, các băng đảng hoành hành khắp nơi.”
“Dạ, đúng vậy,” họ đáp, “ở quanh đây bọn chúng bắt cóc người ta ngay giữa ban ngày ban mặt.”
“Ngay cả chính quyền cũng không có khả năng tiêu diệt tội ác lan tràn này,” đức cha nói. “Ta nghe kể bọn bắt cóc chặn xe buýt trên đường quê, đưa mắt dò xét các hành khách, và bắt đi bất cứ ai trông có vẻ giàu có để sau đó chúng có thể đòi thân nhân nộp khoản tiền chuộc thật lớn. Đôi khi chuyện đó xảy ra ngay cả với các nhân viên an ninh có mặt trên xe. Ta nghe kể có lần một chiếc xe buýt bị bọn cướp chặn lại, trong số các hành khách có hai viên cảnh sát. Khi người khách bị bọn chúng chọn ra kêu cứu với hai viên cảnh sát, hai viên cảnh sát đó sợ bọn cướp đến nỗi họ chỉ nói được với người bị bắt cóc thế này: “Mặc xác anh - nào, chúng ta đi thôi!”’
Cả bọn cười vang và nói với đức cha: “Xin cha đừng sợ! Chừng nào cha còn ở cạnh chúng con, cha chỉ xuống lừa chỉ khi nào cha về đến làng mình an toàn.”
“Ta biết các con rất can đảm! Các con khiến ta rất cảm kích vì đã tiếp đãi ta rất trang trọng và hào phóng!”
“Xin cha đừng nói thế - cha rất quý giá đối với chúng con!” Họ tiếp tục đi theo sau đức cha, hết lời ca ngợi đức hạnh của đức cha, và kể lại chi tiết những phép lạ của đức cha. Đức cha lắng nghe từng lời của họ, và suy gẫm về chuyện đã xảy ra. Cuối cùng, đức cha thốt lên: “Đúng thật, những chuyện xảy đến với ta trong mấy ngày qua quả là phi thường! Liệu có phải những phép lạ ấy chỉ là những lần ta ban phúc lành?”
“Thế cha nghi ngờ về chuyện đó à?”
“Ta không phải là một nhà tiên tri để có thể làm được tất cả những điều kỳ diệu ấy trong chín ngày! Thật ra chính các con đã khiến ta tạo nên những phép lạ đó!”
“Chúng con à?” Họ đồng thanh hỏi. “Cha nói thế là ý gì?”
“Phải, các con là nguyên nhân chính.”
“Ai nói với cha như thế?” Họ thầm thì hỏi, liếc mắt nhìn nhau.
“Chính là đức tin của các con,” đức cha nói tiếp với giọng đầy chắc chắn. “Đức tin đã giúp các con đạt được tất cả những điều này. Các con không biết đến cái quyền năng nằm sâu trong tâm hồn của một tín đồ. Đức tin là quyền năng, các con à! Đức tin là quyền năng! Những phép lạ được chôn sâu trong con tim của các con, giống như nước ẩn sâu trong đá, và chỉ co đức tin mới có thể khiến cho chúng bộc phát ra ngoài!”. Ông tiếp tục nói như thế trong khi những nguời đi sau ông lắc đầu nguầy nguậy. Càng lúc ông gàng say sưa hơn và không để ý rằng họ đã bắt đầu rón rén lẻn đi từng người một. Mãi tới lúc đến bìa làng ông mới sực tỉnh, quay lại để cảm ơn những người hộ tống mình, và ông á khẩu vì sửng sốt khi thấy chỉ có mỗi mình ông. Nỗi ngạc nhiên của ông chẳng kéo dài được lâu, vì ngay lập tức ông thấy gia đình mình, các thầy dòng và các cha bề trên vội chạy về phía ông, ôm lấy ông và hôn tay ông, trong khi những giọt nước mắt mừng vui chảy dài trên má họ. Một người ôm chặt lấy ông và nói: “Cuối cùng cha cũng đã về nhà an toàn! Bọn chúng đã giữ lời hứa. Cứ để bọn chúng lấy số tiền đó cũng được miễn là chúng trả cha về! Đối với chúng tôi, cha là vô giá, quý hơn bất cứ khoản tiền nào!” Nghe nói đến chữ “tiền”, đức cha kêu lên: “Tiền gì?”
“Tiền chúng tôi nộp cho bọn ấy.”
“Bọn nào?”
“Bọn bắt cóc cha đấy. Ban đầu, bọn chúng ra giá ít nhất là một ngàn bảng thì mới thỏa mãn, chúng bảo rằng cha quý giá như vàng. Chúng tôi nài nỉ chúng giảm bớt một nửa, và rốt cuộc chúng chấp nhận, vì thế chúng tôi trích quỹ nhà thờ nộp cho chúng năm trăm bảng tiền chuộc.”
“Năm trăm bảng!” đức cha kêu lên. “Các cha nộp chừng đó tiền chuộc cho tôi à! - Chúng bảo với các cha là tôi bị bắt cóc à?”
“Phải, ba ngày sau khi cha mất tích, có mấy người đến gặp chúng tôi và nói rằng một băng cướp đã bắt cóc cha buổi sáng nọ khi cha đang tưới cây chà là trước cửa nhà. Chúng thề là sẽ cho cha tới số nêu tiền chuộc không đến tay chúng - nếu chúng tôi nộp tiền chuộc, cha sẽ được trả về bình an vô sự”.
Đức cha ngẫm nghĩ về những lời này, nhớ lại những chuyện đã xảy ra. “Vậy là rõ cả,” ông nói, như thể đang độc thoại. “Những kẻ đang hấp hối, bệnh tật, và bị liệt đều bật dậy khoẻ mạnh khi ta ban phúc lành! Dàn dựng quả là siêu!”
Thân nhân của ông lại tiến đến, kiểm tra khắp người ông, áo quần ông rồi vui vẻ nói: “Ngoài sự an toàn của cha thì chẳng có gì quan trọng cả. Chúng tôi hy vọng bọn chúng không đối xử tệ với cha trong thời gian giam giữ cha. Thế bọn chúng đã làm gì với cha?”
Lòng vẫn còn hoang mang, ông đáp: “Chúng khiến tôi làm nên những phép lạ - những phép lạ khiến cho nhà thờ phải trả giá đắt!”
HẾT
Đánh máy: hoi_ls
Nguồn: hoi_ls - Tạp chí Kiến thức Ngày nay
Vietnamthuquan.eu - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 31 tháng 12 năm 2023