Lắng Nghe Gió Hát

haruki murakami

dịch giả: tam diệp thảo

Phần I

nguyên văn: 風の歌を聴け kaze no uta wo kike.
風の歌を聴け (kaze no uta o kike)©1979 haruki murakamitam diệp thảo dịch từ bản tiếng indonesiadengarlah nyanyian angin ©2008 pt gramedia jakarta(isbn. 978-979-91-0137-2)

1.

“Không có câu văn hoàn hảo. Cũng như chẳng có nỗi tuyệt vọng hoàn toàn.”

Một nhà văn tôi tình cờ quen biết khi còn học đại học đã nói với tôi câu này. Phải rất lâu sau đó tôi mới hiểu hết ý nghĩa câu nói. Nhưng ít ra, tôi đã xem nó như những lời an ủi.

Tuy vậy tôi luôn thấy nỗi tuyệt vọng cồn cào mỗi lúc định viết một điều gì. Bởi phạm vi những gì tôi có thể viết rất giới hạn. Nói như, tôi có thể viết về voi, nhưng có lẽ sẽ chẳng biết viết gì về người huấn luyện voi. Đại loại là vậy.

Tôi mắc kẹt trong thế tiến thoái lưỡng nan đó mãi suốt tám năm trời. Tám năm. Đó là một quãng thời gian dài.

Miễn có thái độ ham học hỏi từ mọi điều, thì việc già đi hẳn cũng chẳng đau khổ mấy. Mọi người vẫn thường nghĩ thế.

Từ khi bước qua ngưỡng tuổi hai mươi, tôi cố duy trì triết lý sống đó. Kết quả là, vài lần bị đấm, bị lừa dối, bị hiểu lầm, và đồng thời có được những trải nghiệm lạ kỳ. Nhiều loại người tìm đến tôi tâm sự, bước ngang qua tôi bằng những bước chân gây buốt nhói như thể đang đi qua một cây cầu, rồi không bao giờ quay trở lại. Suốt quãng thời gian đó, tôi ngậm miệng, chẳng nói lấy một lời. Đó là cái cách tôi nhớ đến những năm cuối tuổi hai mươi của mình.

Giờ đây tôi đã sẵn sàng để kể về nó.

Vẫn chưa có bất kỳ vấn đề nào được giải quyết, và có lẽ vẫn sẽ nguyên như thế khi câu chuyện này kết thúc. Rốt lại, viết không phải phương cách để tự chữa lành chính mình, mà chẳng hơn gì ngoài những cố gắng nhỏ nhoi trong nỗ lực tự chữa lành đó.

Tuy vậy, thật khó khăn để có thể kể hết sự thật. Tôi càng cố gắng thành thật, những câu từ chính xác lại càng lặn sâu hơn vào trong bóng tối.

Tôi không có ý biện hộ. Ít ra, điều tôi kể ra đây là những gì chắt lọc nhất tồn tại trong tôi lúc này. Không thêm bớt điều gì. Dù vậy, tôi cũng đã nghĩ thế này. Nếu mọi chuyện diễn ra suôn sẻ, thì tương lai có lẽ tôi sẽ có thể tìm thấy một tôi đã được chữa lành, sau mấy năm hay mấy chục năm không biết nữa. Lúc đó những con voi sẽ lại quay về đồng cỏ, và có lẽ tôi sẽ bắt đầu kể về thế giới này với những ngôn từ đẹp đẽ hơn nhiều.

*

Tôi đã học rất nhiều từ Derek Heartfield về những câu văn. Lẽ ra tôi phải nói rằng hầu như tất cả tôi đều học được từ ông. Đáng tiếc, Heartfield là một nhà văn thất bại. Nếu đã đọc tác phẩm của ông, hẳn bạn sẽ hiểu. Câu văn khó hiểu, cốt truyện rối rắm, và chủ đề ấu trĩ. Tuy nhiên ông là một trong số ít nhà văn vĩ đại có khả năng đấu tranh bằng cách biến ngôn từ thành vũ khí. Tôi nghĩ, nếu so sánh với những nhà văn cùng thời như Hemingway và Fitzgerald, phong cách chủ nghĩa tiền vệ của Heartfield hoàn toàn không hề thua kém. Đáng tiếc, đến cuối đời Heartfield cũng chẳng thể xác định rõ đối thủ mình chiến đấu là ai. Cuối cùng, ông thất bại.

Ông đã tiếp tục cuộc chiến thảm bại của mình suốt tám năm hai tháng trước khi tìm đến cái chết. Vào một sáng Chúa nhật trong lành của tháng Sáu năm 1938, ông nhảy từ đỉnh tòa nhà Empire State với chân dung Hitler ôm trong tay phải và chiếc ô mở bung bên tay trái. Không khác gì lúc sống, cái chết của ông cũng chẳng phải chuyện gì hệ trọng.

Quyển sách đầu tiên của Heartfield – chưa từng được tái bản – tôi có được lần đầu là vào một mùa hè oi bức khi đang học lớp 9, chính xác lúc đó tôi đang đau đớn với căn bệnh da liễu trầm trọng ngay vùng bẹn. Ba năm sau khi cho tôi quyển sách đó, cậu tôi mắc bệnh ung thư ruột, cả người như bị cắt lát. Với dây nhợ chèn đặc những lỗ ra và vào trên người, ông mất trong đau đớn. Lần cuối tôi gặp ông, cơ thể ông nhăn nhúm có màu đỏ bầm, trông như một con khỉ tinh quái.

*

Tôi có ba ông cậu, một người chết ở ngoại ô Thượng Hải. Ông mất vì giẫm phải địa lôi do chính mình cài hai ngày sau khi chiến tranh kết thúc. Ông cậu thứ ba, người duy nhất còn sót lại, trở thành ảo thuật gia và đi biểu diễn quanh các suối nước nóng khắp nước.

*

Heartfield từng viết về một câu văn hay như sau. “Viết văn không khác gì việc xác định khoảng cách giữa bản thân với mọi điều quanh mình. Do đó, điều cần thiết không phải cảm xúc mà là thước đo.” (What’s So Bad About Feeling Good? 1936)

Vào năm tổng thống Kennedy mất, tôi bắt đầu rụt rè trải tầm nhìn ra quanh mình với chiếc thước đo bên tay. Kể từ đó, đã mười lăm năm trôi qua. Trong mười lăm năm, tôi thật sự đã vứt bỏ tất cả mọi điều. Chẳng khác gì chiếc máy bay hỏng máy, hàng hóa trong ca-bin bị vứt đi để giảm tải, kế đó là ghế ngồi, và cuối cùng là nữ tiếp viên xinh đẹp. Suốt mười lăm năm tôi đã vứt tất cả mọi thứ tồn tại trong tôi, và đổi lại nơi đó là một sự trống rỗng.

Tôi không chắc hành động đó là đúng hay sai. Dù thật sự cảm thấy nhẹ nhõm hơn, tôi sợ hãi khi nghĩ đến những gì còn sót lại nơi mình khi tuổi già và cái chết đón đợi. Có lẽ đến một mẫu xương cũng chẳng còn sau khi tôi được hỏa thiêu.

“Kẻ ác tâm sẽ chỉ gặp toàn ác mộng. Nếu tâm càng thêm ác độc, đến giấc mơ cũng chẳng còn.” Bà ngoại quá cố của tôi luôn nói vậy.

Vào đêm ngoại mất, điều đầu tiên tôi làm là đưa tay chậm rãi vuốt mắt bà nhắm lại. Ngay lúc đó, cơn mộng bà mãi ôm ấp suốt bảy mươi chín năm trời cũng dần tan biến như cơn mưa mùa hạ oi nồng rơi trên con đường rải nhựa. Sau đó, chẳng còn gì sót lại.

*

Một lần nữa tôi sẽ viết về việc viết. Lần cuối cùng.

Với tôi, viết là một việc đau khổ. Tôi đã từng không viết dòng nào suốt một tháng trời. Tôi cũng đã từng viết mê mãi suốt ba ngày ba đêm, nhưng đến cuối mọi câu chữ đều hóa ra vô nghĩa.

Dù vậy, viết cũng là một điều hạnh phúc. Vì việc gán nghĩa cho những câu từ có lẽ là dễ dàng hơn so với những khó khăn phải sống.

Tôi hiểu ra thực tế đó khi mới mười mấy tuổi. Lúc đó, tôi đã hốt hoảng đến nỗi không thể mở miệng nói câu nào suốt một tuần liền. Giả có thái độ thông minh hơn một chút thôi, tôi đã có thể xếp đặt thế giới theo ý mình, mọi thứ giá trị sẽ đổi thay, và cả thời gian cũng sẽ chuyển dòng… Tôi có cảm giác như vậy.

Đáng tiếc, tôi chỉ nhận ra đó là cái bẫy khi thời gian trôi đã đủ lâu. Tôi gạch một đường kẻ chia đôi quyển sổ của mình, phía trái ghi ra tất cả những gì tôi có được vào thời điểm đó, trong khi phía phải tôi ghi tất cả những điều mình đã mất. Những thứ đã biến mất, những thứ tôi đã chà đạp, những thứ tôi chỉ vậy mà vứt bỏ, những thứ tôi đã hy sinh, những thứ tôi đã phản bội… tôi đã chẳng thể ghi ra tất cả cho đến hết.

Có một khe vực thẳm sâu chia cách giữa điều chúng ta cố gắng thấu hiểu và điều chúng ta thực tế thấu hiểu. Không cần biết thước đo ta mang theo dài đến đâu, chúng ta cũng không thể đo được độ sâu của nó. Điều tôi có thể viết ra đây đơn thuần chỉ là một danh sách. Không phải tiểu thuyết, chẳng phải văn chương, cũng không là nghệ thuật. Chỉ là một chương ghi chép với đường kẻ chia đôi trang giấy. Trong khi đó, thông điệp nó chứa đựng có lẽ là rất ít.

Nếu hứng thú với nghệ thuật hay văn chương, tốt hơn bạn nên đọc các tác phẩm của người Hy Lạp. Vì hệ thống nô dịch rất cần thiết để tạo ra nghệ thuật chân chính. Đó là điều đã diễn ra vào thời Hy Lạp cổ, người nô lệ đóng thuế ruộng đất, chế biến thức ăn, chèo thuyền, trong khi những thị dân đắm mình trong việc sáng tác thơ ca dưới ánh dương Địa Trung Hải và chắp nối những con tính. Đó được gọi là nghệ thuật.

Những câu văn tôi có thể viết chỉ giới hạn đến đó, chẳng khác gì một người chà rửa tủ lạnh trong bếp vào lúc 03.00 sớm. Vậy đấy, người đó chính là tôi.

2.

Câu chuyện này bắt đầu ngày 8 tháng 8 năm 1970, và kết thúc 18 ngày sau đó, tức là ngày 26 tháng 8 cùng năm.

3.

“Quẳng hết bọn nhà giàu ra biển cho xong!”

Hai tay vẫn đặt trên quầy, Chuột quay sang phía tôi với vẻ mặt u ám rồi chửi như vậy.

Cũng có thể Chuột[1] đang chửi chiếc máy pha café đặt phía sau tôi. Vì tôi và Chuột đang ngồi cạnh nhau bên quầy bar, thực tế cậu ta không cần phải quay sang phía tôi để chửi rủa. Nhưng nếu đã lớn tiếng, như mọi khi Chuột sẽ lại nốc bia với nét mặt thỏa mãn.

Vả lại cũng chẳng ai xung quanh thấy phiền cái giọng lanh lảnh của Chuột. Quán bar nhỏ chật kín khách, và mọi người đều trò chuyện to tiếng. Không khí nơi đây chẳng khác gì trên một con tàu sắp sửa đắm đến nơi.

“Bọn giòi bọ!” Chuột lầm bầm lắc đầu như thể cảm thấy rất giận dữ.

“Bọn nó chẳng biết làm đếch gì cả. Cứ trông bộ mặt hãnh tiến ta đây giàu có của chúng là đã thấy tởm.”

Tôi chỉ gật đầu trong lúc dán chặt môi vào miệng chai bia mỏng tanh. Sau đó Chuột không nói gì thêm. Vừa xoay lật bàn tay đặt trên mặt quầy, như thể đang sưởi ấm những ngón tay gầy guộc của mình bên đám lửa, Chuột vừa chăm chú ngắm nhìn chúng. Còn tôi cứ lờ đi và ngước nhìn trần nhà. Chuột sẽ chẳng tiếp tục câu chuyện nếu chưa lần lượt săm soi đủ hết mười đầu ngón tay của mình. Luôn là vậy.

Suốt mùa hè oi bức, như bị ám, tôi và Chuột đã uống hết số bia tương đương thể tích một hồ bơi dài hai mươi mét, và vứt số vỏ đậu phộng dày đến năm xen-ti-mét trên mặt sàn quán Jay’s Bar. Mùa hè năm đó quả thật buồn tẻ và có lẽ sẽ chẳng chịu trôi qua nếu chúng tôi không làm những điều tương tự.

Bên quầy quán Jay’s Bar có treo một bức tranh khắc gỗ đã ám màu khói thuốc. Khi thấy đã quá tẻ ngắt, tôi nhìn mãi bức tranh đó suốt hàng giờ liền quên cả ăn. Trong mắt tôi, bức tranh có đường nét như những bức vẽ thường dùng trong các trắc nghiệm Rorschach[2] đó trông ra hai con khỉ màu xanh lá đang ngồi đối diện và ném hai quả bóng quần gần như lép xẹp vào nhau.

Khi tôi nói điều đó với Jay, người pha chế, anh ta thoáng nhìn bức tranh một lúc rồi hờ hững bảo, “Cũng giống đấy.”

“Thế thì hàm ý gì nhỉ?” tôi hỏi.

“Con khỉ bên trái là cậu, còn con bên phải là tôi. Nếu tôi ném chai bia về phía cậu, thì cậu sẽ quẳng tiền thanh toán cho tôi.”

Tôi uống bia của mình với cảm giác thán phục.

“Thật tởm.”

Chuột lặp lại mấy lời ban nãy khi đã kiểm tra xong các ngón tay của mình từng ngón một.

Đó không phải lần đầu tiên Chuột thóa mạ người giàu. Cậu ta thậ sự rất ghét người giàu. Mặc dù gia đình Chuột cũng phải nói là khá giàu, mỗi lần tôi nhắc đến điều đó Chuột sẽ cãi lại, “Đó không phải lỗi của tớ.” Có lúc, ừ, phần lớn là khi đã uống quá nhiều bia, tôi bảo, “Không đâu. Đó là lỗi của cậu.” Sau khi nói vậy hiển nhiên tôi không thấy thoải mái cho lắm, vì thật ra Chuột cũng có lý.

“Theo cậu, sao tớ lại ghét người giàu đến vậy?”

Đêm đó, Chuột nói tiếp lời mình. Đó là lần đầu câu chuyện của chúng tôi đi tiếp đến tận đấy.

Tôi lắc đầu tỏ ý không biết.

“Tớ bảo cậu biết, tớ ghét bọn nhà giàu vì chúng chẳng suy nghĩ gì cả. Giả không có đèn pin hay thước kẻ, chắc chúng cũng chẳng thể tự gãi lấy lưng mình.”

‘Tớ bảo cậu biết.’ Đó là cách nói đặc trưng của Chuột.

“Vậy sao?”

“Ừ. Chúng chẳng bao giờ suy nghĩ điều gì quan trọng cả. Chúng chỉ giả vờ nghĩ ngợi… Theo cậu, sao chúng lại như vậy?”

“Chả biết.”

“Vì chúng chẳng cần phải suy nghĩ. Để làm giàu, quả thật người ta cần động não đôi chút, nhưng để tiếp tục giàu có, người ta không cần làm gì cả. Cũng như vệ tinh nhân tạo chẳng cần dùng đến nhiên liệu. Chỉ cần xoay quanh mãi một chỗ là đủ. Nhưng tớ thì không như vậy, cậu cũng không. Chúng ta phải suy nghĩ lien tục để có thể sống. Nghĩ từ việc thời tiết ngày mai thế nào cho đến kích thước nắp chặn lỗ thoát nước bồn tắm. Đúng không?”

“Ừ,” tôi nói.

“Đúng thế đấy.”

Sau khi nói hết những gì muốn nói, Chuột mò tìm khăn giấy trong túi rồi xì mũi thật mạnh như thể buồn chán lắm. Tôi chẳng thể biết được Chuột nghiêm túc đến mức nào khi nói những lời đó.

“Gì thì cuối cùng mọi người đều sẽ chết cả,” tôi nói ý dò xét.

“Cái đó thì hẳn rồi. Một lúc nào đó mọi người đều phải chết. Nhưng mà họ đã phải sống ít nhất năm mươi năm cho đến lúc đó. Tớ bảo cậu biết, sống năm mươi năm suy nghĩ đủ điều thì mệt nhọc hơn nhiều so với sống suốt năm ngàn năm chẳng nghĩ ngợi gì cả. Đúng không?”

Điều đó thì đúng thật.

Chú thích:

[1] Chuột, nghĩa tiếng Nhật của tên nhân vật Nezumi [ ラット ] trong nguyên bản.

Phần I

Tiến >>


Nguồn: tamdiepthao.wordpress.com
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 3 tháng 12 năm 2023