Tính đến nay tròn một năm tôi nhận quyết định hưu, đúng ngày Quốc tế lao động và sau một tuần, xong xuôi các thủ tục, giấy tờ, tút thẳng về quê, riêng lý lịch Đảng, còn phân vân. Hụt hẫng không? Mấy chục năm cống hiến, phải cho người khác công hiến cùng, chả lẽ cắm rễ, buông cọc mãi; tre già phải để măng nó mọc!
Ơn ông Nhà nước, hơn ba mươi nhăm năm cống hiến, nay trên mảnh đất hương hỏa và ngôi nhà đại khoa ông cha để lại, tôi điền viên sống cảnh chốn quê. Gần huyện Tiên Du, Bắc Ninh, nhiều dịp tôi sang ngắm Phật, pho tượng Phật Bà sừng sững ngàn năm, dựng mãi tận đầu triều Lý. Đã có thời tượng đá trơ gan cùng tế nguyệt, dãi dầu mưa nắng. Bên Phật Bà, chợt ngẫm ngợi, đạo Phật tồn tại quãng thời gian đằng đẵng hơn hai ngàn rưỡi năm, lý thuyết rao nào cao siêu gì, chỉ là từ bi hỷ xả.
Về hưu, lương ông quan vụ trưởng, chuyên viên cao cấp, tháng tháng lĩnh sáu triệu rưỡi là ngon lành. Tiền mừng cưới xin, viếng tang ma, đóng góp hội hè đình đám,… tiêu sao hết, trừ khi ông Trời bắt về chầu, thì ai ai cưỡng nổi số phận. Ấy là tôi tâm sự với bà vợ già thế. Vợ hơn tôi hai tuổi, gái hơn hai trai hơn một. Nghe chồng nói vậy, bà vợ quê không nói năng gì. Kể cũng lạ, chồng thì đi khắp Nam khắp Bắc, cả trời Tây cũng diễu hành như đi chợ, vợ tôi nơi xa xôi nhất là lên Hà Nội thăm nom vợ chồng thằng con và đứa cháu đích tôn. Nghe tôi nói, bà ấy biết, chỉ có điều chả nói ra, chì chiết ông chồng, thanh bạch mà làm gì. Lòng tham, tham lam,... ai chả ăm ắp, chả mong lương ông chồng vài đôi chục triệu, để tiêu.
Tôi cưới vợ năm thứ hai đại học, lấy vì đạo hiếu. Cha tôi nhắm trước, ông ở cái tuổi gần đất xa trời, chỉ ước ao được đứng ra dựng vợ cho thằng út, nó lại là trưởng họ, nối dõi tông đường, hương khói cho cả họ, là hoàn thành nhiệm vụ người cha. Tôi thờ phào và lòng đầy nhẹ nhõm, khi cha mẹ sắp xếp, cưới vợ cho. Thực ra tôi là tay trai nhát gái, gặp phụ nữ, mặt mũi đỏ nhừ đến tận kẽ tai, chân tóc, đần thối ra. Đúng như cái tên đám bạn trong lớp đặt cho: thắng Mặt Đần Thối.
Cưới vợ xong tôi lên đường nhập ngũ. Đất nước vừa hòa bình, thống nhất. Đằng đẵng ba chục năm chiến tranh, hai chục năm chia cắt, ta tự hào, ngạo nghễ trong chiến thắng. Giờ thì chẳng kẻ nào dám nhòm ngó, bén mảng đến giang sơn này. Vậy mà giặc giã, giặc Nam, giặc Bắc, hết gây hấn, rồi kéo tuột quân sang “dạy cho một bài học”. Tham gia cuộc chiến, ngay tại mặt trận, tôi vinh dự được kết nạp Đảng, cùng tấm huân chương chiến công hạng ba. Sau cuộc chiến, ngẫm lại thấy mình vẫn còn mắc nợ ông anh Khẩu, trung đội trưởng, nợ nần cái tử. Chính vì tôi, anh đã thiệt mạng.
Ra quân, trở lại trường đại học, ngay năm sau vợ tôi sinh thằng cu, nó kháu khỉnh, bụ bẫm. Nhớ kỷ niệm mình từng tham gia chiến trận vùng Cao Bằng, tôi đặt cho con trai cái tên Vị Xuyên - Nguyễn Vị Xuyên.
***
Người đầu tiên tới thăm, khi tôi vừa nghỉ hưu, là một bà người làng. Đang pha trà, đã nghe:
- Em nhờ cậy cả vào bác đấy.
- Tôi anh hưu trí, không quyền, không chức...
- Bác nói thế. Chúng em nhà quê, khổ quá. Lắm khi lúa chín rục đồng, vẫn phải đợi.
- Đợi chờ gì?
- Máy gặt đập.
- Sao bảo, dịch vụ giờ sẵn lắm.
- Sẵn, mà thuê được đâu. Họ chặn trước chặn sau, từng đánh dịch vụ xã khác đến tóe máu đầu.
- Đến thế cơ à.
- Chuyến này nhà em khéo bán ruộng mất.
- Ruộng nhà nước, bán sao được?
- Đầy nhà. Dồn điền đổi thửa, giờ ruộng đất nhà họ vây quanh. Lấy nước ở đâu?
- Bao mương máng thủy lợi…
- Thế mới nói chứ bác. Thà trước em cứ bán béng đi. Nay họ ép, giá chả còn nổi một nửa.
- Họ là ai?
Bà ta ngập ngừng, không thấy trả lời. Hỏi thì hỏi cho hỏi thôi, tôi giúp được gì đây? Nhìn thấy nỗi đau của người, mà bất lực mất rồi.
Câu chuyện đang dang dở, bỗng thấy ngoài sân tiếng chào cười rổn rảng. Quái lạ, bà khách mặt mày nháo nhác, đứng vội lên và nhanh nhanh bước chân ra phía cửa sau. Hóa ra khách là đồng chí bí thư thôn. Thái độ của bà khách và nhìn ông khách ngoài sân, tôi mơ hồ nhận ra nỗi lo sợ và biết họ là ai rồi. Ngồi chưa nóng chỗ, đồng chí bí thư cất giọng oang oang, nghe vừa như dụ dỗ, vừa kiểu như hăm dọa:
- Nghỉ hưu, đồng chí khẩn trương nộp hồ sơ, tham gia sinh hoạt chi bộ. Giờ làng mình đồng chí là cán bộ trung ương, tiêu chuẩn nhiều mặt xứng đáng. Nhất quyết tôi sẽ tiến cử vào lãnh đạo chi bộ làng ta.
Nghe ông ta nói, nghĩ bụng, tôi cũng nắm rõ gốc tích nhà đồng chí, nắm đến hai, ba đời cơ: ông nội, rồi đời bố đồng chí, đều là cày thuê cuốc mướn cho đằng vợ nhà tôi. Vậy tôi xứng đáng đến mức nào, đồng chí rõ rồi.
Ông ngoại vợ tôi là tri châu, ruộng đồng trải khắp vùng Chiều Trái. Cụ ông may mắn, mất trước hồi cải cách, chỉ thương cho cụ bà, lãnh trọn. Chính những kẻ mấy đời làm công, thành rễ, thành chuỗi,… hăng hái đấu tố chủ. Cha tôi, ngoài là rể con nhà địa chủ, còn đeo lon trung sỹ, sắc lính ngụy binh - bảo chính đoàn, bị bắt nhốt mấy tháng ở cánh đồng Chiều Trái. Ông chả bao giờ hé răng kể về những tháng ngày bị giam cầm.
Tuổi thơ, tôi sống bên người cha như cái bóng, không nói, chả cười, lặng lẽ đến từng bước đi. Hình bóng về ông trong tôi, vào những lúc nhập nhoạng, mới dám bước khỏi nhà, đi cất vó tôm. Dáng gầy gò, liêu xiêu ôm đám vó, vác cây cần và lủng lẳng đeo bên hông hộp thính cũng cái rỏ tre; hay những buổi trưa, chiều, thân hình gày gò, khô quắt, lưng còng xuống đến thấp tè, dưới sân, ông ngồi lốp cốp băm bèo, thái rau lợn. Ngại ngùng tiếp xúc mọi người, đến ánh mắt cũng chả hề ngước lên nhìn thẳng, ông lảng tránh tất. Khép mình, run rẩy sống. Con chim sợ cành cây cong mất rồi. Đến như bạn bè của tôi, khi tiếp xúc, cha tôi cũng khiêm nhường, “dạ” “vâng”, hay tĩnh lặng. Với ông, hình như tất, tất cả, mọi ý kiến của người đối thoại, ông đều đồng thuận, đồng ý tất. Ngay cả với tôi - con trai, duy nhất một lần thấy cha phản đối:
- Học Anh văn làm gì.
Khi tôi thi đỗ vào cấp ba, về khoe với cha. Một người học hết bậc thành chung, sử dụng được tiếng Pháp, lại phản đối con trai học ngoại ngữ. Từ khi tôi biết, chưa hề lần nào nghe thấy ông phát âm một từ tiếng Pháp. Ông sợ lắm rồi, có học, học thức, học vấn? Điều đó chỉ ông rõ, ông hay.
***
Kết thúc cuộc tới thăm của đồng chí bí thư, tôi đành nói ra rằng:
- Bao năm phấn đấu, góp cả phần xương lẫn máu. Đang còn phân vân, vừa rồi tôi lại rõ thêm, giờ thì quyết rồi, sẽ giữ lại cuốn lý lịch làm kỷ niệm.
Tôi định nói thêm nữa, nhưng chả tiện, như cống hiến, chia sẻ, thì đời người ta có nhiều thứ lắm. Cống hiến đến hơi thở cuối cùng, vẫn còn là ít.
Đồng chí bí thư quá bất ngờ, mặt cứ ớ ra. Chắc đồng chí ấy ấy sung sướng, thở phào nhẹ nhõm, trút bỏ được gánh nặng là tôi, một kẻ miệng lưỡi lý luận có gang có thép, loại dạng hưu trí rách việc cho địa phương. Thực ra là rách việc cho đồng chí bí thư và một số đồng chí khác - đâm bị thóc, chọc bị gạo. Vậy thì sao còn lãnh đạo được nhân dân thôn nhà tiến lên và tiến mãi.
Chả phải dân làng đồn thổi, ai cũng hay, đất cát nhà đồng chí bí thư nay giăng giăng khắp trốn nơi: đất thô cư, sang đất ruộng, rồi bờ thùng bờ đấu, toàn diện hợp đồng nhận khoán, thuê nom tới năm chục năm đổ lên.
Tính từ cuộc cải cách ruộng đất, xem ra đến mấy bận ta áp dụng các hình thức sở hữu và sử dụng đất đai. Mới đầu, sau cuộc cải cách ruộng đất, ta tịch thu của địa chủ, chia cho dân nghèo, đôi ba năm, kịp thời diễn ra cuộc vận động nông dân tự nguyện góp ruộng đất vào hợp tác xã, tức là hình thức sử dụng chung điền. Sau hơn hai chục năm chung điền, nông dân lại sang nhận khoán, thứ mà trước kia từng được chia cho họ. Nó cứ luẩn quẩn đèn cù, rồi lại vòng quanh, đến mức, nông dân chả còn biết, mình là chủ hay tớ. Vâng, đồng chí bí thư ơi, nay ruộng đất nhà nhà đồng chí mênh mông, có khi chỉ kém một tẹo của bên vợ nhà tôi ngày trước. Nay thời hạn sử dụng tới năm mươi năm, chắc sang đời con cháu nhà đồng chí, kể cả đồng chí nữa, cải tiểu sang cát, đủ đến mấy lượt. Từ tá điền, này đồng chí thành ra chủ đất rồi.
Ngoài lắm đất nhiều cát, đồng chí bí thư còn nổi tiếng khâu chùa đền. Chả cần phải nghe đồn thổi, chính đồng chí bô bô và tự hào, ngôi đền thiêng nổi tiếng của làng và trong vùng, đến một phần ba là do nhà đồng chí cung tiến. Nay thì tháng tháng đều đặn một lần, đồng chí hầu đồng thông đêm suốt sáng. Thấy bảo, từ khi hầu bóng, nhà ăn nên làm ra. Mỗi đêm hầu, bỏ ra bốn năm mươi triệu, toàn đồ lễ, nào đám ngựa giấy, mũ mã, vàng khối, bạc ròng, rồi tiền thướng, tay cô đồng tung hê bó tiền thật mệnh giá chục ngàn, có khi khách sộp còn dúi tận tay mấy tờ bạc xanh lét. Tốn kém vậy, thánh nào chả không phù trợ. Có dân làng bình phẩm, cái thời buổi, đến thánh thần cũng thích ăn của hối lộ. Thôi thì, lắm đất nhiều cát là do đồng chí có đầu óc giỏi giang kinh doanh; thích hầu bóng là quyền tự do tín ngưỡng.
Họ nhà tôi suất đinh tới một phần ba làng. Tuy chẳng nói ra, tôi biết, ý nghĩa, mục đích của cuộc thăm nom, ngoài công lao, chức tước của tôi, còn cái chân trưởng họ chiếm một phần suất đinh của làng và tôi là ông trưởng họ. Buổi gặp tôi, đồng chí bí thư khôn phết, là người nhìn xa trông rộng, nghe tôi tuyên bố vậy, những vẫn còn nhìn thấy ở tôi cái chân trưởng họ, tiếng nói quan trọng lắm, "lão ta mà xui bẩy họ hàng nhà lão, thì làng thôn loạn". Thế là trước khi ra về, đồng chí bí thư mở ca táp. Tôi đồ là thủ tục tặng quà. Quả y như đúng. Song chả phải gói trà, bao thuốc - dạng tình cảm xưa, mà là thứ quà nay quen dùng, chiếc phong bì dày cộp. Không hiểu nó là tiền ta, hay tiền Tây, nếu tiền ta, mệnh giá cao, chiếc phong bì này tới đôi ba mươi triệu; còn tiền Tây, thì lắm lắm.
Đồng chí bí thư giỏi chơi cờ thật. Tôi nhận, hay không, món quá tình cảm của người đồng xóm làng biếu tặng kẻ hưu quan?
***
Chiến tranh qua hơn ba chục năm, mà vẫn còn thức ngủ, vẫn trồi cựa trong tôi:
- Chịu tí nữa đi em.
Khẩu, trung đội trưởng của tôi. Tôi mơ hồ, loáng thoáng bên tai. Trên chốt, trung đội chỉ sống sót con tôi và trung đội trưởng. Vắng lặng, thi thoảng bất chợt cất lên tiếng súng đì đoàng. Đêm tối, mùi xác thối đồng loại nồng nặc, từng cơn lùa theo gió thổi, ngửi nhiều và lắm, vẫn không quen nổi. Khát nước, khát đến cháy họng, tôi còn sống để về được với thầy bu, hay giặc tràn sang. Khát quá anh Khẩu ơi.
Trung đội trưởng là đồng hương huyện, thân phận từ nhỏ côi cút. Anh hơn tôi năm tuổi. Không hiểu sao, trong trung đội, anh quý mến tôi nhất, một kẻ lắm chữ, sinh viên năm hai và anh, một chữ bẻ đôi không biết, trừ cái chữ ký tên Khẩu. Tôi đang trong cơn sốt, không rõ mình bị thương bộ phận nào: tay, chân, đầu, hay ngực. Tay anh đặt lên trán tôi và thoáng tiếng anh xa gần:
- Nóng qúa!
Còn tôi, rét run cập:
- Khát. Thầy bu ơi, anh Khẩu ơi... khát. Chết mất thôi.
Tôi đang mê man, mơ thấy bóng hình bu tôi:
- Nước, bu ơi, nước!
Kia, sao bu tôi bê ra, lại chả cho tôi uống.
- Đợi, đợi anh một chút. Anh xuống suối.
Tiếng anh xa gần. Đó cũng là câu cuối tôi nghe, trước khi chìm hẳn vào trong cơn mê sảng. Tỉnh dậy, tôi đang nằm trên giường bệnh, mềm ga trắng tuốt, cả cô y ta đội mũ, đeo khẩu trang cũng trắng muốt.
- Tỉnh rồi. Ba hôm liền anh mê man đấy.
- Anh Khẩu đâu?
Cô y tá không hiểu câu hỏi của tôi, lắc đầu:
- Anh nghỉ đi.
Tôi lại rơi vào cõi mung lung. Sau hai tháng điều trị, vết thương lành lặn, giám định sức khỏe, thương binh loại hai, tôi khoác ba lô từ trại an dưỡng thẳng về trường đại học, tiếp tục con đường học vấn đang còn dở dang.
Nay tôi thành lão giả an tri, lui về chốn quê, sống cảnh điền viên. Từ quê lên phố huyện chỉ non chục cây số. Mua bán gì đâu, đôi khi leo con Wây già, túc tắc tôi lên phố huyện nhòm ngó cho đỡ buồn con mắt. Trưa đó lên phố huyện còn cả chuyện, làng xóm ầm ĩ, đứa con trai độc của đồng chí bí thư chết vì sốc thuốc.
Khốn khổ thay, tôi đang giữa phố huyện, cảm giác lốp xe kình kịch, săm xe hết hơi rồi. May quá, có cửa hàng sửa chữa trên vỉa hè. Đúng là người làm điều tốt, thì gặp phúc, tôi tỉm tỉm an ủi lòng vậy và dắt xe vào quán.
Ông thợ sửa xe trông hom hem. Tôi ngồi chiếc ghế nhựa nom hom hem không kém ông chủ. Cạnh chỗ tôi ngồi dăm ba mét có cái lều tùm hum vắt phủ bằng tấm nhựa. Ông thợ lúi húi tháo vá săm, già mà làm việc nhoay nhoáy. Chắc ông ta tuổi chừng ngoài bảy mươi, sao con cái nỡ để cha mẹ tuổi này còn nhọc nhằn bươn trải. Thôi, số giời, biết làm sao. Quái lạ, ông ta nom quen quen. Người gặp ở đâu nhỉ, trong cuộc đời mình phiêu dạt qua? Bất chợt từ bức tường sau lưng vọng ra tiếng gọi và ông già ngoái lại:
- Ông Khẩu, nước sôi rồi.
Tôi sững người, ông già chữa xe chính là thủ trưởng, là ông anh Khẩu của tôi. Không diễn tả hết vui mừng, hai ông già ôm ghì chặt nhau, khách qua đường ngó ngó nhìn vào ngạc nhiên.
- Đêm nay, mày ở lại, uống với anh.
Lâu lắm rồi tôi mới được người gọi bằng mày và xưng đại từ anh thân thiết vậy. Nói rồi anh Khẩu chỉ sang căn lều nhựa dựng tùm hum:
- Nhà tao đó.
Vẫn biết anh côi cút, sao đến cơ đận này cơ chứ, anh Khẩu ơi, một người một thời trong bom rơi đạn nổ, sẵn sàng hy sinh cả thân mình bảo vệ từng thước đất biên cương, tôi xót xa nghĩ. Chiều muộn, cũng là lúc mây đèn vần vũ, ông trời dì úng tiếng sấm, mưa to gió lớn đến nơi rồi, anh Khẩu vội dọn dẹp đồ nghề để tiếp đáp thằng em.. Tôi ở lại đêm với anh tôi. Lều anh đơn sơ, mộc mạc, hình chữ A, dựng bằng mấy thân tre và mái phủ tấm nhựa. Nhỏ hẹp mà tươm tất phết: tấm phản gỗ, cái bàn và ghế nhựa; cũng phích nước, bếp điện, ngọn đèn let, có cả ban thờ, những chân nhanh và mấy bông hoa heo héo.
- Cứ mặc anh.
Tôi định giúp ông anh một tay bếp núc, anh đâu chịu, gạt phắt thằng em.
- Mày không biết tao là tay bếp cự phách à. Tiếc quá, không biết mày đến, làm con lươn, lươn om củ chuối. Mua bán gì, giờ anh mày toàn nhờ bà cho nước sôi ban nãy. Đất dựng lều cũng do vợ chồng ông bà ấy cho mượn. Dân cựu binh Bảy tám tham gia chiến tranh Tây Nam.
Món lươn om gợi tôi nhớ đến những câu chuyện của anh. Cảnh ngày đó lính trên chốt thiếu thốn đủ điều, đơn giản như thực phẩm, anh em toàn xơi đồ hộp, thịt lợn hộp, lương khô,... Để cải thiện, đêm đêm mỗi thằng lính thay phiên nhau bịa ra đủ kiểu, đủ món đặc sản quê mình khao đãi nhau và anh Khẩu, đóng góp lắm món nhất, nào rắn, chuột, cá quả bọc đất nướng, chấm muối ớt; nào lươn om chuối; nào chạch kho khế,... chúng tôi nghe, nuốt nước bọt ừng ực thèm.
Đêm ấy, trăng non thấp thoáng, trên chốt cao vài trăm mét, những mảnh đá núi tai mèo nhọn sắc, nào ai biết đâu đó súng thù nhòm ngó, bắn vu vơ trong đêm, anh Khẩu mò mẫm xuống suối, kiếm nước cho tôi. Tôi cứ hình dung cảnh anh Khẩu bò qua những xác người trương phềnh, những cánh tay chân pháo mìn băm chặt, nát bét, nhung nhũng ròi bọ. Chỉ biết rằng sau vài tiếng đồng hồ, múc được bình tông nước, leo bò lên đến chốt, không còn thấy tôi nữa. Lịm khóc, anh thề quyết tử cho tôi:
- Tao tưởng mày bị chúng bắt!
Tôi rùng mình nghĩ tơi câu chuyện chính anh từng chứng kiến, mà bất lực nhìn đồng đội. Giặc bắt được đồng đội của anh, đưa qua biên giới. Chúng để lại dấu vết cho ta hay, đồng đội đang bị bắt nhốt ở đâu. Treo người đó trong cũi, đèn đuốc sáng trưng vây quanh. Người lính thoi thót. Giặc biết, từ các đồi xa, rừng xa, những con mắt đang dõi nhìn. Thế trận chúng đã phục sẵn, nếu ta lao vào cứu đồng đội, là lãnh trọn những đạn. Có cứu, cũng không đưa thoát nổi, đồng đội chỉ còn là các xác động cựa, vặn vẹo được, gân tay chân bị cắt lìa hết mất rồi.
Trong lúc ăn uống, chợt nghe anh dịu dàng hỏi thăm về "chị vợ" của tôi, lại nhớ câu đùa của tôi với anh:
- Anh phải lòng vợ em sao?
Lúc ấy nghe tôi hỏi, mặt mũi anh đỏ tía tái, đỏ đến tận kẽ tóc, y như ngày trước khi tôi chưa lấy vợ, bạn bè trong lớp đùa cợt, đặt cho cái tên: thằng Mặt Đần Thối.
Đôi ba tháng tôi nhận được thư vợ và sung sướng đem ra một góc ngồi đọc, đâu đọc một lần, đọc tới như thuộc lòng thư vợ yêu. Sau những lần nhận thư vợ, tôi hình như thấy thái độ anh Khẩu khang khác, lúng túng, có điều gì đó muốn tâm sự. Một bữa tôi gạn hỏi anh:
- Hình như anh có chuyện gì?
Anh đỏ rực mặt và đến hai, lần ba gặng hỏi, anh mới ấp úng:
- Em đọc thư của vợ, anh nghe được không?
Tôi hơi bất ngờ và khó xử. Chuyện riêng tư, nhưng lời yêu đương của vợ chồng, sao cho người khác biết được. Thấy thái độ tôi vậy, anh bẽn lẽn:
- Thôi thì, không sao.
Lúc đó chợt thấy thương anh quá, côi cút, thiếu thốn tình cảm, lại là người nhút nhát trước phụ nữ, hai mươi sáu tuổi, anh vẫn trong trắng, chưa biết đến mùi vị phụ nữ, kể cả đến cái nắm tay. Tôi lúng túng, đưa lá thư của vợ cho anh. Thật bất ngờ và cho đến tận lúc đó, tôi mới hay rằng, anh mù chữ:
- Anh biết đọc viết đâu.
Kể từ sau lần đó, nhận được thư vợ, tôi đều gọi anh ra chỗ vắng, anh em cùng đọc, cùng nghe lá thư của vợ tôi.
Lúc anh nâng chén rượu đoàn viên, tôi chưa thấy nét mặt ai thanh thản, viên mãn đến thế, nó an ủi cho lòng tôi, bởi từ lúc gặp anh, tôi cứ rằn vặt, làm gì cho anh đây, hay lại ngậm ngùi nỗi đau. Anh lại cười buông câu, giải thoát cho lòng tôi rồi:
- Ơn giời. Anh em mình có ngày hôm nay.
Anh, con người duy vật, ngay tại mặt trận, khi còn khét nồng khét mùi súng đạn, đọc và trao quyết định kết nạp đảng cho tôi.
- Thôi, chuyện của tao dài lắm.
Anh xua tay và chạm chén với thằng em. Thoáng nghĩ về chuyện vừa sảy ra với con ông bí thư giàu có, quyền lực nhất thôn. Chiều nay, chắc ông ta làm ma cho thằng con sốc thuốc to lắm, chả rõ có trống gõ kèn tế không, đất cát, tiền của lắm thế, có xây cho thằng con mả hoành tráng không?
Mưa to rồi. Nước sả đổ rào rào xuống tấm mái lều. Sấm chớp đì đùng, nhóe nhằng nhằng sáng. Nhớ lúc anh luộc và thái xong thịt, bày ra đĩa, bê phía bàn thờ, chợt dừng lại và hơ hớ cười:
- Ơ kìa. Mày còn sống sờ sờ ra đây, việc quái gì tao phải thờ cúng nữa.
Nghe anh nói, hóa ra thủ trưởng - ông anh Khẩu của tôi, mấy chục năm rồi, ngay cả trong căn lều tạm bợ này, vẫn nhớ đến thằng em.
Ngoài kia gió mưa quăng quật, tiếp tục những giọt mưa rơi xổi xả xuống mái lều. Là Trời khóc hay cười?
- Ơn giời!
Tiếng anh hòa lẫn trong tiếng mưa rơi.
Viết sáng 01/5/2017
NGUYỄN TRỌNG HUÂN
Nguồn: http://nguyentronghuan.vn102.space/
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 26 tháng 2 năm 2025