Nửa đêm kia, có một người Nùng ở một xóm khuất bên dốc Keng Vài bỗng thức giấc.
Rõ ràng, trong bóng tối mà mắt trông thấy được, cuồn cuộn thành luồng luồn qua những khe tường đất bên nách cửa, có một mùi ấm và thơm lạ lùng. Chẳng mấy chốc mùi thơm đã đầy nhà, nồng nàn đến tận chân tóc.
Người ấy lẩm nhẩm một mình:
- Đến mùa hái hồi rồi.
Thằng con nằm cạnh bố cũng ngồi nhỏm dậy. Nó hỏi:
- Bố sắp phải đi trèo hồi, bốn hỉ?
Bố nói:
- Mai đi sớm thôi. Trèo hồi còn kịp lấy cái Tết rằm tháng bẩy này về cho mày.
Thằng bé ngẩn ngơ reo lên:
- Sướng lắm nhỉ?
Buổi sáng, tất cả mọi người đều đổ ra đường. Ai cũng đứng ngửng lên cho thấy mùi hồi chín chảy qua mặt. Rừng hồi ngào ngạt xanh thẫm trên các quả đồi quanh làng. Những cơn gió sớm đẫm mùi hồi, từ các cánh đồng Thất Khê, lùa lên những hang đá Văn Uyên, Thoát Lãng trên biên giới xuống Cao Lộc, Chi Lăng, qua những vùng hồi mà một mảnh lá gãy cũng dậy mùi thơm, gió càng thơm ngát. Sông Kỳ Cùng đã nhạt hết màu đục đỏ bối rối suốt mùa lũ, bây giờ con sông ủ mùi thơm trong vắt lượn, quanh co khắp đất Lạng Sơn vào mùa hồi chín.
Lại đến mùa hái hồi!
Có những ông già người Nùng Cháo, đến mùa thì theo mùi hồi chín đi bán rượu. Người vác chảo, đội đõ, người đeo hũ. Ngả chảo rồi bệ cái đõ lên, bán rượu nóng cho người hái hồi, ngay đầu rừng.
Và cứ khi mùi hồi chín lại thấy cơ man người đi trèo hồi, hái thuê. Người Nùng ở biên giới vào, người Tày lặn lội trong các vùng khe dọc ra, người Kinh ở Đồng Mỏ, ở Hữu Lũng lên. Họ đi thành từng bọn. Nắng lên, toả ra, cái nắng tháng bảy rưng rưng ở các đầu rừng lao xao tiếng người đánh xe ngựa chở hồi cho lái buôn.
Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn, gãy gọn hơn cả cành khế. Quả hồi, phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành. Người trèo hồi hay bị ngã lúc với tay ra hái. Người ngã hồi rơi thẳng xuống gốc, đành què gẫy mà chết, không đỡ được. Bởi vậy, người đi trèo hồi thuê thường thèm ngụm rượu cho dễ liều hơn.
Người trèo hồi ấy đã đứng ra trước cửa. Cái túi chàm lép đựng nắm cơm. Chiếc xe ngựa tải hồi của lái buôn đủng đỉnh qua. Người trèo hồi, cứ thế nhảy trộm lên sau xe, ngồi tựa lưng vào một đống bao bì cao ngất.
Con ngựa sục mõm vào giỏ cổ rồi hắt hơi, lắc mũi mấy cái. Chẳng biết bực mình hay mừng rỡ, con ngựa lại cất chân chạy đổi nước. Người đánh xe gò cương lại. Nhưng cũng không biết sau lưng xe có đã thêm mấy người trèo hồi đi nhờ.
Chỉ có lũ trẻ con trong xóm trông thấy. Chúng reo ầm lên. Chúng sung sướng ước được trèo lên, mặc cho chiếc xe có mùi hồi thơm muốn đưa đi xa những đâu thì đi.
Thằng con kiễng chân, nói như thét:
- Bố đi lấy cái Tết tháng bảy về... lấy về...
Nó cũng đương nghĩ cái xe ngựa đi đến những nơi sung sướng lấy cái Tết tháng bảy về, như những đứa trẻ khác. Những cái xe tải hồi đã đi xa. Nắng nhạt tháng bảy đọng lại, các khe, các hang rỗng trong lòng núi cũng ẩm ướt mùi hồi.
Lại nghe đằng kia nhong nhong tiếng ngựa. Từ nửa đêm đã nhộn nhịp xe ngựa, xe trâu của lái buôn về qua.
Nhưng đây là ngựa đeo nhạc. Nghe tiếng nhạc xoang xoảng thì người trong làng biết đấy là ngựa quan châu. Và tiếng ngựa quan châu thì không kể mùa hồi hay mùa lúa. Quan đi tuần. Quan đi bắt phu làm đường, xẻ núi hầm xe lửa. Quanh năm.
Bọn lính khố lục đeo súng dài, một tay ôm băng đạn vừa chạy vừa kêu qua trước cửa:
- Đường Tà Lài! Đường Tà Lài!
Thế là ai cũng lại biết quan và lính đi các làng bắt phu lên biên giới làm đường hầm xe lửa ở Tà Lài.
Lính đẩy cửa vào nhà người trèo hồi.
Nhưng người ấy đã trèo lên lưng cái xe ngựa tải hồi từ nãy.
Bọn lính ra khỏi xóm, lôi một đám người đi phu hớt hải chạy theo. Những tiếng quát chửi rầm rĩ. Đến trẻ con cũng nhớn nhác.
Không thấy đứa nào đứng xem người đi, như lúc nãy.
Lại nghe tiếng nhạc ngựa đằng xa lanh canh vẳng tới. Bây giờ là ngựa của châu đoàn về gọi dõng đi đổi gác.
Dõng các làng phải chia nhau lên gác ngày đêm trên các ngả núi tắt qua biên giới. Một chợ đổi gác một lần. Lệ ác nghiệt ấy cũng không cứ mùa lúa, mùa hồi, kể cả Tết đến. cả năm hay cả đời người ta, đều phải đi gác nghiêm mật thế. Gác cướp, gác buôn thuốc phiện, buôn súng lậu, còn các người hội kín, người cách mệnh, gác gì nữa, không biết hết.
Người dõng cắt lượt đi gác. Mỗi lần châu đoàn lên đồn, quan hai Tây ở Đồng Đăng hay quan một Nà Sầm, hay quan ba đại lý ở Thất Khê thường hỏi một câu giống nhau:
- Có cách mệnh ra biên giới không?
Châu đoàn khúm núm:
- Bẩm quan...
Đám dõng đi vét người đổi gác cũng lại sục vào xóm, như hệt bọn lính đi bắt phu làm đường Tà Lài lúc nãy. Họ lại vào nhà người trèo hồi.
Nhưng người trèo hồi đi đã được một lúc lâu.
Trước cửa, thằng bé con ngồi chồm hỗm vẫn nguyên trên cái cối đá. Nó lặng lẽ nhìn ra.
Buổi chiều, từ các đầu rừng, cái xe về bỏ từng bao hồi chín, xuống cầu xóm cho các trạm phơi hồi, nấu hồi.
Những đoàn xe kĩu kịt về trạm.
Không trông thấy người ngồi trong cái mui phên. Chỉ nghe tiếng tẹc lưỡi giục vào bóng tối chập choạng có con bò con trâu nào đó đương đau móng cứ bước một khấp khểnh. Và cái đèn kính ô vuông đã lên ngọn đỏ bẻm lắc lư trên nách sau chiếc bánh sắt lăn rào rạo. Những chiếc xe cứ lầm lì, không biết khi đêm càng xuống, bóng tối trong các hang núi đá càng bò ra đen sẫm thì mùi hồi càng quẩn nặng như khói bếp trên làng xóm.
Những cái xe ngựa có chiếc giỏ cỏ treo trước càng xe. Con ngựa vừa bước vừa thục mõm vào tìm cỏ. Đã kiệt sức, nhưng hai cánh mũi nỏ lại nhấp nhoáng, đen ướt cúp xuống, hít lên, rồi vừa khoan khoái, vừa khát khao, dũi rào rạo vào những cái nan tre. Không một nhánh cỏ. Cứ như vậy, con ngựa hít mùi hồi vào ngập mũi. Nó rũ mình. Mùi hồi nồng nàn tung lên. Đầy kích thích, con ngựa lại nhảy giựt lên, chạy kiệu nhỏ.
Đoàn ngựa chở hồi về nghỉ ở các thị trấn rồi hôm sau lại đưa chủ hồi, lái hồi đi các rừng, để thu từng gốc đã mua non từ đầu năm, hay để đặt giá mua rồi thuê trèo, thuê tải về các trạm cho phơi, cho nấu...
Chuyến xe ngựa này về muộn, đem ra Kỳ Lừa một người trèo hồi bị ngã cây.
Người trèo hồi nằm trong đống bao tải thừa, cũng xám ngắt như cái bao tải. Gãy xương hay giập lá lách, không biết. Không có máu chảy, tay chân tái đen.
Buổi chiều vào thu muộn, cái thị xã Lạng Sơn xanh xám bỗng náo nức lạ thường.
Các sòng tài xỉu, xóc đĩa bên tỉnh và bên Kỳ Lừa bắt đầu những cuộc sát phạt ban đêm. Tiếng trống mở đố chữ đánh thùng thùng. Suốt phố Kỳ Lừa, cả đến những hàng phở chua, người cũng chen chân như nêm.
Những người hót ra tiền ở đây đều biết từ vài hôm nay, các con buôn hồi ở Hà Nội, ở Hải Phòng, ở Quảng Châu, ở Hồng Kông xuống và cả ở Sài Gòn ra nữa, đương đổ đến đây. Bây giờ đương mùa hồi. Hiệu cao lâu Thuận Lợi, hiệu Mĩ Kinh, hiệu cao lâu Tài Và chật ních. Hai bên cầu, những hiệu ăn Âu: hiệu Pa-ri, hiệu Ba ông tướng... thêm những bọn Tây đoan, Tây kho bạc, Tây đốc học, Tây kiểm lâm, Tây đốc tờ người, đốc tờ chó... Các tay đại lý mua thầu thuốc phiện của Việt Điền công ty, các chủ thầu hầm đường xe lửa ở Tà Lài đông đủ như mọi tối. Có nhà nào vừa mở sàn nhảy, nghe nói có gái nhảy Hà Nội lên có kèn nhảy đầm tò tè suốt đêm.
Từng đoàn ô-tô vượt đèo Sài Hồ, đèn pha quét sáng trắng các mỏm đồi, như trăng mọc. Những chiếc xe Pho V8 hay Hốc-kít kiểu Mỹ đen bóng, khác hẳn các loại xe nhà binh màu đất thó ở đây. Chúng từ Hà Nội lên, không dừng lại thị xã, cứ thẳng đường Lộc Bình lên vùng nghỉ mát Mẫu Sơn. Trên mỏm núi đá trọc Mẫu Sơn cao một nghìn năm trăm thước đêm nay có tiệc to trong nhà khách phủ Toàn quyền Đông Dương. Bọn quan chức Tây làm ở đây ngồi uống rưựu tại quầy khách sạn Đến nhà tôi kháo nhau: trong đoàn xe ô-tô có quan Bảy Toàn quyền mới ở Đà Lạt ra.
Con đường ven núi lên Mẫu Sơn, đèn xe nhấp nhô sóng sáng dài suối mười năm cây số đến khách sạn đỉnh núi.
Các thị trấn Đồng Mỏ, Kỳ Lừa, Đồng Đăng, Nà Sầm, Thất Khê lúc nào cũng đông ắp người, mỗi độ có một cánh chơi, có một câu chuyện đồn thổi khác nhau. Nhưng bây giờ thì đâu đâu cũng đương khét tiếng ăn chơi nhất Lạng Sơn là cánh nhà thầu hầm xe lửa Tà Lài mà cánh buôn trâu bò, đỗ tương, thuốc phiện không còn ai chú ý đến nữa.
Có công ty hoả xa Đông Dương bỏ thầu mấy triệu bạc cho bắn thủng quả núi đá Tà Lài làm đường cho xe lửa qua. Thế nào mà bọn nhà thầu chỉ bắn mất có hai phát mìn. Thì ra quả núi ấy rỗng ruột. Bọn nhà thầu sướng đến nỗi lão chủ chính gần hóa rồ, cứ rải giấy bạc ra khắp các chỗ chơi bời, vừa ăn vừa thưởng tiền xem đánh nhau, vừa đi ô-tô vừa tung tiền. Và đến bây giờ các chốn ăn chơi lại ồn ào thêm về bọn lái hồi đổ của ra phá phách liên miên cho đến tận tháng mười, hết mùa hồi chín.
Cái xe ngựa nọ đứng lại trước cửa nhà thương. Bác đánh xe nhảy xuống rồi xốc người ngã cây hồi khiêng vào. Bấy giờ đã tan tầm làm việc. Chỉ còn cái hành lang vắng lặng, hôi thối, vốn quét vôi trắng, đã đen bóng những mồ hôi và máu mủ với rác rưởi, lặng ngắt.
Đặt người trèo hồi ngã nằm xuống đấy rồi giơ tay giật cái dây chuông. Ở trong, không động tĩnh. Bác ấy lặng lẽ giật dây lần nữa. Vẫn chỉ có tiếng chuông, nghe kêu đằng xa tít, như chuông kêu trên trời. Đợi một lúc cũng không thấy. Trong nhà thương không còn ai. Rồi bác đánh xe ngựa thoắt đi ra. Người trèo hồi nằm dưới đất chợt mở mắt trông theo - cái lòng trắng của người hấp hối nhợt nhạt lấp lên con ngươi. Rồi con mắt buồn bã nhắm lại.
Cái xe ngựa lại lọc cọc mờ vào bóng tối. Con ngựa đã mệt bã, lưng sũng mồ hôi, chốc chốc lại thúc mõm vào cái giỏ đựng cỏ, xốc nghiêng cả lên, như giỏ đóng vào mũi. Cũng chẳng thấy gì.
Người trên xe cười nói những chuyện chắp nối đâu đâu. Bấy giờ mới biết trong xe còn mấy người nữa.
- Quan chủ bảo mày về nhà Tài Và mà ngủ.
- Tối nay lão cóc vàng chơi đâu?
- Chết mệt với “hối théng” (1) nhà Tài Dẻo.
- Ờ, mấy “ả múi” nhà ấy thế là câu được lão cóc vàng rồi. Đã biết mà!
- Này, đánh bạc ở Đồng Mỏ thì chết cũng tạm nhắm mắt, mày ạ. Nó vét nhẵn túi, nhưng còn đãi mình một bữa no say cật lực, không cỏ rả như mấy thằng chủ sòng mắt trắng môi thâm ở Kỳ Lừa.
- Chuyện! Nhân nghĩa bọn chủ sòng mà buồn! Tranh khách thì phải thế thôi.
Giọng trống quân ồ ề của bác đánh xe cất lên. Không hiểu người hát đương vui hay buồn, tiếng khê nằng nặc cứ lạc trong hơi hồi chín.
Thứ nhất, quán Bầu, Chi Lăng
Thứ nhì Cây Khế Đồng Đăng, Kỳ Lừa (2)
Đêm ấy, vẫn gió hồi miên man về. Thằng bé con người trèo hồi lại ngủ một mình. Nó không hề nghĩ bố nó ngã cây hồi rồi. Nó chỉ biết bố nó đi trèo hồi lấy cái Tết tháng bảy. Nó thích Tết tháng bảy có bún và được ăn cái tỏi gà cho nên nó không sợ nằm đêm một mình.
Hôm sau, cái xe ngựa ấy qua nhà thương.
Bác đánh xe ngái ngủ chợt nhìn vào hành lang. Cái hành lang lạnh xám như chiều qua. Và người trèo hồi ngã vẫn nằm ở chỗ chiều hôm qua.
Nhưng khác hôm qua. Cái hình người bây giờ dẹp đét, mỏng dính lại, kênh lên như một cành cây. Chỉ thoáng nhìn đã cảm thấy lạnh đến tận mắt. Dòng kiến nâu xù xì bò đầy lên hai vành tai cái xác chết.
Bác đánh xe quất con ngựa một cái. Cái xe lọc cọc chồm đi. Con ngựa chạy nghênh hai cánh mũi ướt, đẫm hơi hồi, vừa thở vừa hí vang động.
Thụ bảo Chi:
- Không thể như thế được!
- Thụ ơi! Đất nước ta đau đớn mãi như thế ư?
- Không!
Trước mặt hai người bạn, sông Kỳ Cùng đương ườn mình ra xa. Dòng sông này chảy tới Quảng Châu, mà tưởng như lúc nào hai người cũng nghe vang lại tiếng bom Quảng Châu của Phạm Hồng Thái nổ ở Sa Diện năm trước, trong mùi hồi bốc lên mặt nước vẫn âm thầm tiếng bom nổ thật kích động, thật lạ lùng. Muốn làm cách mệnh, cứu đất nước, phải đứng lên đánh thằng Tây như thế mới được.
Trông khoé mắt cháy rực của hai người thanh niên cùng sôi nổi một khát vọng. Đứng trên đầu cầu Kỳ Lừa, nhìn theo dòng nước chảy ra biển Đông, tưởng sẽ tới được những nơi đương sôi sục, cần phải đi tới những nơi sôi sục ấy mới học được cách mệnh trên thế giới.
Thụ nói cái ý tha thiết ấy với Chi.
Chú thích:
(1) Những người đàn bà làm nghề chia bài, xướng bài trong đám bạc
(2) Tên những nơi ăn chơi ngày trước: quán Bầu ở Chi Lăng, Cây Khế ở Đồng Đăng, Cây Khế ở Kỳ Lừa.
MỞ ĐẦU
Tiến >>
Đánh máy: hoi_ls
Nguồn: Hoi_ls - NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN HÀ NỘI - 2004
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 3 tháng 5 năm 2022