Gã Hát Rong Cuối Cùng

o. henry

dịch giả: lê vy

truyện ngắn của o.henry[1]

.bt cứ ở đâu và vào bất cứ lúc nào, khi người hát rong đặt cây đàn xuống và cầm thanh kiếm lên, thì chắc chắn là sẽ có chuyện phiền toái xuất hiện liền theo.

Vẻ dứt khoát, Sam Galloway thắng yên lên lưng con ngựa nhỏ của mình, chuẩn bị rời

khỏi trang trại Altito sau ba tháng viếng thăm. Chỉ với bánh qui mặn và cà phê pha bằng bột mì rang, chẳng mong gì khách có thể lưu lại lâu hơn. Nick Napoleon - người đầu bếp da đen to béo - chưa bao giờ làm được bánh qui ngon; trước đây có lần, khi Nick còn nấu bếp ở trang trại Willow, chỉ sau sáu tuần lưu ngụ, Sam đã phải bỏ chạy khỏi nhà bếp của anh ta.

Trên gương mặt Sam thoáng hiện nét buồn, hằn vẻ lưu luyến và thoảng một chút khoan hoà nhẫn nại của một người từng trải mà người ta không sao hiểu được. Anh bậm môi cài khoá yên ngựa, thắng dây cương, mang áo khoác, áo đi mưa lên khoảng sau yên rồi cuộn chiếc roi ngựa vào cổ tay phải, cả nhà Merrydews - những người chủ của trang trại Altito, - gồm tất cả đàn ông, đàn bà, con nít, và cả các môn khách, gia nhân, người hầu, những người lao dịch, những ngựời đến chơi và cả mấy con chó nữa, tất cả đều tụ tập ở “khách sảnh” trong ngôi nhà lớn của trang trại, trên nét mặt mọi người đều lộ vẻ lưu luyến. Cũng bởi khi đến bất kỳ trang trại hay lều, trại náo trong vùng giữa các con sông Frio và Bravo del Norte này, Sam Galloway luôn khuấy động lên bầu không khí vui tươi sôi động ở đó, do vậy mọi người không khỏi buồn khi anh ra đi.

Và rồi, trong bầu không khí lặng lẽ đến mức tiếng gãi sột soạt của một con chó săn cũng vang lên mồn một, Sam gượng nhẹ đặt chiếc đàn ghi-ta lên trên chiếc áo khoác và áo đi mưa trên yên ngựa, cột lại cẩn thận; chiếc đàn ghi-ta được bọc trong chiếc túi may bằng vải bông xanh, và nếu bạn hiểu được tầm quan trọng của nó, thì ắt bạn cũng hiểu được Sam.

Sam Galloway là người cuối cùng của giới hát rong. Giới hát rong, hẳn nhiên là bạn biết họ. Theo từ điển bách khoa thì giới này bùng phát lên ở châu Âu trong khoảng từ thế kỷ mười một đến thế kỷ mười ba. Cũng chẳng biết là họ đã bùng phát lên như thế nào nhưng bạn có thể tin chắc là không phải do nghề cung kiếm mà có lẽ chỉ nhờ vào tài đàn ca hát xướng, tài tán chuyện Đông Tây hay những chuyện bông lơn trăng gió cũng không chừng... nhưng dẫu sao, Sam cũng là một người thuộc giới này.

Lúc nhảy lên yên ngựa, Sam phát một cử chỉ làm như thể bất đắc dĩ lắm anh mới phải ra đi, nhưng gương mặt anh lại giãn ra trong nỗi háo hức trông giống hệt gương mặt của con ngựa mà anh đang cưỡi; hẳn bạn cũng biết là ngựa thường hiểu rất rõ tâm trạng của người cưỡi nó, chẳng kém gì những gã bò tơ vẫn thường hay khua khoắng máng cỏ và ợ ra trệu trạo nhai lại ra điều nhạo báng chú ngựa của Sam là nó đã mang trên lưng một gã hát rong chứ không phải là một anh chàng cao bồi bảnh bao, kiêu dũng nào. Chẳng ai là chủ nhân ông đối với con ngựa của mình, cũng như chẳng có ai lại đi bắt lỗi cái cầu thang bước lên sàn quán chỉ vì nó làm cho gã hát rong bước hụt chân...

Ơ mà này, tôi biết tôi rõ tôi là một người như thế, và bạn cũng vậy. Hẳn là bạn vẫn nhớ những câu chuyện bạn đã thuộc nằm lòng và những đòn phép mà bạn đã học qua cùng mấy ngón đờn ca? Chỉ cần biết tính tình tang dăm ba điệu hát lời ca là bạn đã có thể len chân vào những chốn cao sang. Hẳn bạn cũng biết là thiên hạ gồm ba tầng lớp: tầng lớp lãnh chúa, tầng lớp hát rong, và tầng lớp làm công; giới lãnh chúa chả khi nàc hạ mình đọc những truyện vớ vẩn như truyện này, còn giới làm công thì lại không có thời giờ; do vậy, tôi biết bạn phải là người hát rong và nếu đúng là như vậy thì ắt là bạn sẽ hiểu Sam Galloway. Cho dù chúng tôi ca hát, diễn trò, nhảy múa, kể chuyện, làm thơ viết văn hay vẽ, chúng tôi cũng chỉ là những kẻ hát rong, và do vậy, xin cứ để mặc chúng tôi làm nhũng chuyện mà thiên hạ vẫn thường hay biếm nhẽ là chuyện xướng ca...

Bị Sam liên tục ép gối vào hông, con ngựa nhỏ có gương mặt trông cứ như gương mặt của Dante Alighieri[2] ấy đã mang gã hát rong lang bạt xuôi mười sáu dặm về hướng Đông Nam. Tiết trời đang vào lúc ôn hoà nhất; dưới bước chân ngựa, cỏ non rập rờn ngan ngát hương các loài hoa dại, làn gió Đông làm dịu mát bầu không khí ấm nóng của mùa xuân; từ vịnh Mexico, những tảng mây trắng như bông kéo về ngăn những tia nắng mặt trời tháng tư rọi thẳng xuống. Vừa thúc ngựa, Sam vừa cất tiếng hát vang. Trên dây cương ngựa, anh buộc mấy túm cành con để xua lũ ruồi vàng. Được chăm chút chu đáo như thế, cái gã bốn chân mặt dài ấy trông lại càng giống Dante hơn trước, và cứ trông mặt mà bắt hình dong thì hẳn là chú chàng đang mơ tới nàng Beatrice[3] của mình.

Thuận đường, Sam buông lỏng dây cương thả cho ngựa phi nước kiệu thẳng đến trang trại nuôi cừu của ông lão Ellison. Dường như lúc này anh đang mong muốn đến thăm một trang trại chăn nuôi cừu nào đó. Ở trang trại Altito có quá nhiều người, quá ồn ào, quá ầm ĩ những chuyện đua tranh... Đối với ông lão Ellison, chưa bao giờ anh phải xin phép mới được đến lưu ngụ ở trang trại của ông lão; anh biết ở đó lúc nào anh cũng được tiếp đãi ân cần. Tư cách người hát rong là tấm giấy thông hành giúp anh có thể đi đến bất cứ đâu. Những người làm công trong các lâu đài sẽ hạ cầu kéo xuống cho anh; vị lãnh chúa sẽ mời anh ngồi cạnh ông ta nhưng khi yến tiệc, và ở đó quý bà sẽ mỉm cười với anh và tán thưởng những câu chuyện anh kể, những bài ca anh hát, còn những người làm công sẽ mang đến cho anh rượu quý, thịt ngon, và nếu vị lãnh chúa có nghiêng đầu về phía anh một đôi lần thì chắc hẳn là ông ta cũng chẳng có tâm địa gì...

Ông lão Ellison hồ hởi đón chào gã hát rong, ông vẫn thường nghe các ông chủ trang trại được Sam Galloway viếng thăm tán dương anh hết lời, nhưng chưa khi nào ông nghĩ tới chuyện anh có thể quá bộ đến thăm cái lãnh địa nhỏ bé của ông. Tôi nói “lãnh địa”, bởi vì ông lão Ellison chính là người cuối cùng của tầng lớp lãnh chúa. Tất nhiên là Ngài Bulwer-Lytton[4] vì là bậc tiền bối nên không biết ông lão Ellison hoặc giả lẽ ra ông ta không nên mang một cái hư danh, sống trên đời, giới lãnh chúa có thiên chức tạo công ăn việc làm cho giới làm công và cung cấp nơi ăn chốn ở cho giới hát rong.

Ông lão Ellison trông già quắt queo với hàm râu bạc bao quanh khuôn mặt răn reo hằn nhưng vết chân chim ghi dấu một thời hoan lạc đã qua. Trại của lão là một căn nhà hình hộp có hai phòng nằm khuất dưới lùm mận gai và ở vào nơi hẻo lánh nhất trong vùng chăn nuôi cừu này. Gia đình của lão gồm có Kiowa - anh đầu bếp người da đỏ, bốn con chó săn, một con chó chăn cừu và một con sói đồng cỏ đang thuần hóa dở xích ở cọc rào. Lão có ba ngàn con cừu chăn thả trên hai dặm vuông đất thuê và cả trên hàng ngàn mẫu đất chẳng thuê mà cũng chẳng phải của mình. Đôi ba lần mỗi năm, một vài người cùng giai tầng với lão lại ghé tạt vào cùng lão trao đổi dăm ba câu xã giao; đối với lão, đó đã là những ngày vui như hội. Bởi vậy kể sao cho xiết nỗi mừng vui trong lòng lão khi lâu đài của lão được đón tiếp một người thuộc tầng lớp hát rong, một tầng lớp mà theo từ điển bách khoa là đã nở rộ lên trong khoảng từ thế kỷ mười một đến thế kỷ mười ba…

Nhìn thấy Sam, những nét nhăn trên mặt ông lão Ellison giãn ra và trên môi lão nở nụ cười hỉ hả. Lão lật bật bước vội ra con đường gồ ghề trước nhà để đón anh.

“Chào bác Ellison”, - Sam vui vẻ gọi. - “Cho phép cháu vào vấn an bác... ở đây mưa thuận gió hoà, hẳn đàn cừu tơ của bác thoả sức mà gặm cỏ non...”.

“Phải, phải...” - ông lão Ellison vồn vã - “Gặp cậu lão mừng quá, Sam à. Lão không ngờ là cậu lại chịụ khó rẽ vào cái nông trang hẻo lánh nảy... Để xem nào... lão còn một bao yến mạch cất ở trong bếp, để lão mang ra cho cái con ngoẽo này, nhé!”.

“Cho nó ăn yến mạch nữa à?” - Sam cười ngặt nghẽo - “Xin bác thôi cho; nó ních cỏ tươi no đến lặc lè, xem chừng đi hết muốn nổi rồi kìa; bác cho phép cháu cột nó trong bãi thả ngựa là tốt lắm rồi!”.

Tôi không dám chắc là trong khoảng thời gian từ thế kỷ mười một đến thế kỷ mười ba có khi nào giới lãnh chúa, giới hát rong và giới làm công lại chan hoà với nhau một cách bình đẳng như bữa tối hôm ấy ở trang trại chăn nuôi cừu của ông lão Ellison hay không. Món bánh qui của anh đầu bếp Kiowa rất ngon và cà phê anh pha rất đượm. Khuôn mặt dạn dày sương gió của ông lão Ellison sáng rỡ lòng mến khách và cả niềm cảm kích vô bờ. Về phần gã hát rong, gã cũng không ngờ là mình lại được tiếp đãi một cách nồng hậu đến như vậy. Một bữa ăn thịnh soạn, nấu khéo, một gia chủ niềm nở, ân cần cùng với bầu không khí yên ả đã giúp anh cảm thấy dễ chịu, khoẻ khoắn hẳn ra...

Sau bữa ăn tối ngon lành, Sam tháo bọc vải lấy đàn ra - không phải là để hát trả nợ cho bữa ăn; xin nhớ cho là Sam Galloway, cũng như bất kỳ gã hát rong chân chính nào khác, không phải là hậu duệ của Tommy Tucker (hẳn là bạn đã biết nhân vật Tommy Tuckertrong các truyện của Mẹ Ngỗng[5] vô danh nhưng vô cùng đáng kính?); Tommy Tucker hát để kiếm ăn, còn một gã hát rong chân chính chẳng bao giờ làm như vậy; cứ cho anh ta ăn, và rồi anh ta sẽ hát để tôn vinh cái Đẹp.

Lưng vốn của Sam Galloway có vào khoảng năm chục câu chuyện tiếu lâm và vài ba chục bài hát nhưng không hẳn chỉ vẻn vẹn có bấy nhiêu; chừng nào bạn còn thích, anh ta còn có thể say sưa trò chuyện với bạn bất kể ngày đêm về bất cứ đề tài nào mà bạn nêu lên. Thật tình mà nói, tôi thì lúc nào cũng sẵn lòng trò chuyện lần khân với anh bởi vì tôi đang cố gắng vẽ lại chân dung anh trong chừng mực khả năng cùn nhụt của tôi cho phép.

Ước gì bạn nhìn thấy anh ta nhỉ: người nhỏ thó, trông khắc khổ và thụ động đến không ngờ. Anh ta mặc một chiếc áo sơ mi may bằng vải len màu xanh thẫm, trước ngực áo có luồn một sợi dây màu xám bạc trông giống như sợi dây giày, bên ngoài là một bộ quần áo vải thô màu nâu, chân mang đôi giày đế cao gắn đinh thúc ngựa kiểu Mexico và đầu đội một chiếc mũ Mexico rộng vành.

Tối đó Sam và ông lão Ellison mang ghế ra ngồi dưới rặng mận gai. Họ mồi thuốc và anh chàng hát rong hào hứng búng đàn ghi-ta. Đa số các bài hát của anh - học được của những người chăn cừu hoặc chăn bò người Mexico - mang ảm sắc buồn buồn là lạ, trong đó có bài “Bay lên đi hỡi con chim câu nhỏ” mà vị lãnh chúa cô đơn đặc biệt yêu thích. Đó là một bài hát sâu lắng mà những người chăn cừu thường hát. Tối hôm ấy, Sam hát đi hát lại không biết bao nhiêu lần bài hát ấy để tặng ông lão Ellison.

Anh chàng hát rong tiếp tục lưu lại trang trại của ông cụ Ellison; bầu không khí yên bình ở đây cùng với lòng mến mộ của ông cụ là những thứ mà anh chưa từng thấy nơi các trang trại rộn rịp của những ông vua gia súc. Chẳng ở đâu có được những người thưởng thức lại trân trọng đến mức sùng bái công việc của các nhà thơ, các nhạc sĩ hoặc các hoạ sĩ như những gì mà ông lão Ellison dành cho những cố gắng của anh, không một bậc vương giả nào lại có thể được đón tiếp một cách niềm nở và nồng hậu đến như vậy khi viếng thăm một nông dân hay một bác tiều phu hèn mọn.

Phần lớn thời gian trong ngày, Sam nằm dài trên chiếc giường con phủ vải bạt đặt dưới bóng mát của đám mận gai. Ở đó, anh quấn thuốc hút, quan sát, trầm ngâm nghĩ ngợi về những hoạt động đơn điệu của trang trại và rồi bổ sung vào lưng vốn của mình những khúc cảm tác mới mà anh chơi đi chơi lại cho thật nhuần nhuyễn với ngón đàn ghi-ta điêu luyện của mình. Như người nô lệ phục dịch một ông chủ tôn quý, anh đầu bếp Kiowa lặng lẽ mang ra một bình nước mát máng vào lùm cây và chốc chốc lại đưa mắt trông chừng, chờ anh ra hiệu là dọn ngay bàn ăn ra cho anh. Những làn gió đồng cỏ hiu hiu thổi nhẹ, ngoài tiếng hót của những con chim nhại[6] bắt chước theo tiếng đàn vào những lúc sáng sớm hay chiều hôm, không gian của anh hoàn toàn yên tĩnh. Trong khi ông lão Ellison cưỡi ngựa thả rông quanh các đàn cừu ngoài đồng cỏ và ở phía sau bếp anh đầu bếp Kiowa ngủ gà ngủ gật trong cái nóng ban trưa, Sam thường nằm suy nghĩ vẩn vơ về cái thế giới mà trong đó anh đang sống, nó mới thật an lạc làm sao, và hạnh phúc biết bao, những người có sứ mệnh đem lại niềm vui cho cuộc sống, ở đây anh có nơi ăn chốn ở mà anh hằng ao ước bấy lâu; ở đây hoàn toàn không phải chộn rộn gì về nhũng chuyện kèn cựa, đua tranh; ở đây anh được tiếp đãi nồng hậu vô chừng, và ở đây có vị chủ nhà đã nghe đi nghe lại đến hàng chục lần một bài ca hay một câu chuyện mà vẫn hoan hỉ như mới nghe lần đầu. Thời xa xưa ấy, có khi nào trên bước đường lang bạt, có gã hát rong nào đã được tiếp đãi một cách thân tình trong lâu đài của các bậc đế vương?... Trong khi anh nằm suy nghĩ vẩn vơ, một vài chú thỏ nâu rón rén chạy vụt qua sân; cách đó non hai mươi thước, một đàn cút xám lủi nhanh ra trảng cỏ; một chú chim trĩ sao đuổi theo mấy con nhện, đập cánh nhảy vụt qua rặng cây, nhún chiếc đuôi dài một cách điệu nghệ như để chào anh; trong bãi thả ngựa rộng tám chục mẫu tây, chú ngựa nhỏ có khuôn mặt giống Dante trông béo lẳn ra và hớn hở hẳn lên; cuộc sống lang bạt của gã hát rong đã đến hồi viên mãn.

Ông lão Ellison tự mình làm quản lý cho mình; điều ấy có nghĩa là ông tự mình cung cấp gỗ, nước và thức ăn cho các trại cừu của mình thay vì đi thuê một anh chàng quản lý; ở các trang trại nhỏ người ta thường làm như vậy.

Một bữa ông lão mang khẩu phần dùng trong tuần gồm thịt, đường, đậu, cà phê... đến trại Incarnacion Felipe de la Cruzy Mont Piedras, một trong các trại cừu của ông. Khi còn cách con đường mòn đi qua pháo đài cổ Ewing chừng hai dặm, ông gặp gã hung thần King James đang ngồi trên lưng một con ngựa nòi Kentucky dữ tợn, hung hăng.

King James tên thật là James King, nhưng người ta gọi đảo ngược lại bởi vì như vậy thì hợp với hắn ta và hình như cũng hợp với ý hắn hơn. King James là gã chăn bò lực lưỡng nhất trong vùng từ chợ gia súc Alamo ở San Antone đến quán rượu của Bill Hopper ở Bronsville; hắn cũng là tay huênh hoang hay bức hiếp người khác và là kẻ bất lương hung bạo nhất ở vùng Tây Nam bang Texas này; hắn luôn làm ra vẻ tốt bụng những khi lên giọng khoác lác, và càng khoác lác bao nhiêu hắn lại càng trở nên nguy hiểm bấy nhiêu. Trong những câu chuyên đăng trên báo, thường thì những người kín đáo, thâm trầm, có đôi mắt màu xanh nhạt và giọng nói nhỏ nhẹ mới là những người đáng sợ, nhưng trong cuộc đời thật và trong truyện này thì không đúng như vậy. Xin cho phép tôi được tùy nghi chọn lựa trong việc đả kích một kẻ lỗ mãng to mồm chuyên ức hiếp mọi người và một gã lạ mặt có đôi mắt xanh đang lặng lẽ náu mình trong một xó kia, và chốc nữa thôi là bạn sẽ thấy ngay cái gã ngồi trong xó kia hành động như thế nào.

King James, như tôi vừa mới nói, là một gã dữ tợn nặng non tạ, đầu tóc cháy nắng đỏ quạch như râu bắp và đôi mắt luôn nheo díu lại thành hai vệt ngang dưới đôi lông mày chổi xể. Khác với thường lệ, ngày hôm ấy hắn mặc một chiếc áo sơ mi vải flannel màu vàng nâu mới toanh cùng với chiếc quần màu nâu sậm ống túm vào trong đôi giày bốt to kềnh, chỉ có chiếc khăn quàng cổ đỏ tươi và những khẩu súng lục là không có gì thay đổi; trên yên ngựa hắn gác ngang một khẩu súng săn và trên thắt lưng giắt đầy đạn sáng loé, nhưng bạn chớ lưu tâm đến những thứ đồ chơi ấy mà hãy coi chừng đôi mắt đang nhíu lại thành những nét ngang trên gương mặt to bè của hắn.

Đó chính là người mà ông lão Ellison gặp trên con đường mòn - xin bạn nhớ cho là ông lão lúc ấy đã sáu mươi lăm tuổi, nặng chưa đến nửa tạ, và đã từng nghe tiếng King James; ông không mong muốn gì hơn là được sinh sống yên lành và cho dù có súng, ông cũng chẳng bao giờ dùng đến; hẳn bạn còn nhớ là anh chàng hát rong đến đã làm cho những vết nhăn trên khuôn mặt ông giãn ra như thế nào, và do vậy, bạn cũng không nên vội trách là ông lão đã chủ quan, không mang súng theo. Tuy vậy ông không phải là loại lãnh chúa trốn tránh hiểm nguy; ông dừng ngựa mỉm cười chào gã hung thần.

King James giở ngay ra cái giọng điệu lỗ mãng của gã:

“Ông là cái lão kẻ cắp đang thả cừu trong vùng này đấy hả?” - gã hỏi - “Ai cho phép ông vậy? Đất này là của ông a, hay là ông thuê cả rồi à?”

"Tôi có hai dặm vuông đất thuê của nhà nước” - ông lão Eliison nhỏ nhẹ đáp.

“Vậy là coi như ông chẳng có gì sất!” - King James nói - “Hợp đồng thuê đất của ông đã mãn hạn từ hôm qua rồi, và đã có người ở sở địa chính lấy lại mấy khoảnh đất này rồi. Lúc này ông chẳng còn tấc đất nào ở Texas này cả; bọn chăn cừu các ông phải xéo đi ngay! Đây là vùng chăn nuôi bò, chẳng có chỗ nào dành cho bọn kẻ cắp các ông đâu... Cái vùng đất mà ông đang thả cừu lúc này là của tôi, tôi đang kéo dây thép gai dựng hàng rào, ngang bốn mươi dặm, chạy dài sáu mươi dặm, dựng xong mà còn thấy con cừu nào trong đó là tôi bắn chết ngay. Cho ông một tuần để lùa chúng ra khỏi vùng này; hết hạn mà ông chưa dời đi, tôi sẽ cho người đến làm cỏ sạch đàn cừu, và cả ông nữa nếu ông còn léng phéng đến đây”.

King James vỗ vỗ lên khẩu súng ra bộ cảnh cáo.

Ông lão Ellison buông lỏng dây cương tiếp tục cho ngựa thẳng đường tới trại Incarnacion; ông thở dài thườn thượt, các nếp nhăn trên mặt dường như sâu hơn; từ mấy hôm trước, ông đã nghe nhiều tin đồn về sự biến này. Thời kỳ tự do chăn thả đại gia súc trên đồng cỏ đã đến hồi chấm dứt. Đôi vai ông còn trĩu nặng với bao mối lo khác. Số lượng mấy đàn cừu của ông chỉ có giảm chứ không tăng; cứ đến kỳ xén lông cừu là giá len lại sụt, và ngay cả tiệm Bradshaw, nơi cung cấp các thứ cho trang trại, cũng đang hối thúc ông thanh toán các khoản nợ trong sáu tháng qua và đe doạ cắt hợp đồng nếu ông không trả kịp. Giờ đây lại thêm cái tai hoạ nặng nề nhất mà gã hung thần King James mang lại.

Khi trở về nhà vào lúc chiều tối, ông lão nhìn thấy Sam Galloway đang ngồi trên giường búng đàn, lưng tựa vào mấy kiện len và mấy cái mền cuộn lai.

“Chào bác Ben”, anh chàng hát rong vui vẻ gọi. “Bác về sớm nhỉ; hôm nay cháu tập

một bài mới theo điệu Fandango[7], cũng vừa xong, để cháu đàn bác nghe xem thế nào nhé!”.

Ngồi tư lự trên bậu cửa bếp, tay mân mê hàm râu bạc, nghe xong khúc đàn, ông lão Ellison lơ đễnh đáp: “Hay, hay lắm! Lão dám chắc là anh ăn đứt các nhạc sĩ khác trong cả vùng này đấy, Sam à!”.

“Ồ, cháu không dám đâu” - Sam trầm ngâm đáp - “ Nhưng nhất định là cháu sẽ sáng tác thêm vài khúc biến tấu nữa; cháu tin là cháu không đến nỗi thua họ đâu... Mà sao trông bác có vẻ mệt mỏi quá vậy, bác Ben, tối nay bác không được khoẻ à?”.

“Cũng hơi mệt một chút thôi... Nếu cậu chưa chán thì hãy chơi bài “Con chim câu nhỏ” nghe đi! Nhũng khi có chuyện phiền muộn hay đi đâu xa về mà nghe bài này là thấy khoẻ lại ngay...".

“Vâng, cháu xin sẵn sàng... À, mà sẵn đây cháu xin nhắc kẻo chốc nữa tại quên; bác nhớ nhắc ông Bradshaw món thịt đùi mà ông ấy hứa gởi cho mình; món ấy ngon quá đi mất!”.

Một ông già sáu mươi lăm tuổi sống bằng nghề chăn nuôi cừu và bị biết bao tai hoạ bủa vây không thể nào giữ kín mãi trong lòng những nỗi lo âu của mình được, vả lại, gã hát rong có đôi măt tinh tường kia chẳng khó khăn gì mà không nhận ra nỗi bất hạnh của những người chung quanh mình. Bởi vậy qua ngày hôm sau Sam lại tiếp tục gặng hỏi ông lão Ellison và ông lão đã kể cho anh nghe chuyện ông bị King James đe doạ. Nghe từng lời kể của ông lão, nét mặt Sam hết tái mét lại đỏ bừng lên, đầu óc anh quay cuồng với bao suy nghĩ; King James thì anh đâu còn lạ, anh đã nghe biết bao chuyện về hắn rồi...

Vào ngày thứ ba của thời hạn bảy ngày mà gã hung thần đề ra, ông lão Ellison giong xe vào thành phố Frio để mua thức ăn vật dùng cho trang trại. Gã Bradshaw cự nự nhưng rồi cũng miễn cưỡng chấp nhận gia hạn nợ cho ông lão và tiếp tục bán chịu cho ông phân nửa số hàng ông cần, trong đó có món đùi heo tươi mà gã hát rong ưa thích.

Rời thành phố Frio được khoảng năm dặm đường, ông lão gặp King James đang trên đường đi vào thành phố, cái gã lúc nào cũng hung bạo nhưng hôm nay đôi mắt hắn không nhíu tít lại thành hai vệt ngang như thường lệ.

“Chào ông” - gã nói cộc lốc - ‘Tôi đang muốn gặp ông đây. Hôm qua tôi gặp một thằng chăn bò ở Sandy mới tới, nó nói là ông quê quán ở quận Jackson, bang Mississippi, có đúng vậy không?.

“Tôi sinh ra ở đó”, ông lão Ellison nhã nhặn đáp, “và vẫn ở đó cho tới năm hai mươi mốt tuổi”.

“Cái gã đó còn nói là hình như ông có họ hàng gì với giòng họ Reeves ở quận Jackson, gã nói đúng chứ?" - King James hỏi tới.

“Tôi với cô Caroline Reeves là anh em cùng mẹ khác cha”.

“Bà ấy là thím tôi”, King James nói. - “Tôi trốn khỏi nhà năm tôi mười sáu tuổi... Bây giờ tôi nói lại chuyện mà tôi vừa nói với ông cách đây mấy hôm. Mọi người đều nói tôi là kẻ xấu, họ nói vậy cũng đúng nhưng chỉ đúng phần nào... Trong đồng cỏ của tôi vẫn còn nhiều chỗ cho ông thả cừu... Có lần thím Caroline đã nhồi bột giả làm thịt cừu nướng lên cho tôi ăn... Ông cứ việc thả cừu ở chỗ cũ, hoặc muốn thả ở chỗ nào trong vùng đất của tôi cũng được... Chuyên tiền nong của ông lúc này ra sao?”.

Ông lão chăm chú lắng nghe, không đáp lại.

“Hồi tôi còn đi học, thím Caroline thường dấm dúi bỏ thêm thức ăn vào túi xách cho tôi” - King James nói tiếp - “Hôm nay tôi còn có việc ở thành phố, ngày mai tôi sẽ đến trại của ông; tôi sẽ đến ngân hàng rút hai ngàn đô đem đến cho ông, và tôi sẽ bảo Bradshaw cứ bán chịu cho ông bất cứ thứ gì mà ông cần... Chắc ông có nghe người già ở quê nhà nói là ở quận Jackson, giòng họ Reeves và giòng họ Kings gắn bó với nhau như môi với răng? Đối với bất cứ người nào có liên quan đến giòng họ Reeves, tôi vẫn là một người mang họ King... Ông đừng lo gì cả, khoảng chiều mai tôi sẽ đến thăm ông”.

Ông lão Ellison vui vẻ giong ngựa về trại. Một lần nữa, những nụ cười lại làm những nét nhăn trên mặt ông giãn ra. Bỗng chốc, do phép màu của quan hệ họ hàng và của cái thiện vẫn lẩn khuất đâu đó trong trái tim con người, mọi phiền não trong lòng ông đã được xoá tan.

Về đến trại ông mới biết là Sam không còn ở đó. Chiếc đàn ghi ta của anh vẫn còn treo trên bụi mận gai, mỗi khi gió mạnh thổi tạt qua lại làm nó rung lên những tiếng ngân rền rĩ.

Anh đầu bếp Kiowa cố gắng giải thích: “Sam... nó bắt ngựa, nói là vào thành phố Frio... làm cái gì cũng không biết nữa... Nó nói chắc là tối mới về... Vậy thôi..”.

Gã hát rong về đến khi trên nền trời vừa tỏ những vì sao sớm; anh thả ngựa vào bãi rồi bước vào nhà, tiếng đinh thúc ngựa vang lên mạnh mẽ.

Ngồi trước bàn ăn đặt trong bếp, ông lão Ellison đang ung dung uống tách cà phê trước bữa ăn tối. Thấy Sam, ông reo lên: “Chào Sam, cậu trở lại, lão mừng lắm... Nói nào ngay, trước khi cậu đến làm cho không khí ở đây tươi tỉnh hẳn lên, thật tình lão cũng không biết phải xoay xở ra làm sao với cái trang trại này... Hẳn là cậu vừa vui vẻ với mấy em ở Frio nên mới về trễ vậy, phải không nào?”.

Vừa nói, ông lão Ellison vừa nheo mắt nhìn Sam và bất chợt nhận ra là anh chàng hát rong ấy đã biến thành một con người khác, một con - người - hành - động.

Và trong khi Sam cởi khẩu súng lục của ông lão Ellison ra khỏi thắt lưng - khẩu súng mà ông lão vẫn để ở nhà lúc ông vào thành phố - chúng ta có thể tạm dừng một chút để lưu ý là ở bất cứ ở đâu và vào bất cứ lúc nào, khi người hát rong đặt cây đàn xuống và cầm thanh kiếm lên, thì chắc chắn là sẽ có chuyện phiền toái xuất hiện liền theo. Cái đáng để ta phải sợ không phải là đường gươm lão luyện của Athos, cũng không phải là cái phong thái điềm tĩnh đến dửng dưng của Aramis hay nắm đấm thép cua Porthos mà là cuộc múa may loạn xạ và dữ dội của gã hát rong - cơn cuồng nộ của anh chàng lãng tử xứ Gascogne - thanh gươm của d’Artagnan[8].

“Cháu đã tính xong rồi” - vừa ngồi vào bàn Sam vừa nói - “Cháu đã vào thành phố Frio và đã giải quyết xong chuyện đó rồi; cháu không thể để cho nó ăn hiếp bác được bác Ben à. Cháu đã gặp nó trong quán rượu của Summer; cháu biết phải làm gì mà... Cháu nói nhỏ vào tai nó vài câu không để cho ai khác nghe được; nó rút súng ra -có cả chục người trông thấy nó rút súng trước - nhưng cháu nổ trước, một loạt ba viên chụm cả vào một chỗ trên ngực... Nó chẳng còn quấy rầy bác được nữa đâu..”.

Tách cà phê đưa lên miệng chưa kịp nhấp, ông lão Ellison sững lại: “Cậu... đang nói đến... King... James... đấy à?”.

“Thì nó chứ còn ai vào đây nữa!... Sau đó người ta đưa cháu đến đồn cảnh sát, cả những người thấy nó rút súng trước cũng đi theo... Họ kêu cháu đặt 300 đô-la thế chân chờ ngày ra toà, và đã có ngay bốn, năm người xung phong ký nộp... Nó hết còn quấy nhiễu bác được nữa rồi, bác Ben à... Phải chi bác tận mắt nhìn thấy những lỗ đạn chụm sát vào nhau... Cháu nghĩ là cháu bóp cò cũng chẳng kém gì chơi ghi ta, phải vậy không, bác Ben?”

Trong giây lát, không khí trong phòng lặng ngắt đi, chỉ còn vang lên tiếng nổ lâm râm của miếng thịt nai anh Kiowa đang chiên trên bếp.

Đưa bàn tay run run lùa vào hàm râu bạc, đến cả phút sau ông lão Ellison mới đằng hăng: “Sam này,... hay là... anh chịu khó... cầm đàn lên chơi bài “Bay lên đi hỡi con chim câu nhỏ” một đôi lần... được chứ?... Đang lúc bối rối mà nghe bài này có lẽ lòng mình sẽ dịu lại và sẽ thấy dễ chịu hơn...”.

Còn biết nói gì hơn nữa đâỵ, ngoại trừ cái tựa truyện đặt sai, lẽ ra phải gọi là “Vị lãnh chúa cuối cùng” mới đúng. Đối với giới hát rong thì chẳng bao giờ có cái kết thúc nào cả, và đôi khi tiếng đàn của họ dường như nhấn chìm cả tiếng cuốc đất và tiếng nện búa của tất thảy giới làm công trên trái đất này.

Chú thích:

[1] O. Henry là bút danh của William Sydney Porter (1862-1910), nhà văn Mỹ, sinh trưởng ở Greensboro, bang North Carolina. Năm 1882, ông đến Texas làm việc trong một trang trại chăn nuôi gia súc rồi sau đó làm thu ngân viên ngân hàng. Tháng Hai năm 1896, bị án tù vì tình nghi có liên quan trong một vụ biển thu ngân quỹ, ông đào thoát sang Honduras nhưng rồi được tin vợ bệnh năng, ông lại trở về trình diện, xin hoãn thi hành án để chăm sóc vợ và sau khi vợ chết, năm 1898, ông đến thụ án tại nhà tù Columbus (bang Ohio). Trong tù, ông miệt mài viết văn để kiếm tiền nuôi con ăn học. 39 tháng sau, ông được giải oan và được ra tù; đến năm 1902, ông dời đến New York để tiếp tục theo đuổi nghiệp văn chương và trở nên nổi tiếng với hàng trăm truyện ngắn giàu tính hiện thực và thấm đượm tình người như “The Four Million ”, “Heart of the West”, “The Last Leaf”, “The Gift of the Magi”... Hơn 500 truyện ngắn của ông đã được tập hợp trong bộ “Complete Works of O. Henry" xuất bản năm 1953.

[2] Dante Alighieri (1265-1321), nhà thơ Ý.

[3] Beatrice: Nhân vật trong truyện thơ “The pine Comedy” của Dante.

[4] Edward George Earle Bulwer-Lytton, Nam tước Lytton đệ Nhất (1803-1873), chính khách, nhà thơ, nhà văn Anh, nổi tiếng viết khoẻ, tác giả nhiều bộ sách đồ sộ trong đó có bộ “The Caxtons” (3 quyển) miêu tả xã hội thượng lưu của nước Anh.

[5] Mother Goose: Một nhân vật tưởng tượng được coi là tác giả của những bài hát ru ở Anh và Mỹ; bút danh này bắt nguồn từ hợp tuyển ‘Truyện đời xưa” của Charles Perrault (1628-1703), nhà văn Pháp chuyên viết truyện thiếu nhi.

[6] Mockingbird, loài chim thuộc họ Mimidae, thường hót nhại theo tiếng hót của nhũng loài chim khác và giỏi bắt chước những tiếng động quanh nó.

[7] Một điệu nhạc khiêu vũ nhịp 3/4 hay 6/8 của Tây Ban Nha thường được đệm bằng đàn ghi ta hoặc phách.

[8] Athos, Aramis, Porthos, d’Artagnan: Những nhân vật trong truyện Ba chàng lính ngự lâm của Alexandre Dumas (Cha).

Đánh máy: hoi_ls
Nguồn: hoi_ls
Nguồn: Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 31 tháng 8 năm 2020