HÀ TIÊN LÀ TỈNH XA XUÔI NHỨT của miền Nam thời xưa cũng như thời nay nếu ta lấy Huế hoặc Saigon làm tiêu chuẩn. Khác với vùng sình lầy mũi Cà Mau, Hà Tiên có khung cảnh khá ngoạn mục, trong đất liền là đồi núi trùng điệp, ngoài biển là năm bảy chục hải đảo lớn nhỏ, Hà Tiên còn là nơi ‘‘ba biên giới’’:Việt Nam, Cao Miên và vượt qua eo biển là đến Thái Lan. Mỗi ngọn đồi, mỗi hải đảo đều có một ông Chúa hay bà Chúa thống trị, khi chết, các ông bà này được tôn thờ trong miếu nhỏ, giống như trường hợp mấy ông Thành Hoàng. Lẽ dĩ nhiên các ông bà đều là người phàm mắt thịt, nhờ mưu mô, nhờ tài kinh doanh mà gây được thế lực với đám dân chúng ở xung quanh. Vài ông bà Chúa nếu còn sống đến năm nay chỉ độ non trăm tuổi, bởi vậy thành tích của họ còn được nhắc nhở tỉ mỉ với bao nhiêu tánh tốt và thói xấu.
Chúng tôi xin thuật lại những giai đoạn gay cấn và thơ mộng nhứt của bà chúa hòn Me, một ngọn đồi nhỏ dính vào đất liền sát mé biển phía Bắc chợ Rạch Giá. Trước kia, bà là con gái một nông dân nghèo tên là Tư Thính, có lẽ họ Huỳnh ; Tư Thính cất căn nhà nhỏ ở chân đồi, giữa tư bề rừng rậm. Như đã nói, hòn Me xưa kia là hải đảo, đất phù sa lấn ra biển, nối hòn vào đất liền. Vùng chung quanh hòn quá ẩm thấp chịu ảnh hưởng nước mặn ngoài biển tràn vào nên cây cối mọc xơ rơ. Hằng năm, Tư Thính cày chừng một mẫu ruộng, kiếm chút ít lúa gạo đủ ăn trong gia đình.
Buổi chiều đầu mùa mưa, cảnh vật buồn bã làm sao! Ếch nhái kêu vang bên chòi, trong bóng tối chập chờn, xa lắm qua rặng cây tràm mới thấy vài ánh đèn. Ở trên hòn là đói, khó cày cấy trồng tỉa. Bởi vậy Tư Thính đến tận vùng sình lầy mà chịu đựng muỗi mòng.
– Ngày mai, cho con ra ruộng nghe ba!
Tư Thính day lại. Đứa con gái vừa lên tám tuổi bưng chén cơm đến gần. Chú vuốt tóc con, bùi ngùi thương xót. Mẹ nó mất hồi năm ngoái. Ngày nào cũng, vậy, trước khi ra ruộng, chú bới sẵn chén cơm, gắp khứa cá để trong cái dĩa nhỏ. Khi thức dậy, đứa con ăn cơm một mình rồi ra ngồi ở góc sân, trông ra ruộng. Chú từ chối khéo léo:
– Con ở nhà, ra ruộng nắng lắm.
Nhưng bé Huôi vịn vai chú, nói thật nhanh:
– Ngoài ruộng có cây thị, bóng mát.
Nghe qua, chú Tư Thính giựt mình. Đành rằng đến tám chín tuổi thì đứa bé có chút ít trí khôn, ghi nhớ những gì mà người lớn thường nói nhiều lần. Tại sao bé Huôi biết ở ngoài ruộng có một cây thị, cây ấy to lắm, ở xa nhà, bé Huôi chưa ra tới đó lần nào? Hồi năm ngoái trái thị sai quằn, chú với tay hái năm sáu trái đem về nhà cho bé Huôi, trái thị mầu vàng da láng tỏa ra mùi thơm kỳ diệu mà nhiều người cho rằng có thể quyến rủ ma quỉ hoặc thần thánh.
Chú Tư Thính hơi e ngại:
– Mùa nầy thị chưa có trái. Ra đó, làm sao con ngủ trưa?
Bé Huôi nói rành rọt như người lớn.
– Con đội nón, ngồi dựa vô gốc cây.
Vì không muốn quở mắng vô lý đứa con thân yêu, Tư Thính tìm cách từ chối:
– Bữa nào rảnh, ba cho con ra ruộng. Ngoài đó muỗi mòng, đủ thứ kiến lửa, kiến vàng. Lâu lâu, vài con rắn bò ra…
Bé Huôi cười dòn:
– Con đâu sợ rắn. Ba hứa lâu rồi. Ngày mai, con ra ruộng mới được. Ba không bồng con thì con đi một mình.
Gương mặt bé Huôi lúc bấy giờ trông thật dễ thương, mà cũng dễ sợ. Mắt nó sáng lên, hai tròng mắt đen lánh, hàm răng đều đặn, chói màu trắng ngà.
Tư Thính ngỡ rằng người khuất mặt đã thúc giục bé Huôi nói những câu quá khôn ngoan, dành riêng cho mấy đứa bé ít lắm là mười bốn, mười lăm tuổi. Chú đốt đèn lên. Bé Huôi nghiêm nét mặt, đôi môi ửng đỏ như tô son. Chú Tư Thính nhìn kỹ đứa con gái rồi tự trấn an: “Lớn lên, nó xinh đẹp nhứt làng nầy. Con nít khôn trước tuổi là sự thường”.
Bé Huôi ngáp dài:
– Con muốn đi ngủ, sáng mai con ra ngoài gốc cây thị để coi ba cày ruộng. Ngoài đó vui lắm.
Hôm sau, Tư Thính cố ý thức thật trể. Chú vác cày trên vai, cho đôi trâu đi trước, bé Huôi lững thững theo sau, đến gốc cây thị, nó ngồi xuống. Mặt trời lên cao, chưa chi, chú đã đổ mồ hôi lưng, bao nhiêu ý nghĩ đen tối hồi chiều hôm qua đều tan biến. Chú được yên tâm vì bé Huôi đã dựa lưng vào gốc cây thị. Nó nằm yên, như đã ngủ. Đôi trâu đi tới rồi đi lui, được ba rồi đến bốn, năm, sáu, bảy luống cày.
Trong khi đó, từ dưới hang sâu bên gốc cây thị, một con rắn hổ to tướng bò lên. Rắn quấn mình chung quanh bụng bé Huôi, quấn một vòng, hai vòng, ba vòng rồi đến bốn vòng. Sau rốt, rắn ngẫng cổ lên, cao khỏi đầu bé Huôi.
Rắn quơ đầu, hất mạnh cái nón lá trên đầu con bé rồi nghiêng cổ tới, im lìm.
Đột nhiên Tư Thính giựt mình. Đôi trâu đứng lại, không chịu bước tới. Chú quơ roi quất mạnh:
– Xe! Pháo!
Hai con trâu Xe và Pháo rống lên quậy chân sau xuống bùn. Cả hai day mặt về phía Tư Thính, mắt trợn tròn như giận dữ. Tư Thính hỏi:
– Điên rồi sao chớ? Cái gì?
Nhưng đôi trâu dường như nhìn xéo về gốc cây thị. Tư Thính chợt nhớ tới bé Huôi. Chú trố mắt:
– Trời ơi! Rắn quấn con tôi!
Rồi bỏ đôi trâu, chú cố gắng chạy đến gò đất. Chú lê lết như có sức mạnh nào níu đôi chân trở lại. Bé Huôi vẫn ngồi yên, con rắn hổ quá to, nào kém gì con trăn. Kỳ dị nhứt là cái đầu rắn, cái đầu vươn lên nghiêng tới như cố ý che nắng cho bé Huôi. Vì sợ con rắn nọ siết chặt khiến bé Huôi nghẹt thở hoặc gãy xương ngực, chú đành liều bước đến gần với dụng ý xua đuổi con rắn, nếu cần, chú sẵn sàng chịu chết thay con.
Con rắn nọ day mỏ về phía Tư Thính. Dưới ánh nắng tỏ rõ buổi trưa, chú thấy nó trợn mắt, mớ vảy lấp lánh như hàng trăm miếng kiếng màu xanh đậm.
Nó hạ cái đầu xuống rồi từ từ tháo ra. Trong lúc ấy, Bé Huôi vẫn ngồi xếp bằng, xuôi tay. Khi rắn tháo mình đến vòng chót, Tư Thính chẳng còn kiên nhẫn được nữa. Chú la lớn:
– Con ơi, chạy cho mau!
Nhưng Tư Thính không đủ can đảm và không còn đường nào để chạy. Nhanh như cơn gió lốc, con rắn to tướng nó phóng ngang mặt chú, như để chận đường. Chú té quị xuống bùn rồi lồm cồm đứng dậy, vuốt mặt. Bé Huôi từ từ cựa quậy:
– Ba! Sao ba té?
Chú mừng quýnh vì đứa con thân yêu vẫn mạnh khỏe và tỉnh táo. Để vững bụng hơn, chú hỏi đôi ba lượt:
– Con! Biết ba đây là ai không?
Tay chú véo mạnh vào lưng bé Huôi, miệng nói lia lia:
– Con có đau không? Con thức hay ngủ?
Bé từ từ đứng dậy, đôi môi đỏ thắm hé nụ cười:
– Ba nói, con tức cười quá…
Nhưng Tư Thính cứ tiếp tục mở nút áo đứa con gái, xem kỹ làn da. Bấy lâu chú nghe đồn đãi rằng rắn hổ có hơi độc từ trong miệng phun ra.
Bé Huôi nói:
– Đói bụng rồi, về nhà ba nấu cơm cho con ăn nghe ba.
Lập lức chú cõng đứa bé sau lưng, bước nhanh về căn chòi, hai con trâu rống lên, kéo mạnh cái cày vô chủ.
Mâm cơm dọn ra, chú ăn sơ sài vài miếng rồi tháo ách cho đôi trâu vào chuồng. Con rắn to tướng ấy là điềm lạ, chưa biết lành dữ thế nào. Chú muốn gặp ông đạo Đất ở trong cốc phía Đông hòn Me để nhờ giải đáp.
Bé Huôi lại đòi ngủ. Chú khuyên lơn:
– Con đi xóm với ba, nghe con?
– Con muốn ở nhà.
– Rủi con rắn tới đây thì ai cứu con? Ba cõng trên vai, con cứ ngủ. Phải con ở nhà thì nãy giờ ba cày xong công ruộng rồi. Từ rày về sau, con đừng đòi ra gốc cây thị nữa.
Bé Huôi trả lời:
– Hồi nãy đâu phải con rắn!
Cốc của ông đạo Đất hiện ra. Đó là cái chòi nhỏ bé lợp bằng tranh. Theo chữ nho, cốc là hang đá. Vùng Hòn Me thiếu những hang đá thiên nhiên. Đá xanh mọc nhô ra từng tảng lớn chỉ vừa cho đôi người ngồi núp mưa nắng mà thôi. Mùa mưa đến, nước chảy tuôn tràn, thỉnh thoảng mấy tảng đá sụp xuống, mang theo mấy giề đất sỏi. Mấy ông lên non tầm đạo vì không tìm được cái hang thiên tạo nên cất tạm căn chòi nhỏ bằng cây. Gọi cốc cho có vẻ huyền bí của một đạo sĩ tu tiên.
Ông đạo Đất gây được khá nhiều uy tín nhờ tài trị bịnh. Bất cứ bịnh nhân nào đến, ông cũng hốt cho một mớ đất để làm thuốc: bỏ cục đất trong một cái túi nhỏ, đeo dưới ngực để trị bịnh tà ma, đem cục đất nướng cho dòn rồi tán nhỏ, uống với nước nóng để trị bịnh ăn uống khó tiêu, đau bao tử. Gặp trường hợp trặc chân gãy tay, ông đạo vẫn dùng đất sét mà bó rịt vết thương.
Tư Thính giữ thái độ im lặng kính cẩn khi đến cốc. Ông đạo nằm dài trên nền đất, không trải chiếu đắp mền gì cả. Khi Tư Thính lên tiếng:
– Kinh chào thầy….
Ông đạo vẫn lim dim, hồi lâu mới chịu gật đầu. Bé Huôi nói khá to, phá rối sư yên tĩnh:
– Ở đây buồn quá, ba ơi! Con muốn về nhà.
Ông đạo Đất lồm cồm ngồi dậy, nhìn bé Huôi. Tư Thính bèn lên tiếng như để biện hộ cho đứa con:
– Nó còn nhỏ, thầy tha thứ cho. Mấy ngày rày nó nói bậy bạ, lại xảy ra vài điều lạ. Bởi vậy tôi tới đây nhờ thầy giúp giùm.
Sau khi sờ tay lên trán bé Huôi, ông Đạo nói:
– Cháu nó vui chơi nhưng mà cặp mắt hơi khác thường.
Không đợi Tư Thính trả lời, ông Đạo nói giọng bí mật:
– Chắc là vừa xẩy ra chuyện gì xúc phạm tới…đất!
‘‘ Xúc phạm tới đất’’ là lời nói mà ông Đạo thốt ra trước tiên, khi gặp bất cứ bệnh nhân nào. Vì quá tin tưởng nên ai nấy đều nhìn nhận rằng ông nói đúng: đau bụng, trúng thực đều do sự ăn uống, thức ăn vẫn là cơm gạo, thịt cá, những món từ đất mọc lên, hoặc đứng trên đất, cảm mạo là do hơi đất ẩm ướt gây ra…
Tư Thính nói:
– Thầy ở trong cốc mà nói chuyện ngoài đời quá đúng. Vậy thì điềm lúc nãy tốt hay xấu đối với gia đình tôi? Con gái tôi sau nầy ra sao?
– Điềm gì? Cứ nói đầu đuôi tự sự. Tôi thấy nó… ngồi trên đất, thiệt là lạ lùng, chú nói trước, tôi nói sau.
– Dạ, nó ngồi trên mô đất cao, ỏ gốc cây thị ngoài ruộng. Tôi lo cày nên không chú ý, dè đâu…
Thế là Tư Thính thuật lại tất cả chi tiết với sự tưởng tượng khá dồi dào của chú. Chú cho rằng con rắn nọ to bằng cây cột nhà, vảy lấp lánh ngũ sắc, khi biến mất thì gió thổi rung chuyển mấy gốc cây cổ thụ. Lúc rắn quấn vào bé Huôi, gió như ngừng thổi, chim trên trời như ngừng bay và hai con trâu như chết đứng trên mặt đất.
Ông đạo Đất chắp tay xá bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc rồi nói:
– Mô Phật! Cháu bé ngồi trên đất gặp con rắn hổ đất. Tất cả đều là đất. Nhưng con rắn hổ đất to lớn ấy là thuộc vào loại phi thường, tên nó là gì chú biết không?
Tư Thính chắp tay thưa:
– Dạ… chắc là mãng xà vương!
Ông đạo lắc đầu:
– Đó là con rồng đất! Trên mặt đất nầy nó là vua. Vua của đất phù hộ, chầu chực cháu bé chẳng khác nào con rồng vàng chầu chực ông vua ở chốn đế đô. Rồng đất là vua của đất. Rồng đến tìm cháu bé, đó là điềm mai sau có ông vua ông chúa nào đó đến ra mắt. Rồng quấn chung quanh cháu bé để che chở phò hộ, đó là sau nầy cháu bé trở thành một bà hoàng, bà chúa. Chú nên vui mừng đi, ráng chịu cực chừng năm bảy năm nữa.
Tư Thính chắp tay lạy ông đạo Đất:
– Thiệt vậy hả ông? Trời Phật giúp tôi, làm sao tôi tạ ơn? Dè đâu con tôi tốt phước như vậy? Ông vua nào, ông chúa nào tới đây cưới con tôi?
– Ông chúa hòn hoặc ông chúa đảo, hoặc ông chúa tàu, tàu buôn Hải Nam. Tôi chưa biết rõ. Mai chiều, chú đưa cháu bé trở lại.
Nghĩ một lát, ông đạo hỏi:
– Cháu tên gì, năm nay mấy tuổi?
Bé Huôi cất tiếng sỗ sàng:
– Tên Huôi. Hỏi bao nhiêu tuổi để làm gì? Bộ tôi ngu dại phải không? Nãy giờ, tôi đâu làm điều gì sai quấy với thầy.
Ông đạo càng tin tưởng nơi tài đoán điềm giải mộng của mình. Lập tức ông khều Tư Thính ra sân mà nói khẽ:
– Thấy chưa? Nó là đứa khôn trước tuổi, ăn nói lanh lợi đâu thua gì người hai ba chục tuổi. Chú nên nuôi dưỡng tử tế. Nó có trí khôn, có nhan sắc. Tôi xem không lầm đâu. Năm bảy chục năm, con Rồng đất mới xuất hiện một lần. Rồng đất mà phò hộ che nắng che mưa cho con Huôi thì phải biết.
Tư Thính chắp tay xá ông đạo;
– Cám ơn ông, về sau nầy nếu may ra con tôi nên danh nên phận thì tôi chẳng bao giờ dám quên ơn lớn.
– Kìa!
Ngón tay ông đạo Đất chỉ ra ngoài sân. Lần nầy chú Tư Thính không khỏi kinh ngạc vì bé Huôi đứng xớ rớ bên bụi cây quỳnh hoa. Nó nâng niu từng lá dài rồi đột nhiên nói to:
– Cây gì mà trồng hoài không trổ bông?
Ông đạo giải thích:
– Cháu ơi! Nhiều khi đôi ba năm nó mới trổ một lần.
– Ông cho cháu vài lá, đem về trồng vài tháng thì nó trổ hàng chục cái bông cho ông coi.
Để chiều theo ý bé Huôi và để biết thêm về tương lai của đứa con gái kỳ lạ nọ, ông đạo Đất hái một lá dài trao cho Tư Thính.
Hai cha con lững thững về nhà theo con đường mòn sình lầy. Tư Thính nghe tim đập mạnh trong lồng ngực. Chú muốn kêu to:
– Con tôi trở thành bà chúa! Thiệt vậy sao? Trời đất xui khiến hay ma quỷ xúi giục? Nhiều đứa bé khôn ngoan nhưng chết yểu hoặc là trở thành điên khùng, lên đồng lên bóng.
Chú nắm tay con. Căn chòi hiện ra. Trong phút giây chú ngỡ là cung vàng điện ngọc. Chắc còn nhiều năm nữa bé Huôi mới trở thành bà chúa. Chừng đó chú già nua rồi. Chú chỉ muốn có căn nhà cao ráo để dưỡng già…
Hòn Chông là dẫy đồi thấp, sát mé biển vịnh Xiêm La. Dân chúng sống bằng nghề chài lưới ở mé biển nhưng nguồn lợi to nhứt vẫn là nghề trồng tiêu (hồ tiêu). Với mười lăm hay hai chục dây chăm bón kỹ lưỡng là một gia đình sống dễ dàng. Bao nhiêu đất tốt để trồng tiêu đều thuộc về ông Thần Phước cai quản, vì là người Triều Châu lai Cao Miên rồi lai Việt Nam nên tên ông được đọc là Xìn Phóc.
Mấy người kỳ lão ở địa phương, nhứt là người tá điền, đều kiêng nể, gọi ông là ông Chúa Hòn, ông vua nho nhỏ giàu có và sang trọng nhứt của vùng Hòn Chông. Với số vốn tích trữ từ mấy đời trước, ông thuê nhân công để khai thác mấy ngọn đồi ở vùng kế cận: núi Còm, núi Mo So.
Khi bán hồ tiêu cho bọn thương gia Mã Lai, ông chỉ lấy vàng, không dùng hình thức tiền bạc nào khác. Bọn gia nhân đồn đãi ông dùng số vàng ấy để trấn ếm một vài “linh huyệt” trên Hòn Chông, nơi có phủ thờ của tiên nhân – một người từ Triều Châu qua lập nghiệp ở Hà Tiên, theo chân họ Mạc vào thế kỷ thứ XVIII.
Năm được 86 tuổi, ông Thần Phước giao cho đứa con trai đầu lòng là cậu Hai Minh cai quản tài sản. Cậu Hai chưa được bốn mươi tuổi nhưng đã có một vợ chánh và hàng chục tì thiếp. Ở vùng hẻo lánh, thú vui duy nhất của cậu Hai vẫn là uống rượu và tìm gái đẹp. Vợ chánh sanh đứa con trai duy nhất là cậu Hai Điền. Ăn ở với khá đông tì thiếp từ mười năm qua, cậu Hai Minh không hài lòng cho lắm, vì chẳng nàng nào sanh được con trai.
Một buổi chiều, cậu Hai Minh ra lịnh cho gia nhân:
– Đưa tao qua núi Mo So.
Bọn gia nhân dạ rân lên, đem chiếu bông trải xuống chiếc ghe mui vuông sơn son thếp vàng. Bấy giờ là mùa hạn, sông rạch đều cạn ráo. Bọn gia nhân buộc bốn sợi dây luộc trước mũi và sau lái ghe, mỗi sợi dây chắc chắn ấy nối liền vào một con trâu đực to tướng, gọi là trâu cổ.
Đáy sông quá cạn phơi lớp bùn sình. Ấy thế, mà chiếc ghe vẫn lướt nhanh. Bốn đứa bé mặc áo xanh cỡi trên lưng trâu, quất roi thật mạnh.
Cậu Hai Minh nằm dài, dựa tay vào cái gối thêu:
– Chừng nầy, ở núi Mo So…mình làm cái gì cho vui?
Hai Ú trả lời:
– Dạ, chừng nầy con gái trong xóm tới bờ mới gánh nước và tắm…
– Hay quá!
Vừa cười, cậu Hai vừa vỗ tay lia lịa. Lát sau, cậu gật đầu nhòm Hai Ú:
– Mầy giỏi quá. Mầy chưa dở lần nào hết. Lát nữa tao tới đó bất ngờ. Mầy làm thế nào cho mấy cô gái cứ gánh nước tự nhiên, đừng chào đón.
– Thưa cậu, vậy thì tôi phải đi trước mới được.
– Họ biết trước thì mất vui. Phải tình cờ mới vui.
Hai Ú chắp tay thưa:
– Dạ, đón rước long trọng là chuyện dễ, đón rước tự nhiên là chuyện khó, cần sắp đặt trước. Không khéo mấy cô gái e lệ rồi hoảng chạy thì sao? Cậu cứ tin lời tôi.
Lập tức, Hai Ú đến trước mũi ghe, nhảy lên bờ rất nhẹ nhàng. Anh ta giành lấy một con trâu cổ, cởi sợi dây ra rồi quất mạnh cho trâu chạy nhanh đến núi Mo So. Vì chỉ có ba con trâu kéo nên chiếc ghe tiến chậm. Cậu Hai khen ngợi:
– Thằng Ú giỏi quá, nó biết lo trước lo sau. À! Cái gì mà chộn rộn ở chân núi?
Bọn gia nhân phía sau reo lên:
– Cậu Hai ơi, họ đốt đuốc…
Xóm nhỏ ở chân núi Mo So hiện ra, náo nhiệt như buổi chợ phiên. Khi đến chân núi, cậu Hai Minh gặp ngay Hai Ú. Anh ta cầm bó đuốc đứng sẵn:
– Thưa cậu, mời cậu đến bờ suối…
– Ủa! Tại sao xóm giềng im lặng quá vậy?
– Dạ, tôi ra lịnh cho ai nấy đóng cửa lại ngủ sớm để một mình cậu tới bờ suối, mặc tình nói chuyện với các cô. Tôi đã khuyên các cô cứ gánh nước tự nhiên. Các cô cười giỡn kìa! Cậu nghe không?
Trong phút giây, cậu Hai ngỡ mình sống trong khung cảnh thần tiên nơi thượng giới. Ánh đuốc rọi chập chờn vào vách đá hai bên con đường dốc.
Đêm mười bốn, trăng khá sáng tỏ.
Lúc cao hứng, cậu Hai Minh ra lịnh:
– Hai Ú cứ đi trước, thật xa. Tao đi dưới bóng trăng vui hơn. Cần gì qua bên Tàu mới hưởng được vui thú.
Nhưng Hai Ú như còn ngập ngừng. Anh ta khoát tay đôi ba lần như làm dấu hiệu riêng với người phía sau. Cậu Hai Minh chẳng mảy may chú ý đến chi tiết đó, cứ hỏi đồn dập:
– Tới chưa? Chà! Mấy cô cười nghe dòn quá. Còn ở phía sau, ai mà đông dữ vậy?
Hai Ú đáp:
– Cậu coi thử! Đó là mấy người khiêng rượu cho cậu uống.
– Thằng nầy giỏi thiệt.
Thật ra Hai Ú đã dàn cảnh khéo léo từ lúc nãy với Mười Hấu – người có khá nhiều quyền thế ở vùng núi Mo So. Mười Hấu rất tinh thông võ nghệ, con gái ông ta thuộc vào hàng đẹp nhứt trong vùng. Khi gặp Mười Hấu, Hai Ú đưa ra ý kiến:
– Ông Mười muốn làm giàu không? Đây là dịp may hiếm có. Cậu Hai Minh tới để tìm gái đẹp. Nếu ông Mười vui lòng, làm thế nào cho cậu Hai được thỏa mãn thì…
Mười Hấu nhớ đến đứa con gái tên là Ngó:
– Con gái tôi chắc hạp nhãn với cậu Hai Minh.
Hai Ú đáp:
– Cậu Hai chỉ thích như vậy thôi! Ông Xìn Phóc già khú rồi. Bây giờ, cậu Hai Minh là ông Chúa Hòn chớ còn ai đâu xa lạ.
Ngọn suối ở núi Mo So quá nhỏ hẹp. So với vùng cao nguvên thì đó là nơi dơ bẩn kém thơ mộng, nhưng ở chốn sình lầy nước mặn đồng chua thì quả là mạch nước tiên ngọt ngào và tinh khiết. Hai Ú dừng lại báo tin trước:
– Mấy cô nên vui vẻ… bởi vì cậu Hai thương mấy cô, chịu khó lặn lội tới đây. Cậu tới kìa. Đừng làm cho cậu giận. Ngày mai các cô sẽ được ban thưởng, mỗi cô ít nhất được một lượng vàng. Đó là chưa nói sau nầy hễ túng thiếu tiền bạc thì các cô tới gặp tôi, tôi nói giùm một tiếng với cậu Hai là xong.
Câu Hai Minh cười dòn:
– A ha ha! Đêm nay là đêm vui sướng nhất của đời tôi! Mấy cô cứ tự nhién, đẹp quá. Hai Ú đâu rồi? Đốt thêm vài ngọn đuốc.
Mười Hấu và đứa gia nhân để cần xé đựng hàng chục hũ rượu trên tảng đá rồi nói nhanh:
– Thưa cậu, tôi có đuốc…
Cậu Hai vỗ vai Mười Hấu:
– Chú ở đâu? Tôi nhớ gặp mặt vài lần rồi. Đuốc ở đâu? Đốt lên.
Ba ngọn đuốc cháy chập chờn. Trong đám thôn nữ rõ ràng cô Ngó là hoa khôi.
Nàng mặc áo ngắn tay, đứng bỡ ngỡ trong dòng suối, nước ngập lên tận gối. Ánh sáng chói chang làm nàng giựt mình:
– Ai làm chi vậy? Chỗ này… của người ta gánh nước.
Mười Hấu hơi e ngại, nói khéo cho con nghe:
– Ngó ơi! Cậu Hai tới thăm là vinh hạnh cho con. Con cứ vui cười.
Cậu Hai Minh hơi xúc động. Mấy tháng qua, cậu chỉ lân la với mấy nàng hầu thiếp ở trong phòng kín đáo, toàn là những cô gái ăn mặc sạch sẽ và ốm yếu mảnh khảnh. Cô Ngó đúng là một pho tượng, căng đầy nhựa sống. Cậu Hai cầm ngọn đuốc, đến gần. Cô lính quýnh, bước ra giữa dòng. Cậu vói tới, nắm tay cô mà kéo lại:
– Lên bờ cho vui. Tôi đã nói là cứ tự nhiên. Tôi tới đây để tìm cái… tự nhiên mà.
Cô Ngó mỉm cười, để lộ hai hàm răng đều đặn:
– Dạ, mắc cỡ lắm, cậu Hai! Mình mẩy ướt mem như vầy khó coi quá, thành ra vô lễ với cậu.
Hai Ú nói:
– Cô Ngó cứ lên bờ, ngồi bên tảng đá để nghe cậu Hai dạy việc.
Cậu Hai dìu người đẹp lên bờ, Mười Hấu bèn đem bầu rượu trao tận tay:
– Xin mời cậu…
– Ngon lắm! Ngon Iắm. Tôi uống rượu một mình coi sao được? Xưa nay vua đâu uống ruợu một mình. Vua uống thì các quan đại thần và hoàng hậu đều uống. Đem rượu ra, uống không hết thì đổ bỏ xuống dòng suối tiên nầy.
Hai ba cô gái gánh nước đứng gần cô Ngó cũng hưởng được chút ân huệ, nhưng làm sao các cô nuốt được thứ rượu đế quá cay, quá nồng! Hai Ú nhắc nhở từng chập:
– Cứ uống. Uống không nổi thì cứ làm bộ đưa lên môi.
Bầu rượu được cậu Hai đưa sát môi cô Ngó. Cô nhăn mặt liếc qua Mười Hấu như để hỏi ý kiến. Mười Hấu nói:
– Uống đi con. Cậu Hai đoái tưởng tới con đó.
Cậu Hai lim dim đôi mắt, một tay vuốt mái tóc người đẹp, một tay nghiêng bầu rượu. Rượu đổ tràn xuống ngực người đẹp. Cậu đưa tay ra phía sau:
– Rượu nữa! Rượu nữa! Cô tên gì? Uống rượu không được thì chắc là tắm bằng rượu được…
Cô Ngó ôm ngực van nài:
– Lạnh lắm… Cho tôi về.
– Tôi cho cô về… chiếc ghe của tôi. Hai Ú đâu rồi? Sửa soạn về. Nãy giờ tao cũng hơi lạnh. Muỗi cắn quá. Xứ nầy nhiều muỗi. Bây giờ cô Ngó cầm đuốc dẫn đường cho tôi xuống bến.
Hai Ú đi sát bên cô Ngó mà nói khẽ:
– Nên hầu hạ khéo léo cho cậu Hai vui. Tài sản của ông Chúa Hòn để lại cho cậu Hai, nghĩa là để cho cô. Cậu Hai nhiều khi khờ dại, cô nên hy sinh để cho cha mẹ và chòm xóm được nhờ.
Dân chúng hai bên đường ngồi nép mình bên cánh cửa mà trông ra. Họ vừa mừng vừa sợ. Nếu cô Ngó được cậu Hai đem về Hòn Chông làm tì thiếp thì cha cô là Mười Hấu trở nên hách dịch, ai chịu cho nổi.
Cô Ngó vào nhà, thay quần áo mới, trong khi cậu Hai Minh nằm trên ghe, thúc hối từng chập:
– Trốn rồi sao chớ! Muỗi cắn chết. Tụi bây lo cho tao chớ.Tao hơi mệt rồi đó. Đắp mền cho tao. Con nhỏ đó sao chưa xuống đây quạt muỗi cho tao!
Lát sau, chiếc ghe hầu trở về Hòn Chông, bốn con trâu kéo hì hục. Tội nghiệp cho mấy thằng bé cỡi trâu. Chúng nó ngủ gục từng chập, bị Hai Ú chửi rủa không ngớt mồm.
Cô Ngó ngồi bên gối của cậu Hai, cầm cây quạt lông mà phe phẩy, cậu Hai khen ngợi từng chập:
– Giỏi quá, khỏe quá! Quạt mạnh tay cho muỗi bay bớt thì ta mới ngủ được. Về Hòn Chông ít muỗi mòng hơn. Mỗi ngày, cô em cứ ở không mà quạt cho ta ngủ, khỏi gánh nước.
Cậu Hai Minh đến Hòn Chông vào lúc hừng sáng. Hai Ú cõng cậu lên nhà. Cô Ngó hơi sợ vì lần đầu tiên trong đời, cô bước vào căn nhà sang trọng, đúng ra là ba bốn căn nhà cất chung trong vòng rào kiên cố.
Năm sau cô Ngó hạ sanh một đứa con trai. Mấy nàng tì thiếp khác lấy làm bất mãn và ganh tị. Bà chánh thất lo ngại hơn ai cả, vì đứa bé nọ có thể tranh giành gia tài và ngôi vị với đứa con của bà. Bà đến gặp cậu Hai để cằn nhằn:
– Ông làm như vầy còn gì thể diện!
Cậu Hai đáp:
– Tôi là… ông Chúa Hòn. Ba tôi đã trao quyền hạn cho tôi. Hằng ngày, nếu không đùa giỡn thì tôi làm gì bây giờ? Tôi thích đi đó đi đây, lâu lâu uống rượu say một lần.
Bà chánh thất nói khẽ:
– Con Ngó là đứa mà tôi không ưa. Nó làm mất thể diện dòng họ.
– Trời ơi! Bà đừng vu cáo mà tội nghiệp nó. Nó là gái quê, là tì thiếp, hằng đêm cầm quạt đuổi muỗi cho tôi ngủ. Nhờ nó mà bà được rảnh rang, vả lại, hễ gặp bà là nó chắp tay xá…
– Nó sanh đứa con trai. Nó là con của thằng Mười Hấu quê mùa dốt nát ở núi Mo So. Mười Hấu trở thành… cha vợ của ông Chúa Hòn, thiên hạ đàm tiếu nhiều lắm rồi.
Cậu Hai bị chạm tự ái nên quát to:
– Bà đừng nói vậy. Muốn tôi đuổi con Ngó sao? Tôi chưa đuổi nó được trong năm nay, nhưng tôi hứa là vài năm nữa nó không còn ở nhà nầy.
– Nhưng thằng con của con Ngó! Nay mai nó tranh quyền hạn với con tôi thì sao? Ông nên suy nghĩ lại…
Câu nói ấy khiến cậu Hai Minh bâng khuâng. Lập tức, ông vào phòng riêng nằm dài, vỗ trán cho bớt nhức đầu. Nãy giờ, cô Ngó đã nghe ngóng được câu chuyện. Chờ khi cậu Hai ngồi dậy uống chén trà, cô mới than thở;
– Tội nghiệp em, nếu ở đây hoài, chắc có ngày em chết vì bà lớn. Tốt hơn, ông cho em bồng con về núi Mo So để rồi xin vô chùa, đi tu.
– Đâu được!
Đôi mắt đen huyền và làn da trắng mịn của cô Ngó khiến cậu Hai ngây ngất. Cậu vuốt ve cô nhưng cô ngồi lui ra, cầm cây quạt mà phe phẩy, cánh tay với tới. Những cảnh ghen tương giận hờn và tranh chấp quyền lợi đã xảy ra quá nhiều lần, nào riêng gì trong năm nay. Tin rằng thời gian trôi qua thì mọi việc đều tự dàn xếp êm thấm, cậu Hai uống thêm vài chén rượu rồi ngủ khò. Cô Ngó ngưng tay, không quạt nữa. Đến trưa, khi cậu mở mắt thức dậy thì cô lanh tay cầm cây quạt đứng thẳng người phía sau lưng. Đột nhiên cô buông tay. Cây quạt rơi xuống nền gạch, cán bằng ngà gây tiếng động vừa khô khan, vừa tức tối.
Cậu day lại.
Cô Ngó giả vờ như giựt mình, vội cúi mình lượm cây quạt đem lên, xem kỹ rồi run rẩy đến quì bên cạnh cậu Hai:
– Ông tha cho tôi. Cán quạt nứt bể rồi. Cây quạt nầy quý giá lắm.
Nói xong, nàng ngả người, quơ tay lên trời, kêu lên ú ớ mấy tiếng rồi nằm dài trên gạch. Cậu Hai đứng dậy quì bên cạnh đỡ nàng lên:
– Em! Sao vậy? Tôi ở đây thì em cứ ở đây. Tôi chưa nói điều gì mất lòng em mà. Làm vậy tôi buồn…
Cô mở mắt ra, nói khẽ:
– Em chưa đủ sức để hầu hạ ông, ông nên tìm người khác. Em đâu dám hờn giận ai. Chẳng qua là em thức quá nhiều. Nãy giờ, em đứng mà quạt không nghỉ tay. Mấy ngón tay tê cóng, phần thì hồi sáng đến giờ em chưa rảnh để ăn món gì ráo…
Lần đầu tiên trong đời, cậu Hai để rơi hai giọt nước mắt. Suốt đêm rồi, Ngó ngồi ngoài mùng mà quạt cho cậu được mát mẻ, đến canh ba, khi giật mình thức dậy, cậu vẫn thấy cô ngồi lì một chỗ, bảo đi ngủ thì cô trả lời rằng còn đủ sức quạt hầu. Rồi đến trưa nay, cô Ngó lại đứng quạt. Đúng là một cực hình mà cô chịu đựng không một lời than thở.
Cậu Hai nói:
– Mệt thì em lên giường tôi.
Cô Ngó lắc đầu:
– Em đâu dám. Rủị bà chánh thất bắt gặp, chắc em bị giết…
– Tôi gọi đứa khác vô đây để em nghỉ tay. Từ rày về sau, em khỏi làm công việc cực nhọc nầy.
– Thôi, cho em về mà nuôi con. Nó là con trai, em thương nó lắm.
Hai tiếng ‘‘con trai’’ khiến cậu Hai thêm kiêu hãnh. Đây là đứa con trai thứ nhì của cậu, phải nuôi nó bằng được để dự phòng trường hợp đứa con trai của bà vợ lớn chết thình lình. Cậu đáp:
– Em ở đây. Người chánh thất giận vì em có con trai, tôi biết. Bây giờ, em tìm cách gởi đứa con đó đi xa, đặt tên xấu xí. Hễ mang tên xấu thì làm sao nó trở về đây chia gia tài được?
Thế là hôm sau, mọi sự thắc mắc trong gia đình cậu Hai Minh đều được giải quyết êm ái. Đứa con mới sanh phải mang tên là thằng Cẩu – nghĩa là con chó. Mười Hấu được mời đến Hòn Chông để lãnh đứa cháu ngoại đem về, nuôi tại núi Mo So. Cậu Hai ban cho Mười Hấu mười lượng vàng. Cô Ngó bị đày xuống nhà bếp, lo cơm nước cho cậu Hai.
Mười lăm năm trôi qua.
Ông Thân Phước từ trần. Cậu Hai Minh trở thành ông Chúa Hòn. Mấy năm liên tiếp, vườn tiêu ở Hòn Chông được mùa, cậu Hai ăn xài như nước. Bọn thương gia ở Xiêm, ở Mã Lai ra vào tấp nập. Dân chúng không gọi cậu là cậu Hai nữa. Cậu mặc áo gấm, chiếc áo truyền tử lưu tôn từ mấy đời.
Tất cả tiền bạc, sổ sách chi thu của cậu Hai đều do ông Bá Vạn nắm giữ. Ông nầy là người Triều Châu lai Việt Nam, tuổi hơn 60. Hằng ngày ông Bá Vạn tiếp xúc với bọn thương gia và bọn tá điền mướn đất trồng tiêu. Khi cần dùng tiền bạc, cậu Hai nói một tiếng là ông xuất ra.
Sự tín nhiệm to lớn ấy sở dĩ có là do lòng ngay thẳng của chính ông Bá Vạn. Lúc hấp hối, ông Thần Phước gọi cậu Hai đến mà căn dặn:
– Bá Vạn là người giúp đỡ dòng họ mình lừ lâu đời. Ba chết đi, con trở thành ông Chúa Hòn thì cứ xem ông Bá Vạn là tể tướng.
Ngày giỗ ông Thần Phước năm ấy, ông Bá Vạn quỳ bên bàn thờ. Ông Chúa Hòn – tức là cậu Hai Minh- mặc áo gấm ngồi uống rượu, bên cạnh là cậu Hai Điền, đứa con mà cậu với bà chánh thất sanh ra.
Hai Điền năm ấy được 30 tuổi, tánh tình kiêu hãnh, thích săn heo rừng và thích ra các hải đảo mà ăn uống, giữa cảnh trời nước mênh mông. Cậu ngồi im lặng, bực dọc vì nghi lễ phiền phức.
Người bày nghi lễ ấy, chính là ông Bá Vạn.
Cậu hỏi:
– Ông Bá Vạn ơi! Tới giờ chưa?
Ông Bá Vạn xem cậu Hai Điền là trẻ con nên ung dung ra trước sân xem bóng nắng. Lúc sau ông trở vô, đến trước mặt ông Chúa Hòn mà thưa:
– Đến giờ thắp nhang, thưa ông.
Ông Chúa Hòn day lại:
– Để đó cho ta…
Nhưng ông Bá Vạn đã lanh lẹn đến cạnh bàn thờ, lấy ba cây nhang thật to, loại nhang trầm hương do mấy người thương gia từ Quảng Nam đem vào dâng tặng hồi năm ngoái. Ông Bá Vạn đốt nhang, cúi đầu trao cho Chúa Hòn.
Từ lâu rồi, cậu Hai Điền không ưa ông Bá Vạn vì ông nầy quá nịnh bợ. Cậu muốn, buổi lễ nầy chấm dứt nhanh chóng để còn thời giờ lên chót hòn săn heo rừng. Bọn gia nhân cho biết rằng mấy ngày qua, dân chúng sợ hãi vì con heo rừng ‘‘độc giác’’ từ Dương Hòa chạy lạc tới, con độc giác nầy đã đánh chết hai người thợ săn. Cậu muốn giết nó để rửa hận cho những người quá cố, đồng thời cũng là để biểu dương ‘‘khí tượng’’ của một ‘‘thái tử’’ trẻ tuổi. Cậu chép miệng, quỳ xuống phía sau cha.
Ông Chúa Hòn là cậu Hai Minh cầm ba cây nhang. Mọi người đều im phăng phắc vì giờ phút hành lễ đã đến. Ông Bá Vạn bỗng nhiên lại chắp tay xá ông Chúa Hòn rồi nói:
– Thưa ông, ông là ông Chúa trong vùng rộng lớn nầy, hàng vạn người từ bao đời rồi có cơm ăn áo mặc là nhờ công đức bao la trời biển của tiên nhân để lại.
Nghe tới đó, cậu Hai Điền thêm bực tức, nhưng vì nể oai quyền của cha và muốn giữ trật tự nên đành im lặng mà chửi rủa lầm thầm.
– Tao còn nhỏ, ba tao hiền lành. Bằng không thì tao đuổi mầy từ lâu. Ai dạy mầy cái thói nịnh bợ quá mức? Già nua lụm cụm rồi mà nết na không đàng hoàng. Cái gì mà công lao trời biển? Chi cho lắm mà ruồi nó bu….
Cậu day lại phía sau, nơi hàng trăm người đang quỳ, dài ra tới ngoài sân cỏ. Đó là những bô lão đã làm tá điền cho ông Thần Phước. Cậu nhăn mặt; bịt mũi như để phản đối ngầm ông Bá Vạn.
Trước bàn thờ, ông Chúa Hòn cầm ba cây nhang đưa lên ngang trán, khấn vái rồi hỏi:
– Bá Vạn! Xong chưa? Bây giờ ta cắm nhang vào lư nhang.
Ông Bá Vạn đáp:
– Gia đình tôi hưởng bổng lộc mấy đời của tiền nhân, vậy xin ông cho phép tôi ‘‘thỉnh’’ mấy cây nhang nầy, đem cắm vào lư nhang.
Cắm xong mấy cây nhang, ông Bá Vạn đứng khoanh tay. Ông Chúa Hòn hỏi:
– Lễ thành chưa?
‘‘Lễ thành’’ hoặc ‘‘lễ tất’’ là danh từ xưa, nghĩa là xong buổi lễ. Ông Bá Vạn nói, giọng run run:
– Thưa ông, bâv giờ buổi lễ mới bắt đầu.
– Ủa! Sao vậy? Thức ăn dọn lên từ nãy giờ. Chẳng lẽ ta đứng mãi mãi trước bàn thờ. Mọi khi, ta nhớ rằng người trưởng tộc như ta chỉ thắp nhang rồị… ngồi chờ cho tuần nhang cháy dứt.
Cậu Hai Điền lắng tai nghe ông Bá Vạn trả lời:
– Dạ, ông ngồi mà chứng kiến. Hôm nay, tôi có rước bọn học trò lễ ở đình Dương Hòa tới. Bọn nầy giỏi lắm, biết cách cúng kiếng theo lễ nghi… ở ngoài triều đình Huế.
Vì tò mò, vì thích được nịnh bợ nên ông Chúa Hòn gật đầu:
– Cứ gọi bọn nó vào đây cho ta xem. Cúng theo nghi lễ ở triều đình, phải lắm. Ta là Chúa Hòn. Cha ta trước kia cũng là ông chúa. Vua với chúa nào có khác gì đâu.
Ông Bá Vạn mừng rỡ vô cùng:
– Ông nói chí lý. Vua trị vì một nước. Chúa thì trị vì một vùng… giang sơn gấm vóc, như ông vua nhỏ.
Vì quỳ gối quá lâu hơi mỏi nên cậu Hai Điền cứ cựa quậy đôi chân. Cậu toan đứng dậy, chửi vào mặt Bá Vạn một câu cho hả giận, đại khái như: ‘‘Tao chán cái trò nịnh bợ’’. Nhưng ông Bá Vạn cứ trầm tĩnh, khoát tay về phía sau. Hai tên học trò lễ bước vào, mặc áo dài mầu vàng, đầu đội mão có sợi dây lòng thòng xuống nửa lưng. Hai tên gia nhân khiêng cái bàn nhỏ và cái chuông, để bên cạnh. Bá Vạn trình bày:
– Thưa ông, nếu ông cho phép thì tụi nó bắt đầu…
Tuy chưa hiểu những gì sắp xảy ra, ông Chúa Hòn vẫn gật đầu:
– Ta cho phép.
Tiếng chuông thứ nhứt gõ lên.
– ‘‘ Boong…’’
Hai người học trò lên đến bàn, mỗi đứa bưng một chén cơm, nâng ngang trán rồi bước nhịp nhàng, nhún chân xuống, đá một chân rồi bước, rất chậm rãi. Hai cậu quỳ xuống, để hai chén cơm lên bàn thờ.
Ông Bá Vạn chắp tay:
– Xin ông chúa… hành lễ.
Ông Chúa Hòn trợn mắt:
– Hành… cái gì?
– Dạ, ông cầm đôi đũa nầy mà xẻ mở cơm trong chén rồi trộn lại..
Để khỏi mất thì giờ, ông Chúa Hòn làm theo lời dặn của ông Bá Vạn. Một tiếng chuông vang lên. Hai người học trò lễ nâng hai chén cơm, để trên bàn thờ bên cạnh lư nhang. Rồi lại một tiếng chuông khác, hai đứa đứng bưng hai dĩa thịt luộc quỳ xuống, ông Chúa Hòn cầm đũa trộn mấy miếng thịt…
Nghe tiếng chuông hơi nhàm ấy, cậu Hai Điền ngáp dài, lim dim đôi mắt. Chừng nghe hồi chuông liên tiếp, cậu đứng dậy trước hơn ai hết. Ông Chúa Hòn chắp tay xá bàn thờ rồi đi nhanh ra sân, mồ hôi ướt đẫm sau lưng. Ông Bá Vạn vuốt râu cười nói với hai đứa học trò lễ:
– Tụi bây làm coi được quá!
Cậu Hai bĩu môi khi chạm mặt ông Bá Vạn. Ông Bá Vạn chắp tay:
– Tôi mong sau nầy được theo chân cậu. Đời tôi thọ ơn gia đình cậu quá nhiều, như ơn trời biển.
Nhịn không được nữa, cậu Hai Điền quát to:
– Già rồi mà chưa nên nết. Tao ghét mấy thằng nịnh!
Ông Bá Vạn vẫn bình tĩnh:
– Tội nghiệp tôi mà cậu Hai. Ở đây đông đảo, tôi phạm lỗi gì, xin cậu rầy la lúc về nhà. Ăn thua với người già như tôi để làm gì?
Nhanh như chớp, cậu Hai Điền bước tới chụp cái tô đựng nước mắm, ném mạnh vào mặt ông Bá Vạn. Ông nầy né tránh không kịp nên mặt mày râu ria dính nước mắm. Như chưa hả cơn giận, cậu Hai ném cái tô đựng thịt kho vào ngực ông Bá Vạn. Hai cái tô rơi xuống gạch, bể nát.
Cử tọa nhốn nháo lên. Mấy ông bô lão không muốn dính líu đến cuộc tranh chấp nầy, chạy nhanh ra sân, mỗi người đi tản mác một hướng để khỏi làm nhân chứng. Ông Chúa Hòn hỏi:
– Chuyện gì vậy?
Ông Bá Vạn lấy tay vuốt mặt, trả lời:
– Thưa ông, không có gì hết.
Cậu Hai Điền hơi giựt mình, biết mình vừa làm một chuyện gây ra nhiều hậu quả tai hại. Trong khi đó, ông Bá Vạn ung dung đến bên hè, đứng lại gần lu nước, múc một gáo nhỏ rồi rửa mặt, rửa thật chậm.
Cậu Hai Điền ra khỏi cửa, đến nhà riêng ở gần phủ thờ. Đứa nữ tỳ lại gần ông Bá Vạn, nói khẽ:
– Để con về nhà, đem cái áo khác cho ông thay.
Ông Bá Vạn lắc đầu:
– Thây kệ tao!
Tên hộ vệ của ông Bá Vạn múc thêm gáo nước rồi yêu cầu:
– Ông cúi đầu xuống, tôi rửa trên tóc cho…
Vài người tò mò đứng ở góc sân nhìn cảnh tượng ấy.Tên hộ vệ quát to:
– Có gì lạ mà coi! Hồi nãy, cậu Hai say rượu. Đi chỗ khác, mấy người điếc sao chớ?
Như đau đớn tột độ, ông Bá Vạn ngồi xuống bên thềm phủ thờ. Đôi mắt ông đổ sao, lỗ tai lùng bùng. Hơn mười năm qua, chưa bao giờ ông bị hạ nhục giữa đám đông như thế. Cậu Hai Minh được dân chúng tôn là ông Chúa Hòn thì mặc nhiên ông Bá Vạn là bực tể tướng. Ông lo gìn giữ sản nghiệp cho cậu Hai, tại sao con ruột cậu Hai lại đành cư xử tàn nhẫn như thế, còn hơn là đối với bọn tôi đòi trong nhà.
Tên hộ vệ nói:
– Xin ông về, ở đây ích lợi gì!
Ngoài đường, người qua kẻ lại rộn rịp, đa số là bọn dân phu làm công trong vườn trồng hồ tiêu. Dường như ai nấy đều biết chuyện ông Bá Vạn bị tạt thịt kho và nước mắm vào đầu, vì cái tội nịnh bợ ông Chúa Hòn.
Họ liếc vào phủ thờ. Lúc ban đầu, ông Bá Vạn cúi mặt. Nhưng lát sau, ông ngẫng đầu lên:
– Ích lợi chớ. Tao ở đây cho thiên hạ thấy bằng cớ.
Nói đến đó, ông tự kềm chế lại. Tư tưởng ông đã đến lúc dứt khoát, từ nay trở đi ông có thái độ sẽ dứt khoát. Ông Chúa Hòn phải chết. Cậu Hai Điền, người thừa kế của ông Chúa Hòn, người tạt tô thịt kho và tô nước mắm, cũng phải chết. Trong phút giây, ông Bá Vạn nắm chặt hai bàn tay để tập trung sinh lực, mắt sáng lên. Tuổi ông già rồi, ông không thể chờ đợi… thời gian trả lời. Những cuộc âm mưu truất phế, tranh giành ngôi thứ trong truyện Tàu đời Đường, đời Tây Thái Hậu cứ hiện ra. Nhưng giết ông Chúa Hòn, giết cậu Hai Điền bằng cách nào cho khéo léo, cho dân chúng không phản đối? Bên cạnh ông Chúa và cậu Hai có hàng chục vệ sĩ tài ba và mạnh khỏe, ông Bá Vạn lẩm bẩm:
– Mình nên lấy độc trị độc…
Nghĩ vậy, ông đứng thẳng người, nói với tên hộ vệ:
– Đưa tao về. Mầy đi trước. Tao cứ ăn mặc dơ dáy như vầy cho thiên hạ thấy cái tội tày trời của cậu Hai Điền. Hôm nay tao xấu xí bao nhiêu thì ngày nào đó, tao sạch sẽ bấy nhiêu. Hôm nay tao khiếp nhược, ngày nào đó tao trở thành người anh hùng.
Tên hộ vệ can gián:
– Ra tới cổng rồi! Ông nên dè dặt lời nói.
Tên hộ vệ vừa sợ vừa mừng. Tài sản của ông Chúa Hòn đâu phải là ít, nào châu báu ngọc ngà, nào đất ruộng và vườn tiêu. Muốn đi tuần tra vùng đất bao la nầy, phải đi hai, ba ngày mới giáp vòng. Một khi ông Bá Vạn soán ngôi Chúa Hòn thì tên hộ vệ sẽ trở thành nhân vật quan trọng, một ông Bá Vạn thứ nhì.
Nhưng bao nhiêu nguy hiểm sẽ xẩy ra.
Ông Bá Vạn nói:
– Ai kia?
Tên hộ vệ giựt mình, nhòm qua bên kia đường. Bên quán nhỏ, cô Ngó đứng trang nghiêm, cầm trong tay năm bảy đóa hoa sen còn búp. Cô Ngó cúi đầu chào ông Bá Vạn. Đột nhiên mà ông Bá Vạn nảy ra một sáng kiến thần tình. Bấy lâu, cô Ngó được ông Chúa Hòn tưng tiu, nhưng cô buồn vì đứa con trai là thằng Ba Cẩu bị đuổi ra xa, nuôi tại nhà của ông ngoại nó là Mười Hấu ở núi Mo So. Nếu giết ông Chúa Hòn, ông Bá Vạn sẽ đưa Ba Cẩu lên thay thế, vì nó là con trai thứ nhì của ông Chúa.
Cậu trai thứ nhứt, kẻ thù của ông Bá Vạn sẽ bị giết dễ dàng. Cậu ta ưa đi săn heo rừng.
– Thời cơ đã tới!
Ông Bá Vạn mỉm cười, cúi đầu đáp lễ rồi đến bên kia đường. Cô Ngó lên tiếng trước:
– Ông Bá Vạn chưa về sao? Lễ giỗ đã tàn từ nãy giờ. Ủa! Sao lạ quá?
Rồi cô cau mày, nói khẽ với ông Bá Vạn:
– Thiên hạ tò mò.
Tên hộ vệ khoát tay. Mấy người trong quán hoảng sợ rút lui vào trong, đồng thời ông Bá Vạn và cô Ngó từ từ rảo bước. Cô Ngó giả vờ như chưa biết gì ráo nên hỏi dọ để thử phản ứng của ông Bá Vạn:
– Trên đầu ông, trên áo… còn dính cái gì?
Ông Bá Vạn muốn nhờ cô giúp một tay quan trọng trong kế hoạch truất phế sắp tới, nên trình bày vắn tắt:
– Tôi chưa dám hờn giận cậu Hai Điền. Cậu còn nhỏ mà bất chấp người có tuổi tác như tôi. Chắc cô nghe thiên hạ nói nhiều rồi.
– Tôi nghe nói nhưng chưa vội tin. Chừng gặp ông, tôi mới hiểu rằng cậu Hai cư xử quá đáng. Bởi vậy…
Ông Bá Vạn nín thinh, chờ nghe cô Ngó nói tiếp:
– Bởi vậy, tôi mừng vì thằng Cẩu, con tôi được nuôi nấng ở nơi quê mùa hẻo lánh. Nếu nó sống sung sướng như con trưởng nam thừa hưởng gia tài thì ai cấm cản nó làm chuyện phách lối.
– Cám ơn cô. Cô nghĩ tới tôi, tôi không quên ơn đó. Xin cô kín tiếng, nói chuyện lâu bất tiện.
Dứt lời, ông Bá Vạn bước chậm rãi về tư thất ở cách xa nhà ông Chúa Hòn gần mười công đất. Dọc đường, nhiều người đứng khép nép nhìn cái áo lem lấm với thái độ mỉa mai châm chọc. Mấy bệt nước mắm vẫn chưa khô. Vì bực dọc, bị hạ nhục lây nên tên hộ vệ nhiều phen nổi giận, quát mắng những kẻ tò mò. Ông Bá Vạn chỉ khuyên nhủ hắn:
– Đừng rầy rà họ. Họ được quyền chứng kiến sự nhục nhã của tao hôm nay. Chắc là họ nói lén, chê tao là thằng già nịnh bợ, khiếp nhược, hèn hạ. Dư luận thế gian, hơi đâu mà nghe. Họ ghét tao, họ khinh khi tao nhưng rồi đây họ sẽ sợ tao.
Khi đến nhà, ông Bá Vạn vào phòng cởi cái áo lem lấm hôi tanh ra. Đứa nữ tỳ đến gần, đón chiếc áo.
– Ông đưa cho con giặt sạch sẽ.
Ông Bá Vạn trợn mắt:
– Để đấy! Lấy cái tráp đằng kia cho tao. Phải để nguyên mùi vị hôi hám để sau nầy làm bằng cớ.
Rồi ông xếp cái áo thật kỹ, để gọn trong cái tráp, khóa lại:
– Tao gối đầu trên cái tráp nầy. Bây giờ, mi múc thau nước rửa đầu, chải tóc cho tao.
Lúc ngồi uống trà, ông Bá Vạn chợt thấy tên hô vệ bước vào:
– Thưa ông, ông Chúa Hòn nhắn gặp.
Ông Bá Vạn đáp:
– Tao đương buồn vì chuyện xẩy ra lúc nãy nên không tới được. Cứ trả lời như vậy. Ai tới đây nhắn tin, mời người đó vô đây.
Chừng gặp mặt đứa nữ tỳ, ông Bá Vạn nhận lời ngay, hứa đến gặp ông Chúa Hòn trong giây lát. Nữ tỳ nói khẽ:
– Thưa ông, ông Chúa Hòn đã biết cái tội vô lễ của cậu Hai. Ông hứa sẽ rầy la…
Khung cảnh vui vẻ trên giường của ông Chúa Hòn khiến ông Bá Vạn ngạc nhiên, ông Chúa cứ uống rượu, sau lưng có cô Ngó đứng quạt hầu. Cô Ngó liếc về ông Bá Vạn, gật đầu như khuyên nhủ ông đừng nóng nảy, ông Chúa Hòn reo lên:
– Bá Vạn tới rồi! Ngồi trên giường nầy cho thân mật hơn.
Giường là cái sạp đóng bằng cây cẩm lai, chân thấp, phía trên có đóng khung sơn son thếp vàng để giăng cái mùng bằng nhiễu đỏ.
Mùng đươc vén lên khéo léo. Ông Chúa Hòn vỗ vai Bá Vạn:
– Cứ ngồi. Ta mới sắm cái giường nầy, ông thấy sao?
– Dạ, đẹp lắm.
Ông Chứa Hòn ngồi ưỡn ngực, dựa hai tay trên hai cái gối vuông rồi nói chậm rãi:
– Tháng sau, ta tặng cho một cái giường như vầy. Đó là danh dự lớn của người thành công, thành danh.
– Dạ, tôi sắm một cái giường rồi.
– Nhưng chưa sơn son thếp vàng. Bấy lâu, ông giúp gia đình ta nhiều lắm mà ta chưa ban thưởng.
Câu nói ấy khiến ông Bá Vạn bớt giận phần nào. Chúa Hòn gọi ông bằng ông, đó là sự biệt đãi. Nhưng tại sao ông Chúa chưa đề cập tới chuyện cậu Hai Điền phải xin lỗi về cái tô thịt kho và cái tô nước mắm? Ông Chúa Hòn tiếp lời:
-Ta ngủ trên cái giường, viết chữ trên cái giường, uống trà trên cái giường. Nhiều người hút á phiện, đánh bài và khảy đàn trên cái giường, ngồi tại đó, nằm tại đó. Khi ta cỡi hạc qui tiên thì con cháu giành cái giường ấy mà thờ. Bởi vậy, về sau, gọi là cái giường thờ. Ta tặng cho một cái giường. Ta muốn ban thưởng bởi vì lúc nãy có điềm lạ quá.
– Dạ điềm gì?
– Hai con cò trắng từ đâu bay tới, chạy lững thững vô nhà. Theo ông thì đó là điềm lành hay điềm dữ?
Ônq Bá Vạn nghĩ kế hoạch giết hoặc truất phế ông Chúa Hòn rồi đem thằng Cẩu, con cô Ngó lên thay thế, đồng thời ông tìm cách giết luôn cậu Hai Điền để rửa hận! Dư luận sẽ tha thứ, vì chừng đó ông vẫn tiếp tục đóng vai trò quản gia cho thằng Cẩu, đứa con rơi của ông Chúa Hòn. Con cò giống như con hạc, ở đồi núi Hà Tiên làm sao con hạc sống được? Hạc vào nhà, đến tận giường ông Chúa Hòn là điềm cỡi hạc qui tiên, tức là chết. Phải chăng Trời Phật muốn giúp ông? Ông cau mày, chờ khi ông Chúa Hòn hỏi đến lần thứ ba:
– Điềm gì? Bá Vạn cứ nói thiệt?
– Dạ, sau lễ giỗ, hai con hạc vào nhà tức là vong linh tiên nhân xuống cõi trần để thăm con cái. Theo tôi hiểu đó là điềm tốt. Tiên nhân cỡi hạc xuống đây.
Ông Chúa Hòn vẫn thắc mắc:
– Đành vậy, nhưng mà ta hơi buồn. Con trưởng nam của ta thì ngỗ nghịch, thích săn heo rừng. Nó đi vắng rồi. Ta gọi ông đến để cùng nhau lên núi Đất, gần Hòn Me, nhờ thần linh chỉ dạy.
Ông Bá Vạn gật đầu:
– Bên đó, có ông đạo Đất xem quẻ giỏi lắm.
– Nhưng ông đạo Đất chỉ là người phàm. Ta muốn bà Chúa Xứ xem giùm một quẻ.
– Ông dạy thì tôi vâng lời.
Sáng hôm sau, hai chiếc ghe chở ông Chúa Hòn và bọn hộ vệ đến Hòn Me. Chuyến đi, ông Chúa Hòn qua ngang nhà Tư Thính và cô Huôi. Ông Bá Vạn nào chú ý đến gia đình đó, cứ thúc hối bọn hộ vệ chèo ghe thật nhanh đến sườn núi phía bờ biển. Hai tên hộ vệ lên trước để dọn đường. Miễu bà Chúa Xứ ở bên sườn Hòn Me, khá cao. Ông Bá Vạn nài nỉ:
– Ông Chúa ngồi đây mà chờ. Tôi cho xác bà hay trước để khỏi mất thời giờ.
Con đường quanh co, đầy sỏi gai, đôi khi phải trèo lên mấy tảng đá gồ ghề. Phải mệt nhọc lắm, ông mới đến miễu bà Chúa Xứ được. Miễu hiện ra với mái ngói đen đúa. ‘‘Xác bà’’ là cô gái chừng hai mươi tuổi, chưa chồng. Hay tin ông Chúa Hòn tới, ông lão giữ miễu hơi sợ sệt:
– Dạ, làm sao tôi đón rước được? Mọi năm cúng vía bà vào ngày mùng sáu tháng năm. Bây giờ, chỗ ngồi không sạch sẽ, trà rượu không có, tôi sợ ông Chúa Hòn phiền giận. Xin ông Bá dời lại ngày mai hoặc ngày mốt.
– Ông Chúa muốn thì đừng cãi. Dọn dẹp bàn thờ sạch sẽ, kéo ghế nào hơi lớn cho ông chúa ngồi là đủ rồi. Ông tới nhờ bà coi quẻ rồi về chớ đâu phải cúng kiếng.
Ông từ giữ miễu vẫn cau có:
– Cô Tư lên xác cuốc rẫy ở đằng kia, rủi cổ vắng nhà thì không ai thay thế được!
– Cứ gọi cô lên xác tới đây. Mua thêm nhang đèn, trà rượu. Tốn kém một, thời ông Chúa trả lại bằng mười. Già rồi mà ông còn khờ quá, đây là dịp kiếm thêm tiền để mua rượu đủ bốn, năm tháng.
Ngồi trên ghế chờ đợi hơi lâu, ông Chúa Hòn ra lịnh:
– Tụi bay đưa tao lên miễu! Nóng ruột quá.
Ồng Chúa Hòn đứng trước mũi ghe, hai tên hộ vệ bồng khéo léo đưa lên bờ. Bọn chúng muốn cõng ông lên sườn núi, ông nói to:
– Để tao đi một mình.
Một tên hộ vệ nói:
– Dạ trèo núi cực lắm, nào rắn rít, kiến vàng.
– Để tao đi một mình cho được phước.
Nhưng chưa được nửa đường, ông Chứa Hòn đành chịu thua:
– Cao quá, hễ leo tới cục đá trên kia thì tao đuối sức, rủi trợt té thì sanh bịnh. Nãy giờ, tao chứng minh lòng thành rồi. Tụi bay cõng tao lên. Cõng cho mau.
Đến trước sân miễu, ông Chúa Hòn mừng thầm vì ông Bá Vạn đứng sẵn để chào đón. Chúa Hòn hỏi:
– Xác bà tới chưa?
– Dạ, vì ông đến thình lình nên nãy giờ ông từ đi kiếm. Lát nữa về chứ gì. Mời ông ngồi nghỉ.
Ông Chúa Hòn tin rằng phen nầy xác bà sẽ đoán điềm hai con cò trắng vào nhà. Bấy lâu, ông Bá Vạn thích nịnh bợ nên căn dặn trước những gì mà xác bà phải nói cho ông hài lòng. Bá Vạn chưa tiếp xúc với xác bà. May quá.
Cô gái lên xác đã tới. Ông Chúa Hòn mừng rỡ và nói khéo với ông Bá Vạn:
– Lên xác cho mau. Hai con cò bay vô nhà tôi chắc là điều may mắn. Đừng nói cho người xác biết bất cứ chuyện gì.
Ông Bá Vạn vuốt râu cười:
– Gặp ông thì họ cứ nói dối để nịnh bợ. Bởi vậy hôm nay, ông đừng cho tiền trước. Nhang đèn, đã có ông từ giữ miễu lo rồi. Ông ngồi chờ.
Ông từ lấy miếng vải, lau chùi bàn thờ cho sạch sẽ. Trong khi đó ông Bá Vạn cố ý làm vừa lòng ông Chúa Hòn bằng cách gọi ba tên hộ vệ đến, khuyên chúng phải canh phòng bốn phía miễu, cấm ngặt không cho ai lại gần, nhứt là không cho tên hộ vệ nào khác đến tiếp xúc với cô gái lên xác, đề phòng trường hợp cô ta lên xác giả rồi nói những lời nịnh bợ.
Bọn nhạc công đã tới. Họ chắp tay chào ông Chúa Hòn rồi ngồi xuống, bắt đầu so giây đờn. Vùng nầy còn người Cao Miên nên chịu ít nhiều ảnh hưởng, tô điểm vài hương sắc kỳ lạ. Thay vì dùng kiểu trống cơm, trong ban nhạc cổ kiểu trống vỗ, hình tròn như cái gối. Thân trống làm bằng cây, mặt kia bịt miếng da dày.
Ông Chúa Hòn vẫn giữ thái độ kiêu hãnh:
– Chú kia! Trống còn tốt không?
Anh nhạc công trả lời:
– Thưa ông, kiểu trống Miên, bịt miệng da sấu. Xin ông cho phép tôi đốt lửa.
Ông Bá Vạn nói với ông từ:
– Làm gì thì làm. Đừng thúc hối cô gái lên xác. Cứ tự nhiên như vậy, chừng nào lên cũng được.
Bếp lửa cháy bừng bừng, trước bàn thờ bà Chúa Xứ. Anh nhạc công đến gần, lăn tròn cái trống rồi hơ cho miếng da sấu được nóng, ông Bá Vạn giải thích với ông Chúa Hòn:
– Da nóng thì tiếng trống mới dòn.
Ông từ ra trước sân, cắm ba cây nhang vào cái miễu nhỏ ở gốc cây dừa, lâm râm khấn vái rồi trở vô:
– Vỗ trống lên!
Anh nhạc công bèn cởi áo ra, trợn mắt, hai bàn tay vỗ mạnh vào miếng da sấu. Anh ta ngồi xếp bằng, thân trống nằm gọn trong lòng. Tiếng ‘‘tung tung’’ vang dội. Vài người trong xóm chạy tới, muốn đến gần miễu. Bọn hộ vệ xua đuổi:
– Muốn chết sao mà lại gần! Mấy người không thấy ông Chúa Hòn ngồi đó sao?
Thời khắc cứ trôi qua, ông từ giữ miễu đến gần ông Bá Vạn mà trình bày:
– Thưa ông, người lên xác còn tắm gội sạch sẽ để hôm nay…
Ông Chúa Hòn hơi bồn chồn:
– Tắm rửa gì lâu dữ vậy? Tắm ở đâu?
Ông Bá Vạn cau mày, trong khi ông từ bối rối:
– Thưa.. ở gần bờ suối. Tắm gần đây thì sợ ô uế, bà không về nhập xác.
– Coi một lần nữa rồi cho ta biết còn bao lâu mới lên xác được! Lâu quá rồi.
Chính ông Bá Vạn cũng hơi ngạc nhiên vì sự trể nải ấy. Thật ra việc tắm gội ấy chỉ là hình thức mà thôi. Nhiều cô gái lên xác tuy gọi là ‘‘đồng trinh’’ nhưng còn gì là trinh tiết. Các cô có tình nhân trong xóm, như trong trường hợp miễu bà Chúa Xứ nầy thì chàng trai vỗ trống nọ có thể là tình nhân của cô ta. Để làm vừa lòng ông Chúa Hòn, ông từ giữ miễu bèn thắp hai ngọn đèn sáng trên bàn thờ, thắp nắm nhang cắm vào lư rồi ra phía sau miễu.
Ông Chúa Hòn vốn tin dị đoan nên vẫn cằn nhằn:
– Hai con vô nhà tôi là phụng hoàng hay là con hạc? Điềm lạ quá.
Nhớ đến hai tô thịt kho và nước mắm mà cậu Hai Điền đã tạt lên mình, ông Bá Vạn gật đầu, nói giọng trầm trầm.
– Có lẽ là chuyện lạ. ‘‘Lạ’’ nhiều khi là may mắn…
– Hộ vệ đâu? – Ông Chúa nói gắt
Hai tên võ sĩ chạy đến khoanh tay chờ lịnh. Chúa Hòn như ray rứt, khó chịu, cứ trợn mắt nhìn xung quanh rồi quát to:
– Cái gì mà vỗ trống hoài! Đừng vỗ nữa.
Đột nhiên, ông từ giữ miễu chạy tới, mặt mày tái mét:
– Chết rồi! Ông ơi! Cứu cô xác!
Ông Bá Vạn đứng dậy, hỏi kỹ:
– Cô chết rồi à? Ai giết cô?
Ông Chúa Hòn nói:
– Chỗ nào? Hộ vệ đâu, theo tao. Bọn nào dám tới đây, tụi bây canh phòng như vậy đó hả?
Bọn nhạc công hoảng sợ, đứng dậy và trong lúc mất bình tĩnh, anh chàng vỗ trống quơ tay đụng nhằm ngọn đèn trên bàn thờ. Ngọn đèn ngã xuống, lửa bắt qua mớ chân nhang. Ông Chúa Hòn chạy ra sau miễu, hơn mười tên hộ vệ bao bọc chung quanh. Việc gì đã xẩy ra? Ông Bá Vạn cố gắng chạy theo, nài nỉ ông Chúa Hòn:
– Xin ông đừng tới bờ suối. Nếu kẻ gian bắt cô gái lên xác thì tôi… xé xác bọn nó. Ra ngoài đó nguy hiểm lắm.
Nhưng ông Chúa Hòn như say máu, như sợ sệt, như bị chạm tự ái:
– Đứa nào giết cô gái lên xác là đứa đó muốn xúc phạm tới tao! Quá lộng rồi sao chớ! Điềm gì vậy?
Đến bờ suối, ông Bá Vạn đứng tần ngần, mấy tảng đá bên bờ đều ướt mem, chứng tỏ rằng cô gái lên xác đã tắm gội tại đó và đã cựa quậy chống cự. Điều ngạc nhiên là hai tên hộ vệ đã mất dạng. Ông gọi to:
– Tụi bây đâu rồi?
Từ phía bụi rậm ở ngọn suối, có tiếng trả lời:
– Cứu tôi, cứu cô gái. Mau lên đây! Con rắn to lớn lắm.
Cả bọn đến nơi, dẫn đầu là ông Bá Vạn. Ông Chúa Hòn trố mắt, mặt mày tái mét:
– Chết rồi à! Con rắn đâu?
Cô gái lên xác đã tắt thở. Rõ ràng là con rắn hoặc con trăn đến quấn cô. Cô nằm đây, thân hình co quắp, chắc là xương sống bị gãy làm đôi. Hai tên hộ vệ thở hổn hển, tay cầm ngọn dao đỏ lòm, máu nhễu giọt lóng lánh ở mũi dao:
– Dạ, tụi tôi chặt được khúc đuôi con rắn…
Ông Chúa Hòn hỏi:
– Con rắn mất đuôi thì còn sống. Tụi bây không đem cái đầu rắn về cho tao thì ngày mai tao giết cả bọn!
Ông Bá Vạn van nài:
– Xin ông về nghỉ. Đây là chuyện thường lệ, rừng núi thiếu gì rắn độc, tắm ở bờ suối mà bị rắn hoặc trăn quấn, đâu có gì quan trọng…
Nhưng lời thuyết phục ấy không làm cho ông Chúa Hòn được yên tâm. Bọn hộ vệ la hoảng, đứng bao vây chung quanh:
– Cháy! Miễu bà Chúa Xứ cháy rồi!
Ông Bá Vạn ngại rằng sắp có chuyện bất lợi xảy ra nên mời ông Chúa Hòn xuống núi, về nhà lập tức. Tuy là độc tài, giàu tự tin, nhưng lần nầy ông Chúa Hòn đành ngoan ngoãn vâng lời ông Bá Vạn, để cho bọn hộ vệ cõng lên vai. Dân chúng ngơ ngác, xem việc miễu cháy là điềm ông Chúa Hòn sắp chết trong ngày rất gần.
Nằm dài trên chiếc ghe hầu, ông Chúa Hòn bắt đầu tỉnh táo khi bọn hộ vệ vừa chèo chống vừa báo cáo:
– Thưa ông, ngọn lửa đã tắt.
– Bá Vạn đâu? Ngồi gần ta cho ta vui. Tại sao ta cứ phập phồng, xung quanh ta có tiếng dậm chân rầm rập trên đất, như toán quân nào đông đảo lắm đang kéo tới? Mắt ta hơi mờ..
Bọn hộ vệ đưa chiếc ghe ra đến khoảng đồng trống, gió thổi hiu hiu. Lần hồi ông Chúa Hòn cảm thấy khoẻ khoắn, ngồi dậy dựa tay lên chiếc gối vuông:
– Dường như sắp xảy ra chuyện gì xui xẻo cho ta. Hai con cò vô nhà, rồi tới việc nầy. Cô gái lên xác nào có tội tình gì mà bỏ mạng? Ông xem sách tử vi nhiều, hãy bàn bạc thử cho ta nghe.
Tâm trí ông Bá Vạn hơi bối rối vì tình thế biến chuyển quá nhanh. Ông Chúa Hòn nếu chết bất ngờ thì cậụ Hai Điền thay thế. Cậu Hai Điền sẽ đuổi ông hoặc bày ra nhiều điều sĩ nhục khác, còn nặng nề hơn là tạt thịt kho và nước mắm.
Theo kế hoạch dự định thì ông Bá Vạn sẽ đem thằng Cẩu lên ‘‘ngôi’’ ông Chúa Hòn tương lai. Muốn sắp đặt cho ăn khớp nhịp nhàng thì cần một khoảng thời gian khá dài, ông Bá Vạn cần tiếp xúc vói Mười Hấu và thằng Cẩu. Năm nay Cẩu được 17 tuổi, chưa hiểu tánh tình ra sao. Lại còn bài toán gay go hơn. Đó là giết khéo léo cậu Hai Điền để có lý do chánh đáng mà đem thằng Cẩu lên thế.
Bọn hộ vệ của ông Chúa Hòn tuy đông đảo nhưng dễ mua chuộc. Ông sẽ cho chúng nó tiền bạc, nhà cửa, đa số đều do ông tiến cử, hễ ông nói đúng lý thì chúng nó nghe ngay.
Ông Chúa Hòn chết.
Vài ngày sau là cậu Hai Điền chết.
Lập tức, thằng Cẩu được tôn làm ông Chúa Hòn.
Ba giai đoạn ấy tuy rời nhưng dính liền nhau, trong vòng ba ngày. Nếu chuẩn bị non kém, ông Bá Vạn sẽ bị giết về tay cậu Hai Điền. Bởi vậy, ông Bá Vạn nói khẽ:
– Theo tôi thì trên đời nầy có nhiều điều xui xẻo, nhưng do sự tình cờ.
– Không đâu! Phải chăng bọn nhạc công vô lễ với bà Chúa Xứ?
Ông Bá Vạn gật gù lấy lệ:
– Ông nói có lý. Bà Chúa Xứ không ưa cái trống bịt da sấu ở dưới nước. Nhưng theo ý tôi thì có lẽ cô gái lên xác đã bị ô uế, bà nổi giận. Cô ta lén lút tình tự với cậu trai nào đó nên bà Xứ phạt. Tháng sau, tôi biểu ông từ giữ miễu chọn cô gái khác trinh bạch hơn.
Đến chiều, đoàn ghe về tới Hòn Chông. Khi lên bờ, ông Bá Vạn ra lịnh cho bọn hộ vệ không được đồn đãi về chuyện bất trắc đã xảy ra. Khi ông Chúa Hòn vào phòng nằm nghỉ, ông Bá Vạn về nhà riêng. Cậu Hai Điền đi săn mới về. Dưới sông, bọn thủ hạ hò hét ỏm tỏi vì uống rượu say mèm. Ông Bá Vạn ngồi trước cửa, trong bóng tối, để ngắm nghía khung cảnh.
Chiếc ghe chở cậu Hai trông thật quái dị. Trước mũi, sau lái đều có hai tên hộ vệ đứng thẳng người, cầm đuốc. Cậu Hai ngồi chễm chệ trên chiếc ghế nhỏ. Chiếc ghe lúc lắc qua lại mà cậu vẫn ngồi vững, tay nâng bầu rượu, ngực để trần.
Ổng Bá Vạn trù rủa lầm thầm:
– Nó mà làm ông Chứa Hòn thì ai mà chịu nổi! Nó bắt chước bộ điệu ông vua con, nhưng lại giống hệt một tên cường sơn thảo khấu.
Tiếng cậu Hai Điền vang lên lồng lộng:
– Con heo độc giác chưa tới số. Bữa nay, tao hơi say nên chưa giết được nó. Tao thề giết tất cả mấy con thú dữ ở Hòn Chông nầy. Tao là thần thánh, chưa bao giờ chịu thua loài súc vật. Nếu nó còn sống, đó vì là tao còn lòng nhơn đạo, phải không tụi bay?
Ban hộ vệ reo lên:
– Da, cậu nói phải!
Cậu Hai ngửa mặt nốc cạn bầu rượu, rồi quăng mạnh cái bầu lên sân nhà ông Bá Vạn. Ông Bá Vạn cúi đầu chua xót, vì dường như cậu Hai Điền cố ý so sánh ông với một loài thú. Cái bầu rượu không bể, lăn tròn rồi nằm sát gốc cây xoài.
Chờ khi đoàn ghe qua khỏi, ông Bá Vạn đứng dậy đến gốc cây mà lượm cái bầu, đưa lên mũi hửi. Lát sau, ông vào nhà, để cái bầu bên cạnh cái tráp, trên đầu nằm. Trong tráp, cái áo dính thịt kho và nước mắm còn đó, chưa giặt rửa.
- 1 -
Tiến >>
Bản scan tusachtiengviet
Đánh máy: Ct.Ly
Nguồn: NXB Kỷ Nguyên 1969
VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 10 tháng 6 năm 2021