Phù Thủy Xanh
dịch giả: lê minh đức
CHƯƠNG MỘT
bộ sách: bóng tối trỗi dậy
nguyên tác: (the dark is rising sequence 4)
Susan Mary Cooper sinh năm 1935 tại Burnham, Buckinghamshire, nước Anh. Bóng tối trỗi dậy là bộ sách quan trọng nhất trong sự nghiệp sáng tác của bà, đem lại cho tác giả các giải Newbery và Carnegie danh tiếng cùng một chỗ đứng không thể bỏ qua trong nền văn học thiếu nhi thế giới.
Tác phẩm đã dung hợp những huyền thoại cổ của nước Anh với các chất liệu dân gian độc đáo, làm nên một thế giới nơi Thiện và Ác đối đầu trên một bình diện sử thi, thường được ví với những gì J. R. R. Tolkien và C. S. Lewis đã sáng tạo ra.
.
Khi Bóng Tối trỗi dậy, sáu vật đẩy lùi ngay,
Ba từ vòng tròn đến, ba từ giữa đường ra;
Gỗ, đồng và sắt; nước, lửa và đá;
Năm vật quay trở lại, một lẻ loi lên đường
Sắt cho ngày sinh nhật, đồng luôn được mang theo;
Gỗ có từ lửa cháy, đá từ tiếng hát ra;
Lửa trong vòng đựng nến, nước từ khối tuyết tan;
Vòng tròn sáu Dấu Hiệu, chén Thánh đi trước rồi.
Lửa trên núi sẽ tìm thấy được đàn hạc vàng;
Tiếng đàn làm tỉnh giấc những Người Ngủ già nua;
Sức mạnh Phù Thủy Xanh bị mất dưới đáy biển;
Đưa ánh sáng trở về, bạc dát đầy trên cây.
CHƯƠNG MỘT
Chỉ có một tờ báo duy nhất đăng chi tiết câu chuyện dưới tít:
BÁU VẬT BỊ ĐÁNH CẮP KHỎI VIỆN BẢO TÀNG.
Một số cổ vật Xen tơ* (Khối cộng đồng ngôn ngữ và văn hóa bao gồm Ireland, Scotland, Wales, và Cornwall - ND) đã bị đánh cắp khỏi viện Bảo Tàng Anh Quốc ngày hôm qua, một trong số đó đáng giá hơn 50,000 bảng. Cảnh sát cho biết có vẻ vụ trộm là kết quả của một kế hoạch rất tinh vi và cho đến giờ vẫn khiến họ đau đầu. Không cái chuông báo động nào reo, tủ trưng bày những hiện vật trên không hề bị hư hại, và không có dấu hiệu nào cho thấy đã có kẻ đột nhập vào bảo tàng.
Những hiện vật bị đánh cắp bao gồm một chiếc chén vàng, ba chiếc trâm nạm ngọc và một chiếc khóa thắt lưng bằng đồng. Chiếc được biết đến với cái tên Chén Thánh Trewissick, mới được đưa tới viện bảo tàng hè năm ngoái, là phát hiện ngoạn mục của ba em nhỏ trong một hang đá ở Cornwall. Nó ước tính trị giá 50,000 bảng, nhưng một phát ngôn viên của viện bảo tàng đêm qua nói rằng giá trị thật của nó là “không thể tính nổi,” do những nét chạm độc nhất vô nhị trên thành chén mà cho đến nay các học giả vẫn chưa thể giải mã được.
Phát ngôn viên cũng nói thêm rằng viện bảo tàng đã kêu gọi bọn trộm đừng làm bất kỳ điều gì tổn hại đến chiếc chén, và sẽ trả một khoản tiền chuộc lớn nếu chiếc chén được hoàn lại. “Chiếc chén là một bằng chứng lịch sử có một không hai, chưa từng có trong toàn bộ ngành nghiên cứu về văn hóa Xen tơ,” ông nói, “và tầm quan trọng của nó đối với các học giả vượt xa giá trị thực của nó.”
Huân tước Clare, một ủy viên quản trị của viện Bảo Tàng Anh Quốc, đêm qua đã nói rằng chiếc chén...
“Thôi rời tờ báo ra đi, Barney,” Simon bực dọc bảo. “Mày đã đọc nó đến cả năm chục lần rồi, đọc nữa thì cũng có được gì đâu.”
“Ai biết đâu được đấy,” cậu em trai đáp, gấp tờ báo lại và nhét vào túi. “Nhỡ đâu lại có một manh mối nào ẩn trong bài báo thì sao.”
“Chẳng có gì ẩn giấu hết,” Jane buồn bã nói. “Tất cả đều rõ rành rành rồi.”
Chúng rầu rĩ đứng thành một hàng trên sàn nhà bóng loáng của phòng trưng bày ở viện bảo tàng, trước một tủ kính nằm giữa phòng cao vượt lên so với những hàng tủ kính giống y hệt nhau ở xung quanh. Chiếc tủ trống trơn, chỉ có độc một cái bệ gỗ màu đen, rõ ràng trước kia từng đặt một vật trưng bày ở đây. Một vuông bạc nguyên chất gắn trên bệ gỗ được khắc mấy chữ: Cốc đựng rượu lễ bằng vàng, tác phẩm của nghệ nhân Xen tơ vô danh, dự đoán chế tác từ thế kỷ thứ sáu. Tìm thấy tại Trewissick, miền Nam Cornwall, do Simon, Jane và Barnabas Drew trao tặng.
“Bọn mình đã phải mất bao nhiêu công sức mới đem được nó về đây,” Simon nói. “Thế mà bây giờ bọn chúng chỉ việc đến nẫng đi. Nhưng thật ra thì tao cũng đã luôn nghĩ rằng chúng sẽ làm thế.”
Barney nói, “Tệ nhất là không thể nói cho ai biết kẻ nào đã làm chuyện này.”
“Mình có thể thử chứ,” Jane nói.
Simon nghiêng đầu nhìn em. “Thưa ông, chúng cháu có thể cho ông biết ai đã đánh cắp chiếc chén Thánh giữa thanh thiên bạch nhật mà không bẻ một cái khóa nào. Đó chính là thế lực Bóng Tối.”
“Xéo đi, nhóc con” Barney nói. “Và đem cả chuyện cổ tích của chú mày theo nữa.”
“Em nghĩ là anh nói đúng, Jane nói. Em lơ đãng giật giật món tóc đuôi ngựa. “Nhưng nếu vẫn là mấy kẻ đó, thì chí ít cũng phải có ai đấy nhìn thấy chúng chứ. Cái gã Hastings đáng sợ ấy...”
“Không thể nào. Gã Hastings đó có thể thay hình đổi dạng, Ông Merry đã bảo vậy mà. Em không nhớ à? Hắn sẽ không mang cái tên đó, hay khuôn mặt đó nữa. Hắn có thể là những người khác nhau, vào những thời điểm khác nhau.”
“Không biết Ông Merry có biết không nhỉ?” Barney nói. “Về chuyện này ấy mà.” Nó nhìn trân trân vào ngăn tủ kính và cái bệ màu đen nằm lẻ loi trong đó.
Hai bà có tuổi đội mũ đi đến bên cạnh nó. Mũ của một bà nhìn như cái chậu hoa màu vàng, bà kia thì mang cả một kim tự tháp hoa màu hồng trên đầu.
“Nhân viên bảo tàng bảo đây chính là cái tủ nơi bọn trộm đã lấy nó đi đấy,” một bà bảo bà kia. “Thử tưởng tượng mà xem! Những cái tủ khác thì ở đằng kia."
“Chậc-chậc-chậc-chậc,” bà kia thích thú nói, và họ đi tiếp. Barney lơ đãng nhìn theo họ, tiếng giày của họ gõ lách cách xuyên suốt cả gian phòng trưng bày cao vút. Họ dừng lại bên tủ kính có một người cao lớn đang cúi xuống. Barney cứng người lại. Nó nhìn chằm chằm vào người ấy.
“Bọn mình phải làm cái gì đó chứ.” Simon nói. “Phải nghĩ cách gì thôi.”
Jane hỏi, “Nhưng bắt đầu từ đâu bây giờ?”
Người cao lớn nọ đã đứng thẳng lên nhường chỗ cho hai bà đội mũ đi đến bên tủ kính. Ông lịch sự cúi đầu, và mớ tóc bù xù bạc trắng của ông bắt sáng ánh lên.
Simon nói, “Anh không nghĩ là Ông Merry lại biết được đâu... ý anh là, ông thậm chí còn không ở Anh cơ mà, phải không? Ông đã nghỉ dạy một năm Oxford. Nghỉ... gì gì ấy.”
“Nghỉ phép,” Jane nói. “Ở Athens. Và thậm chí Giáng Sinh ông cũng chẳng thèm gửi thiếp cho bọn mình.”
Barney đang nín thở. Phía bên kia phòng trưng bày, hai bà ưa chuyện tội phạm giật gân đã đi tiếp, còn người đàn ông cao lớn tóc bạc thì đã quay về phía ô cửa sổ; khuôn mặt nhìn nghiêng với cái mũi khoằm và cặp mắt sâu của ông không lẫn vào đâu được. Barney reo lên. “Ông Gumerry!”
Simon và Jane ngơ ngác chạy theo trong khi nó lao sang bên kia phòng.
“Ông Merry!”
“Chào các cháu,” ông già cao lớn vui vẻ nói.
“Nhưng Mẹ bảo ông đang ở Hy Lạp cơ mà!”
“Ông quay về rồi.”
“Ông có biết là sẽ có kẻ đánh cắp chén Thánh không?” Jane hỏi.
Ông chỉ nhướn cao một bên mày rậm bạc trắng nhìn cô bé, nhưng không đáp lại.
Barney hỏi ngay,“Chúng ta phải làm gì bây ạ?”
“Giành lại nó,” Ông Merry nói.
“Cháu đoán là do bọn chúng, phải không ạ?” Simon rụt rè nói. “Phe bên kia ấy? Thế lực Bóng Tối?”.
“Tất nhiên rồi.”
“Thế tại sao chúng lại lấy cả những thứ kia nữa, mấy cái trâm cài và đại loại thế?”
“Để cho có vẻ hợp lý,” Jane nói.
Ông Merry gật đầu. “Cách đó rất hiệu nghiệm. Chúng đã lấy đi những thứ giá trị nhất. Cảnh sát sẽ tưởng rằng chúng chỉ muốn lấy cắp vàng bạc châu báu mà thôi.” Ông nhìn xuống cái tủ kính trống trơn rồi lại ngước lên trên, và cả ba đứa trẻ đều không thể không sững người nhìn vào cặp mắt sâu thẳm tối sẫm của ông, luôn ánh lên tia sáng như một ngọn lửa lạnh lẽo không bao giờ tắt.
“Nhưng ông biết là chúng muốn có chiếc chén Thánh” Ông Merry nói, “chỉ là để tiến tới một cái gì đó khác. Ông biết chúng định làm gì, và ông biết chúng phải bị chặn lại bằng mọi giá. Và ông e rằng ba cháu, với tư cách là người tìm ra chiếc chén, sẽ lại bị triệu đến để giúp đỡ... sớm hơn là ông tưởng nhiều.”
“Thật thế ạ?” Jane chậm rãi hỏi.
“Hết sảy,” Simon nói.
Barney nói, “Tại sao chúng lại lấy cắp chiếc chén đúng lúc này? Có phải như thế có nghĩa là chúng đã tìm thấy bản viết cổ bị mất, bản viết giải thích những mật mã viết trên thành chén không ạ?”
“Không” Ông Merry nói. “Chưa đâu.”.
“Thế thì tại sao...”
“Ông không thể giải thích được, Barney ạ.” Ông thọc hai tay vào túi và đôi vai gầy của ông khom xuống. “Chuyện này có liên quan đến Trewissick, và chắc chắn có liên quan đến bản viết cổ ấy. Nhưng nó cũng thuộc về một điều to lớn hơn nhiều, một điều mà ông không thể giải thích được. Ông chỉ có thể yêu cầu các cháu hãy tin ông, như các cháu đã từng tin tưởng ông trước kia, trong một chặng nữa của cuộc chiến bất tận giữa Ánh Sáng và Bóng Tối. Và yêu cầu các cháu giúp sức, nếu chắc rằng mình có thể giúp được, ngay cả khi không bao giờ hoàn toàn biết được mình sắp phải làm gì.”
Barney gạt món tóc mái vàng nhạt ra khỏi mắt và bình thản nói, “Được thôi ạ.”
“Tất nhiên là chúng cháu muốn giúp rồi.” Simon hăng hái nói.
Jane không nói gì. Ông Merry đưa một ngón tay xuống dưới cằm, nâng mặt em lên và nhìn thẳng vào em. “Jane,” ông nhẹ nhàng nói. “Không có lý do gì để bắt bất kỳ ai trong số các cháu phải tham gia vào việc này nếu cháu không muốn.”
Jane nhìn vào khuôn mặt có những nét rắn rỏi của ông thầm nghĩ rằng trông nó giống hệt như các pho tượng dữ dằn mà mấy anh em đã đi qua khi vào viện bảo tàng. “Ông biết là cháu không sợ mà,” em nói. “Ừm, thật ra cháu cũng hơi sợ một chút, nhưng vừa sợ vừa thích thì đúng hơn. Chỉ có điều, nếu có nguy hiểm gì xảy ra với Barney thì cháu thấy là... cháu biết nó sẽ hét lên với cháu, nhưng nó bé hơn chúng cháu và chúng cháu không nên...”
Mặt Barney đỏ phừng phừng. “Chị Jane!”
“Có la hét thì cũng chẳng ích gì đâu,” Jane kiên quyết nói. “Nếu có chuyện gì xảy ra với em thì bọn chị sẽ phải chịu trách nhiệm, anh Simon và chị.”
“Thế lực Bóng Tối sẽ không thể đụng tới các cháu đâu,” Ông Merry khẽ nói. “Các cháu sẽ được bảo vệ. Đừng lo. Ông hứa với các cháu đấy. Không chuyện gì xảy ra với Barney có thể làm hại nó được.”
Mấy ông cháu mỉm cười với nhau.
“Em đâu phải là đứa lên ba!” Barney giận dữ giậm chân xuống.
“Thôi đi,” Simon nói. “Có ai nói mày thế đâu.”
Ông Merry hỏi, “Khi nào thì các cháu được nghỉ lễ Phục Sinh, Barney?”
Bọn trẻ im lặng một lát.
“Hình như là ngày mười lăm ạ.” Barney cáu kỉnh nói.
“Đúng đấy,” Jane nói. “Anh Simon được nghỉ trước mấy hôm, nhưng cả ba chúng cháu đều nghỉ cùng lúc một tuần.”
“Còn lâu quá nhỉ," Ông Merry nói.
“Quá muộn ạ?” Chúng lo lắng nhìn ông.
“Không, ông không cho là vậy... Liệu có gì ngăn các cháu đến Trewissick ở với ông trong tuần đó không?”
“Không!”
“Không có gì đâu ạ!”.
“Không hẳn thế. Cháu đã định đi dự một hội nghị về môi trường, nhưng cháu có thể bỏ được.” Giọng Simon kéo dài ra rồi ngừng lại, khi nó nghĩ về ngôi làng nhỏ ở Cornwall nơi chúng đã tìm thấy chiếc chén Thánh. Cuộc phiêu lưu gì sắp diễn ra đây thì cũng đã bắt đầu ở đó, tít bên trong cái hang ở vách đá, trên biển khơi và dưới đá thẳm. Và giờ đây ở tâm điểm của mọi việc, cũng như trước kia, sẽ luôn là Ông Merry, Giáo Sư Merriman Lyon, nhân vật kỳ bí nhất trong cuộc sống của chúng, người đã tham gia vào cuộc chiến vô tận giành quyền cai trị thế giới giữa Ánh Sáng và Bóng Tối, vì một lý do nào đó không ai hiểu nổi.
“Ông sẽ nói với bố mẹ các cháu,” Ông Merry bảo.
“Tại sao lại là Trewissick ạ?” Jane hỏi. “Bọn trộm sẽ đem chiếc chén đến đó ạ?”
“Ông nghĩ có thể là thế”
“Chỉ có mỗi một tuần,” Barney nói, trầm ngâm nhìn vào cái tủ kính trống trơn trước mặt. “Không nhiều đối với một cuộc truy lùng. Như thế có đủ thời gian không ạ?”
“Đúng là không dài lắm,” Ông Merry nói. “Nhưng đành phải vậy thôi.”
*
Will tuốt một cọng cỏ và ngồi xuống một tảng đá cạnh cổng trước, chán nản nhấm nhám cọng cỏ. Ánh nắng tháng Tư đang lấp lánh trên những chiếc lá xanh nõn của cụm chanh, một con chim hét ở đâu đó đang sung sướng hót vang bài hát không dứt của mình. Hoa tử đinh hương và quế trúc tỏa hương thơm ngát. Will thở dài. Tất cả đều rất tuyệt, những niềm vui của một mùa xuân ở Buckinghamshire này, nhưng cậu sẽ thích thú tận hưởng chúng hơn nếu có ai đó ở đây chia sẻ kỳ nghỉ Phục Sinh với mình. Một nửa đại gia đình của cậu vẫn còn ở nhà, nhưng James, cậu anh trai kế, đã đi dự trại hướng đạo một tuần, còn cô chị tiếp theo, Mary, thì đã đến nhà họ hàng ở Wales để dưỡng bệnh sau khi bị quai bị. Các anh chị còn lại thì đều bận bịu với những mối quan tâm chán ngắt của người lớn. Làm đứa út trong số chín đứa con khổ thế đấy, tất cả các anh chị dường như đều lớn lên quá nhanh.
Duy có một điều làm chính cậu, Will Stanton, già dặn hơn bất kỳ ai trong số các anh chị, hay bất kỳ người nào trên đời. Chỉ cậu mới biết về cuộc phiêu lưu vĩ đại đã cho cậu biết vào sinh nhật lần thứ mười một rằng mình sinh ra để trở thành người cuối cùng trong số các Cổ Nhân, những hộ vệ Ánh Sáng, được ràng buộc bởi các điều luật bất biến để bảo vệ thế giới khỏi Bóng Tối đang trỗi dậy. Chỉ có cậu mới biết điều đó... nhưng vì cũng chỉ là một cậu bé bình thường, nên lúc này cậu không nghĩ đến nó.
Raq, một con trong đám chó, dụi cái mũi ươn ướt vào tay cậu. Will vuốt ve đôi tai mềm của nó. “Cả một tuần liền,” cậu thủ thỉ với con chó. “Bọn mình sẽ làm gì đây nhỉ? Đi câu cá à?”
Cặp tai giật giật, cái mũi rời khỏi tay cậu, người căng lên cảnh giác, Raq quay đầu về phía con đường. Chỉ lát sau một chiếc taxi đỗ lại ngoài cổng: không phải là chiếc ôtô xập xệ quen thuộc vẫn được dùng làm taxi của làng, mà là một chiếc taxi hẳn hoi, bóng loáng, đến từ thị trấn cách đó ba dặm. Bước ra khỏi xe là một người đàn ông nhỏ thó, đầu hói, nom hơi lôi thôi, mặc áo mưa và xách một cái túi đi đường to đùng không ra hình thù gì. Ông cho chiếc taxi đi, và đứng nhìn Will.
Băn khoăn, Will vội đứng dậy và đi đến bên cổng. “Chào ông ạ” cậu nói.
Người đàn ông đứng trầm tư hồi lâu, rồi toét miệng cười. “Cháu là Will hả,” ông nói. Ông có khuôn mặt tròn xoe nhẵn nhụi và đôi mắt cũng tròn, trông chẳng khác nào một chú cá láu lỉnh.
“Đúng thế ạ,” Will nói.
“Cậu út nhà Stanton. Cậu con trai thứ bảy. Thế là hơn bác một rồi đấy... bác chỉ là đứa thứ sáu thôi.”
Giọng ông nhẹ nhàng và hơi khàn khàn, lơ lớ nửa Anh nửa Mỹ kỳ cục, nguyên âm thì giống người Mỹ, nhưng ngữ điệu lại giống người Anh. Will mỉm cười lịch sự vẻ bối rối.
“Bố cháu mới là đứa thứ bảy trong nhà,” người đàn ông mặc áo mưa nói. Ông lại cười làm đuôi cặp mắt tròn hiện vết chân chim, và chìa tay ra. “Chào. Bác là bác Bill đây.”
“Trời, cháu bất ngờ quá!” Will nói. Cậu bắt tay ông. Bác Bill. Cậu đã được đặt tên theo tên ông (Bill và Will đều là tên gọi tắt của William.) Ông là người anh trai mà bố cậu yêu quý nhất, đã chuyển đến Mỹ sống cách đây lâu lắm rồi và gây dựng được một công ty khá thành đạt... hình như là buôn bán đồ gốm sứ thì phải. Will không nhớ đã từng bao giờ gặp ông chưa; Giáng Sinh mỗi năm cậu đều nhận được một món quà từ Bác Bill không biết mặt, ông cũng là cha đỡ đầu của cậu, và mỗi năm cậu đều viết một lá thư thăm hỏi thông thường để cảm ơn ông, nhưng không bao giờ có thư trả lời.
“Cháu lớn quá nhỉ,” Bác Bill nói khi hai bác cháu đi vào nhà. “Khi bác cháu ta gặp nhau lần trước, cháu chỉ mới là một chú nhóc bé tí tẹo gào khóc trong nôi.”.
“Bác nói nghe như người Mỹ ấy,” Will nói.
“Chẳng có gì lạ,” Bác Bill đáp. “Bác đã là người Mỹ mười năm nay rồi còn gì.”
“Bác chẳng bao giờ trả lời thư Giáng Sinh của cháu.”
“Thế cháu có thấy phật lòng không?”.
“Không, chẳng sao cả ạ.”
Cả hai bác cháu cùng bật cười, và Will tự nhủ là ông bác của cậu cũng không đến nỗi nào. Thế rồi họ đã vào đến nhà, và bố cậu đang từ trên gác xuống; ông đứng khựng lại, mặt đờ ra kinh ngạc.
"Billy!"
"Roger!"
“Chúa ơi” bố Will nói, “tóc anh đâu hết rồi?”
Sum họp với những người họ hàng đã lâu không gặp quả là mất thời gian, nhất là trong những gia đình đông đúc. Họ nói chuyện đến hàng tiếng đồng hồ. Will hầu như đã quên bẵng rằng ban nãy cậu còn rầu rĩ vì không có bạn. Đến lúc ăn trưa thì cậu đã biết được là bác Bill và bác gái Fran đang ở Anh thăm các xưởng gốm ở Staffordshire và vùng sản xuất gốm ở Cornwall, nơi họ có công chuyên làm ăn phức tạp gì đó kiểu người Mỹ gốc Anh.
Cậu đã nghe kể về hai người con đã lớn của họ, có lẽ là cũng ngang tuổi với ông anh cả Stephen của cậu, và cậu đã được kể nhiều hơn những gì muốn biết về bang Ohio và nghề làm gốm sứ. Bác Bill rõ ràng là rất phát đạt, nhưng hình như đây mới chỉ là lần thứ hai bác quay về Anh kể từ khi di cư hai mươi năm trước. Will thích cặp mắt tròn sáng lấp lánh và giọng nói khàn khàn ngắn gọn của bác. Cậu vừa mới cảm thấy tình hình kỳ nghỉ một tuần của mình đã khá khẩm lên bao nhiêu thì lại được biết rằng bác Bill chỉ ở lại có một đêm nhân tiện đường đi công chuyện từ London về, và sẽ lên đường đến Cornwall ngày hôm sau để gặp bác gái. Cậu lại thấy buồn xỉu.
“Một ông bạn sẽ đến đón tôi, và hai người chúng tôi sẽ lái xe xuống đó. Nhưng tôi bảo này, Frannie và tôi sẽ đến ở với chú thím mấy ngày khi chuẩn bị quay về Mỹ. Ấy là nếu chú thím chịu nhận chúng tôi.”
“Em mong là thế,” mẹ Will nói. “Sau mười năm trời mà chỉ có vài ba lá thư thì anh ạ, anh không thể chỉ ở đây vỏn vẹn có hai tư tiếng đồng hồ được.”
“Bác ấy có gửi quà cho con, “Will nói. “Giáng Sinh nào cũng thế.”
Bác Bill cười với cậu. “Thím Alice này,” đột nhiên bác quay sang bà Stanton nói, “nhân dịp Will tuần này đang được nghỉ học, và cũng chẳng bận gì lắm, sao chú thím không để tôi đưa nó xuống Cornwall chơi nhỉ? Đến cuối tuần tôi sẽ cho nó đi tàu về. Chúng tôi đã thuê một căn nhà rộng hơn cần thiết nhiều. Và ông bạn tôi cũng có mấy đứa cháu theo cùng, tôi nghĩ là chúng nó cũng bằng tuổi Will đấy.”
Will nghẹn thở reo lên một tiếng, rồi lo lắng đưa mắt nhìn bố mẹ. Trán cau lại nghiêm nghị, họ bắt đầu một bản song ca chẳng cần nghe cũng đoán được.
“Vâng, như thế thì thật là tốt quá...”
“Liệu anh có chắc rằng cháu nó sẽ không...”
“Hẳn nó sẽ rất thích...
“Nếu chị Frannie không thấy...”
Bác Bill nháy mắt với Will. Will đi lên gác và bắt đầu xếp đồ vào balô. Cậu xếp năm đôi tất, năm bộ đồ lót để thay, sáu áo sơ mi, một áo len chui đầu và một áo khoác, hai quần soóc, và một đèn pin. Rồi cậu sực nhớ ra là ông bác đến mai mới khởi hành, nhưng bây giờ mà lại dỡ đồ ra thì thật là ngớ ngẩn. Cậu liền chạy xuống nhà, chiếc balô nảy tưng tưng trên lưng như một quả bóng đá bơm quá căng.
Mẹ cậu bảo, “Thôi, Will, nếu con thật sự muốn...Ồ”
“Chúc con vui vẻ, Will,” bố cậu nói.
Bác Bill bật cười. “Xin phép chú thím” ông nói “Cho tôi dùng nhờ điện thoại...”
“Để cháu chỉ cho bác.” Will dẫn ông ra sảnh. “Không nhiều đồ quá chứ ạ?” cậu hỏi, nghi ngại liếc nhìn cái balô căng phồng.
“Không sao đâu.” Bác cậu đang quay số. “Alô? Xin chào, Merry. Mọi chuyện OK chứ? Tốt. Chỉ thêm một việc nữa thôi. Thằng cháu út của tôi sẽ đi theo một tuần. Nó không có nhiều hành lý lắm đâu,” ông toét miệng cười với Will, "nhưng tôi nghĩ là nên báo trước để ông không lái một cái xe hai chỗ ngồi bé tí hin đến... Ha ha. Không, không hợp với ông lắm... được rồi, tuyệt, hẹn gặp ông ngày mai.” Rồi ông gác máy.
“Rồi, anh bạn,” ông nói với Will. “Sáng mai chín giờ sẽ lên đường. Như thế được chứ, thím Alice?” ông hỏi bà Staton đang bừng khay trà đi ngang qua sảnh.
“Được ạ” bà đáp lại.
Từ khi bác Bill bắt đầu nói chuyện qua điện thoại, Will đã đứng như trời trồng. “Merry à?” cậu chậm rãi nói. “Cái tên nghe lạ nhỉ.”
“Lạ lắm phải không?” ông bác nói. “Một người cũng rất lạ. Ông ấy dạy ở trường Oxford đấy. Một bộ óc lỗi lạc, nhưng bác đoán là cháu sẽ thấy ông ấy hơi kỳ cục... rất nhút nhát, ghét gặp người lạ. Dù sao thì ông ấy cũng rất đáng tin cậy,” ông vội nói thêm với bà Stanton. “Và là một tài xế tuyệt hảo.”
“Có chuyện gì vậy, Will?” mẹ cậu hỏi. “Trông con như vừa nhìn thấy ma ấy. Con có sao không?”
“Không sao ạ? Will nói. “Không. Con chẳng sao hết.”
*
Simon, Jane và Barney loay hoay đi ra khỏi ga St Austell, tay xách lỉnh kỉnh vali, túi giấy, áo mưa và sách. Đám đông trên chuyến tàu từ London đến đang thưa dần xung quanh chúng, biến vào những chiếc ôtô, xe buýt, taxi.
“Ông nói là ông sẽ đến đón bọn mình mà, phải không?”
“Tất nhiên là ông sẽ đến rồi.”
“Chị chẳng thấy ông đâu cả.”
“Ông chỉ đến muộn một tẹo thôi mà.”
“Ông Merry có đến muộn bao giờ đâu.”
“Bọn mình nên xem xe buýt đến Trewissick rời bến ở đâu, để đề phòng trước.”.
“Không, ông kia rồi, em thấy ông rồi. Em đã bảo là ông không bao giờ đến muộn mà.” Barney nhảy cẫng lên, tay vẫy vẫy. Rồi nó dừng lại. “Nhưng ông không đi một mình. Có một người nữa đi cùng với ông.” Một thoáng giận dữ len vào giọng nói của nó. “Và một thằng nhóc.”
*
Một chiếc xe bấm còi dứt khoát một, hai, ba lần, ngoài cửa nhà Stanton.
“Đi nào,” Bác Bill nói, xách chiếc túi của mình, và cái balô của Will lên.
Will vội vã hôn tạm biệt bố mẹ, lảo đảo dưới sức nặng của chiếc túi khổng lồ đựng nào là bánh sandwich, phích nước nóng và đồ uống ướp lạnh mà mẹ đã chất lên tay cậu.
“Con phải ngoan đấy nhé,” bà dặn.
“Tôi nghĩ là Merry sẽ không ra khỏi xe đâu.” Bác Bill nói với bà trong khi họ đi ra cổng. “Ông ấy rụt rè lắm, thím đừng để ý. Nhưng ông ấy là một ông bạn tốt. Cháu sẽ mến ông ấy đấy, Will ạ.”
Will nói, “Cháu dám chắc là thế”.
Ở cuối con đường, một chiếc Daimler to tướng cổ kính đang đứng đợi.
“Ái chà,” bố Will nói vẻ kính nể.
“Thế mà tôi cứ lo là không có chỗ đấy!” Bác Bill nói. “Tôi phải đoán được là ông ấy sẽ lái một cái xe như thế này mới phải. Thôi, chào cả nhà. Will, cháu lên ngồi ghế trước đi.”
Sau một hồi chào tạm biệt rối rít, họ trèo lên chiếc xe sang trọng; một người quấn khăn đang khom mình ôm lấy bánh lái, trên đầu đội một cái mũ lông màu nâu nom thật khiếp.
“Merry,” bác Bill nói khi họ lái xe đi, “đây là cháu và con trai đỡ đầu của tôi. Will Stanton, bác này là Merriman Lyon.”
Người lái xe ném chiếc mũ xấu xí sang một bên, và một mớ tóc bạc trắng được giải thoát liền dựng đứng lên bù xù. Cặp mắt tối sẫm thâm quầng liếc nhìn Will trên khuôn mặt trông nghiêng đầy kiêu hãnh với cái mũi khoằm.
“Xin chào, Cổ Nhân,” một giọng nói quen thuộc vang lên trong đầu Will.
“Được gặp ông thật là tuyệt,” Will vui mừng đáp lại trong đầu.
“Chào cháu, Will Stanton,” Merriman nói.
“Chào ông ạ” Will nói.
*
Suốt dọc đường từ Buckinghamshire đến Cornwall, mọi người trò chuyện không ngừng, nhất là sau bữa trưa dã ngoại, khi ông bác của Will thiếp đi và ngủ li bì trên cả quãng đường còn lại.
Cuối cùng Will nói, “Tức là Simon, Jane và Barney không hề hay biết là phe Bóng Tối đã sắp đặt thời điểm đánh cắp chiếc chén Thánh để kịp lễ kết Phù Thủy Xanh?”
“Chúng chưa bao giờ nghe nói đến Phù Thủy Xanh” Merriman nói. “Cậu sẽ có đặc quyền nói cho chúng biết. Tất nhiên là thân mật như nói chuyện bình thường thôi.”
“Hừm,” Will nói. Cậu đang nghĩ đến một việc khác. “Cháu sẽ thấy khá hơn nhiều nếu như chúng ta biết được thế lực Bóng Tối có hình dạng ra sao.”
“Một trở ngại cũ. Không có cách nào giải quyết được.” Merriman liếc nhìn cậu, một bên mày rậm bạc trắng nhướn lên. “Chúng ta chỉ phải đợi xem sao thôi. Và ta nghĩ là chúng ta sẽ không phải đợi lâu đâu...”
Khá muộn chiều hôm đó chiếc Daimler mới trang trọng rồ máy tiến vào sân trước nhà ga St Austell ở Cornwall. Will thấy giữa đống hành lý là một cậu bé lớn hơn cậu một chút, mặc áo vét đồng phục học sinh và có vẻ biết rõ mình là người chỉ huy; một cô bé cao bằng nó, mái tóc dài buộc kiểu đuôi ngựa, mặt lo lắng; và một chú bé với mái tóc vàng nhạt gần như thành màu bạch kim, đang bình thản ngồi trên một cái vali nhìn họ tiến lại gần.
“Nếu họ không được biết gì về cháu” cậu dùng thần giao cách cảm của Cổ Nhân nói với Merriman, “thì cháu nghĩ là họ sẽ ghét cháu thậm tệ cho xem.”
“Điều đó có thể đúng” Merriman nói. “Nhưng tình cảm riêng tư của bất cứ ai trong chúng ta cũng không quan trọng, nếu đem ra so sánh với tính cấp bách của sứ mệnh này.”
Will thở dài. “Hãy để mắt đến Phù Thủy Xanh,” cậu nói.
CHƯƠNG MỘT
Tiến >>
Nguồn: https://ebookvie.com/
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 12 tháng 4 năm 2025