- CHƯƠNG 1
- CHƯƠNG 2
- CHƯƠNG 3
- CHƯƠNG 4
- CHƯƠNG 5
- CHƯƠNG 6
- CHƯƠNG 7
- CHƯƠNG 8
- CHƯƠNG 9
- CHƯƠNG 10
- CHƯƠNG 11
- CHƯƠNG 12
- CHƯƠNG 13
- CHƯƠNG 14
- CHƯƠNG 15
- CHƯƠNG 16
- CHƯƠNG 17
- CHƯƠNG 18
- CHƯƠNG 19
- CHƯƠNG 20
- CHƯƠNG 21
- CHƯƠNG 22
- CHƯƠNG 23
- CHƯƠNG 24
- CHƯƠNG 25
- CHƯƠNG 26
- CHƯƠNG 27
- CHƯƠNG 28
- CHƯƠNG 29
- CHƯƠNG 30
- CHƯƠNG 31
- CHƯƠNG 32
- CHƯƠNG 33
- CHƯƠNG 34
- CHƯƠNG 35
- CHƯƠNG 36
- CHƯƠNG 37
- CHƯƠNG 38
- CHƯƠNG 39
- CHƯƠNG 40
- CHƯƠNG 41
- CHƯƠNG 42
- CHƯƠNG 43
- CHƯƠNG 44
- CHƯƠNG 45
- CHƯƠNG 46
- CHƯƠNG 47
- CHƯƠNG 48
- CHƯƠNG 49
- CHƯƠNG 50
- CHƯƠNG 51
- CHƯƠNG 52
- CHƯƠNG 53
- CHƯƠNG 54
- CHƯƠNG 55
- CHƯƠNG 56
- CHƯƠNG 57
- CHƯƠNG 58
- CHƯƠNG 59
- CHƯƠNG 60
- CHƯƠNG 61
- CHƯƠNG 62
- CHƯƠNG 63
- CHƯƠNG 64
- CHƯƠNG 65
- CHƯƠNG 66
- CHƯƠNG 67
- CHƯƠNG 68
- PHẦN KẾT
- Thư gửi độc giả
- Lời cảm ơn
Dành tặng Mera
*
Tháng Sáu năm 2001
Tôi vừa bước sang tuổi ba mươi khi chiếc thủy phi cơ chở T.J.Callahan và tôi đâm sầm xuống Ấn Độ Dương. T.J lúc đó mười sáu tuổi, mới hồi phục được ba tháng sau quãng thời gian đấu tranh với bệnh máu trắng. Người phi công tên là Mick, nhưng anh ấy đã chết trước khi chúng tôi đâm xuống đại dương.
Bạn trai tôi, John, đã đưa tôi đến sân bay mặc dù anh ấy chỉ đứng thứ ba trong số những người tôi muốn nhờ vả, sau mẹ tôi và chị gái tôi, Sarah. Chúng tôi chen chúc giữa đám đông, tay kéo những chiếc vali to đùng có bánh xe, tôi tự hỏi có phải hôm nay tất cả dân Chicago đều đổ về đây để bay đến một nơi nào đó hay không. Cuối cùng khi chúng tôi tới được quầy bán vé của hãng US Airways, nhân viên bán vé tươi cười, dán nhãn hành lý và trao cho tôi vé lên máy bay.
“Xin cảm ơn, cô Emerson. Tôi đã đăng ký vé cho cô từ đây đến tận Malé. Chúc cô một chuyến bay an toàn”.
Nhét vé máy bay vào túi xách, tôi quay sang tạm biệt John. “Cảm ơn anh đã đưa em đến đây”.
“Anh sẽ đi cùng em thêm một đoạn”.
“Không cần đâu”, tôi lắc đầu.
Anh ấy do dự, “Nhưng anh muốn thế”.
Chúng tôi cùng bước đi trong im lặng, nối đuôi theo đám đông hành khách đang nhích dần từng bước một. Khi đến cửa lên máy bay, John hỏi, “Thằng bé ấy trông thế nào?”
“Gầy gò và trọc lốc”.
Tôi nhìn lướt qua đám đông và mỉm cười khi thấy T.J bởi một bộ tóc nâu ngắn đã che kín đỉnh đầu thằng bé. Tôi vẫy tay, nó ra hiệu nhận ra tôi bằng một cái gật đầu trong khi thằng bé ngồi cạnh đang không ngừng huých cùi chỏ vào sườn nó.
“Thằng bé còn lại là ai vậy?”, John hỏi.
“Em nghĩ đấy là Ben, bạn nó”.
Ngồi ngả ngốn trên những chiếc ghế, chúng ăn vận theo đúng mốt của những cậu bé mười sáu tuổi: quần ngố thể thao vừa dài vừa thụng, áo phông và giầy tennis không buộc dây. Một cái ba lô màu xanh hải quân dựng dưới chân T.J.
“Em có chắc đây là công việc em muốn làm không?”, John hỏi. Anh ấy đút tay vào túi sau quần, nhìn chăm chú vào tấm thảm đã mòn vẹt trên sàn sân bay.
Ờ thì, một trong hai chúng ta sẽ phải làm gì đó thôi. “Có”.
“Em đừng quyết định bất cứ điều gì trước khi quay trở lại, nhé?”
Tôi đã cố nhịn để không mỉa mai câu nói của John. “Em đã nói là sẽ không làm thế mà”.
Thực ra chỉ có một lựa chọn duy nhất. Và tôi đã lựa chọn sẽ không đưa ra bất cứ quyết định nào cho đến cuối mùa hè.
John vòng tay quanh eo và hôn tôi, nụ hôn kéo dài lâu hơn vài giây so với lệ thường ở những nơi công cộng thế này. Tôi cảm thấy bối rối nên giằng ra khỏi vòng tay anh ấy. Từ khóe mắt, tôi thấy T.J và Ben đang chăm chú theo dõi.
“Anh yêu em”, John nói.
Tôi gật đầu. “Em biết”.
Khẽ thở dài, anh ấy nhặt hành lý của tôi lên và quàng dây qua vai tôi. “Chúc em có một chuyến bay an toàn. Gọi cho anh khi đến nơi nhé”.
“Vâng”.
John rời đi còn tôi lặng lẽ nhìn đám đông đang dần nuốt chửng anh ấy, rồi đưa tay vuốt lại vạt áo và bước về phía hai cậu nhóc.
Chúng cụp mắt nhìn xuống khi thấy tôi bước đến. “Chào T.J. Trông em có vẻ rất khỏe. Em đã sẵn sàng đi chưa?”
Đôi mắt nâu của thằng bé nhìn tôi trong chốc lát. “Vâng, chắc rồi”. Nó đã béo lên, mặt mũi trông không còn xanh xao nữa. Nó mang niềng răng, tôi không để ý thấy điều này trong lần gặp mặt trước, và nó có một cái sẹo nhỏ trên cằm.
“Xin chào, chị tên Anna”, tôi nói với thằng bé ngồi kế bên T.J. “Em chắc hẳn là Ben. Buổi tiệc của em thế nào?”
Cậu ấy liếc T.J vẻ bối rối. “Ờ, cũng được ạ”.
Tôi lôi điện thoại di động ra xem giờ. “Chị sẽ quay lại ngay, T.J. Chị muốn kiểm tra thông tin về chuyến bay một chút”.
Lúc dợm bước đi, tôi nghe thấy tiếng thằng Ben nói, “Thằng khỉ, chị bảo mẫu của mày quá nóng bỏng luôn ấy chứ”.
“Chị ấy là gia sư của tao, đồ khốn”.
Mấy từ ngữ ấy dội đến tai tôi. Tôi dạy trường cấp 3, và vì thế, luôn coi những lời nhận xét kiểu như vậy từ những thằng bé với mức hoóc môn đang tăng vọt chỉ như những lời khen vô hại.
Sau khi chắc rằng chúng tôi vẫn bay đúng giờ, tôi quay lại, ngồi vào chiếc ghế trống bên cạnh T.J. “Ben về rồi à?”
“Vâng. Mẹ nó đã phát mệt khi cứ phải lái xe lòng vòng trong sân bay. Nó không chịu cho mẹ nó vào đây”.
“Em có muốn ăn gì không?”
Thằng bé lắc đầu. “Em không đói”.
Chúng tôi ngồi thừ ra trong nỗi im lặng xa cách đến khi được lên máy bay. T.J nối gót tôi bước dọc theo lối đi hẹp dẫn đến dãy ghế hạng thương gia. “Em có muốn ngồi cạnh cửa sổ không?”, tôi hỏi.
T.J nhún vai. “Có. Cảm ơn chị nhé”.
Tôi bước sang bên cạnh, đợi đến khi thằng bé ngồi xuống, rồi lục đục ngồi xuống cạnh nó và cài chặt dây an toàn. Nó lôi từ ba lô ra một cái máy nghe nhạc cầm tay và đeo tai nghe vào, một cách tế nhị để tôi hiểu rằng nó chẳng thiết tha gì một cuộc trò chuyện. Tôi lôi từ trong hành lý xách tay ra một cuốn sách, tổ phi công cất cánh, vậy là chúng tôi rời Chicago.
Mọi chuyện bắt đầu tệ hại khi chúng tôi đến Đức. Nhẽ ra chỉ mất hơn mười tám tiếng một chút để bay từ Chicago đến Malé - thủ đô của quốc đảo Malpes - nhưng sau một loạt vấn đề về kỹ thuật và thời tiết xấu, chúng tôi phải hoãn liên tục và đành phải ở lại sân bay quốc tế Frankfurt đến hết nửa đêm, chờ được lên máy bay để tiếp tục cuộc hành trình. T.J và tôi cùng ngồi trên dãy ghế bằng nhựa cứng như đá vào lúc 3 giờ sáng sau khi đã chắc chắn sẽ có sẵn hai ghế trên chuyến bay tiếp theo. Thằng bé dụi mắt luôn tay.
Tôi chỉ một dãy ghế trống. “Em có thể nằm xuống nghỉ một lúc nếu muốn”.
“Em ổn”, thằng bé đáp, cố giấu một cái ngáp dài. “Chúng ta còn mắc kẹt lại đây thêm vài tiếng đồng hồ nữa cơ. Em nên ngủ một chút”.
“Chị không mệt à?”
Tôi gần như kiệt sức, nhưng có lẽ T.J cần nghỉ ngơi hơn. “Chị ổn. Em cứ tự nhiên”.
“Chị chắc chứ?”
“Chắc trăm phần trăm”.
“Được thôi”. Thằng bé cười uể oải. “Cảm ơn chị nhé”. Nó vươn vai ngả lưng trên mấy chiếc ghế và ngủ ngay lập tức.
Tôi nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ, ngắm những chiếc máy bay hạ cánh rồi lại cất cánh, những đốm đèn đỏ của chúng nhấp nháy liên hồi trên bầu trời đêm đen kịt. Luồng gió lạnh lẽo phả ra từ những cái máy điều hòa không khí khiến tôi nổi da gà, run rẩy trong tà váy mỏng manh và chiếc áo sát nách. Tôi bước vào một toa lét gần đó, thay quần jeans cùng chiếc áo phông dài tay mà tôi đã sắp sẵn trong hành lý xách tay, sau đó mua một ly cà phê. Khi trở lại ngồi cạnh T.J, tôi lôi cuốn sách ra tiếp tục nghiền ngẫm, cho đến khi phải đánh thức thằng bé dậy ba giờ sau đó để kịp lên máy bay.
Chào đón chúng tôi ở sân bay Sri Lanka là một loạt những cuộc hoãn bay khác - lần này thì bởi thiếu nhân viên tổ bay tính đến khi hạ cánh - được ở sân bay quốc tế Malé tại Malpes và còn cách khu nhà nghỉ mùa hè mà nhà Callahan đã thuê tận hai tiếng bay bằng thủy phi cơ, tôi đã thức trắng ba mươi giờ đồng hồ liên tục. Hai thái dương tôi giật giật liên hồi, hai mắt vừa cộm vừa nhức, càng lúc càng trở nên bỏng rát. Khi nhân viên quầy vé nói chúng tôi không đặt trước chuyến thủy phi cơ tiếp theo, nước mắt đã thi nhau chảy ra mỗi lần tôi chớp mắt.
“Nhưng tôi có mã số đặt vé đây”, tôi nói với nhân viên, đồng thời đẩy mẩu giấy qua quầy vé. “Tôi đã đặt chỗ trước khi rời Sri Lanka. Hai ghế. T.J. Callahan và Anna Emerson. Anh xem lại giúp tôi được chứ?”
Nhân viên quầy vé kiểm tra lại máy tính. “Tôi rất tiếc,” anh ấy nói. “Tên chị không có trong danh sách hành khách. Thủy phi cơ thì hết chỗ mất rồi”.
“Thế chuyến bay sắp tới thì sao?”
“Trời sẽ tối sập rất nhanh. Mà thủy phi cơ không được phép bay sau khi mặt trời lặn”. Để ý thấy vẻ mặt thảm hại của tôi, anh ấy gõ gõ trên máy tính một cách đầy thông cảm, đoạn nhấc điện thoại lên. “Để xem tôi có thể giúp gì thêm được cho chị không nhé”.
“Cảm ơn anh”.
T.J và tôi bước đến một quầy lưu niệm nhỏ, và tôi mua hai chai nước. “Em có muốn một chai không?” “Không, cảm ơn”.
“Sao em không cất chai này vào ba lô nhỉ,” tôi nói, đưa một chai cho thằng bé. “Sẽ có lúc em khát nước đấy”.
Tôi lôi từ túi xách ra một hộp Tylenol(*), đổ hai viên ra tay, nuốt trôi chúng với một chút nước. Chúng tôi ngồi xuống dãy ghế, và tôi gọi điện cho mẹ T.J, Jane, để báo với bà ấy rằng chúng tôi sẽ không có mặt trước sáng hôm sau.
“Có thể họ sẽ thu xếp được cho chúng tôi lên một chuyến bay, nhưng tôi không nghĩ sẽ bay được trong đêm nay. Chiếc thủy phi cơ không được phép bay sau khi trời tối, thế nên có lẽ chúng tôi sẽ qua đêm ở sân bay”.
“Tôi rất tiếc, Anna. Chắc cô phải mệt lắm”, bà ấy nói.
“Tôi ổn mà, thật đấy. Chắc chắn chúng tôi sẽ đến nơi vào ngày mai”. Tôi lấy tay che điện thoại và hỏi: “Em có muốn nói chuyện với mẹ không?” T.J nhăn mặt, lắc đầu.
Tôi nhận thấy người bán vé đang vẫy tay về phía chúng tôi. Anh ấy đang mỉm cười. “Jane, nghe này, tôi nghĩ là chúng tôi có thể…”, nhưng cuộc gọi đã bị ngắt. Tôi bỏ điện thoại vào trong túi xách tay, nín thở rảo bước đến quầy vé.
“Một trong số những phi công riêng của chúng tôi có thể chở hai vị đến hòn đảo”, nhân viên quầy vé nói. “Những hành khách của anh ấy đã bị hoãn chuyến bay tại Sri Lanka và họ sẽ không thể tới đây cho đến tận sáng mai”.
Tôi thở phào và mỉm cười. “Thật tuyệt. Cảm ơn anh vì đã thu xếp cho chúng tôi một chuyến bay. Tôi rất cảm kích”. Tôi cố gắng gọi lại cho bố mẹ T.J, nhưng điện thoại của tôi đã ngoài vùng phủ sóng. Hi vọng khi đến đảo tôi sẽ có sóng điện thoại trở lại. “Sẵn sàng chưa, T.J?”
“Vâng,” nó trả lời trong lúc xốc lại chiếc ba lô. Một chiếc xe buýt mini thả chúng tôi ở khu trực thăng. Sau khi được đăng ký ở quầy, chúng tôi bước ra chỗ đỗ trực thăng.
Khí hậu vùng Malpes làm tôi nhớ đến phòng xông hơi ở trung tâm tập gym của mình. Mồ hôi ngay lập tức túa đầy trên trán và sau gáy tôi. Chiếc quần jeans và áo phông dài tay dường như đang nhốt hơi nóng lẫn khí ẩm bên trong người tôi, khiến tôi ước gì đã thay sang đồ mát hơn trước khi ra đây.
Chẳng nhẽ ở đây lúc nào cũng ngột ngạt thế này sao?
Một nhân viên sân bay đứng cạnh cửa một chiếc thủy phi cơ đang đỗ bồng bềnh trên mặt biển. Anh ấy khẽ gật đầu với chúng tôi. Khi T.J và tôi bước đến gần, anh ấy mở cửa, đưa chúng tôi vào phía trong. Phi công vẫn đang ngồi trên ghế lái, cười với chúng tôi một nụ cười đầy bánh kẹp phô mai.
“Xin chào, tôi là Mick”. Anh ấy đã thôi nhồm nhoàm nhai và nuốt được miếng bánh to bự xuống. “Hi vọng quý vị không phiền nếu tôi ăn nốt bữa tối chứ”. Nhìn Mick khoảng ngoài năm mươi tuổi, béo phì đến mức khó lòng ngồi vừa chiếc ghế lái. Anh ấy mặc một chiếc quần ngố của hãng bay cùng một chiếc áo phông nhuộm lòe loẹt to nhất mà tôi từng thấy. Hai chân anh ấy để trần. Mồ hôi đọng thành giọt trên viền môi và trên trán, anh ấy chén nốt miếng cuối chiếc bánh kẹp rồi lau mặt bằng một tờ giấy ăn.
“Tôi là Anna và đây là T.J”, tôi giới thiệu, vừa mỉm cười vừa bắt tay anh phi công. “Tất nhiên chúng tôi không thấy phiền”.
Chiếc DHC-6 hai động cơ có mười chỗ ngồi, bốc mùi xăng và ẩm mốc. T.J thắt dây an toàn, chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi ngồi ghế phía bên kia, nhét túi và hành lý xách tay xuống dưới ghế, hai tay xoa xoa mắt. Mick bắt đầu khởi động động cơ. Tiếng ồn át cả tiếng nói của Mick nhưng nhìn anh ấy quay đầu và mấp máy môi là tôi đoán rằng anh ấy đang liên lạc với ai đó qua tai nghe. Anh ấy bẻ lái rời khỏi bến đỗ, tăng tốc, rồi chúng tôi dần bay lên.
Tôi bắt đầu nguyền rủa việc mình không thể ngủ trên máy bay. Tôi luôn luôn ghen tị với những người có thể ngủ ngay khi máy bay vừa cất cánh và không hề tỉnh giấc cho đến khi bánh máy bay lại chạm đất. Tôi cố gắng chợp mắt, nhưng ánh sáng mặt trời xuyên qua cửa máy bay, cộng với đồng hồ sinh học đang rối loạn khiến việc chợp mắt chút xíu cũng trở nên xa xỉ. Khi tôi chịu thua và đành mở mắt, T.J đang nhìn tôi chằm chằm. Mặt cậu bé đỏ lựng chắc cũng không kém mặt tôi lúc này là mấy. Nó quay đi, lúi húi nhét chiếc ba lô xuống gầm ghế, và vài phút sau đã chìm trong giấc ngủ.
Không thể ngủ được, tôi đành tháo dây an toàn, đoạn đi lại phía Mick hỏi xem còn bao lâu nữa thì chúng tôi hạ cánh.
“Có lẽ khoảng một tiếng nữa”. Anh ấy chỉ tay vào ghế lái phụ. “Cô có thể ngồi đây nếu muốn”.
Tôi ngồi xuống, thắt dây an toàn. Cố mở to mắt dưới ánh mặt trời gắt gao, tôi thu vào tầm mắt phong cảnh tuyệt trần. Bầu trời trong vắt không một gợn mây vẽ lên màu xanh cô ban hoàn hảo phía trên đầu. Còn dưới chân là dòng nước pha lẫn giữa màu xanh bạc hà dịu mát với màu xanh ngọc lam lóng lánh của Ấn Độ Dương.
Mick dùng một nắm tay xoa ngực, đoạn với lấy một viên giảm nồng độ axit. Tống một viên vào miệng, anh ấy giải thích, “Chứng sôi dạ dày. Cứ khi nào ăn bánh kẹp phô mai là tôi lại bị thế. Nhưng cô biết đấy, mấy cái bánh ấy ăn đứt mấy đĩa sa lát nhạt toẹt”. Anh ấy cười phá lên còn tôi thì gật gù đồng ý.
“Thế hai người từ đâu tới?”
“Chicago”.
“Cô làm gì ở Chicago?” Anh ấy lại uống thêm một viên giảm axit.
“Tôi là giáo viên tiếng Anh lớp 10”.
“À, vậy là cô đi nghỉ hè”.
“Thực ra thì không phải kỳ nghỉ của tôi. Tôi vẫn thường làm gia sư vào kỳ nghỉ hè”. Tôi ra dấu về phía T.J. “Bố mẹ cậu bé thuê tôi làm gia sư cho nó để nó theo kịp tiến độ trên lớp. Thằng bé bị máu trắng và phải nghỉ học rất nhiều”.
“Tôi cũng thấy cô quá trẻ nên không thể là mẹ thằng bé đó được”.
Tôi mỉm cười. “Bố mẹ và chị của thằng bé đã bay tới đây vài ngày trước rồi”.
Tôi không thể bay sớm cùng nhà Callahan vì trường công mà tôi đang dạy bắt đầu kỳ nghỉ hè muộn hơn vài ngày so với trường tư của T.J. Khi T.J biết điều đó, nó đã nằn nì bố mẹ cho phép ở lại Chicago đến hết tuần và sẽ bay cùng tôi. Bà Jane Callahans đã gọi để hỏi tôi liệu như vậy có phiền cho tôi không.
“Ben, bạn của T.J tổ chức một bữa tiệc. Thăng bé rất muốn tham dự. Cô có chắc là sẽ không phiền không?”, bà ấy hỏi.
“Không sao đâu”, tôi trả lời. “Chúng tôi sẽ có cơ hội để hiểu nhau hơn mà”.
Trước đó tôi mới chỉ gặp T.J có một lần, khi đến trao đổi với bố mẹ nó. Chắc phải mất thời gian thì thằng bé mới cởi mở được; làm việc với học sinh mới bao giờ cũng thế, nhất là một cậu nhóc tuổi ẩm ương.
Giọng nói của Mick cắt ngang suy nghĩ của tôi. “Cô sẽ ở đây trong bao lâu?”
“Cả mùa hè. Họ đã thuê nhà trên đảo rồi”.
“Thế bây giờ thằng bé khỏe chưa?”
“Vâng. Bố mẹ nó nói thằng bé đã rất ốm yếu trong một khoảng thời gian dài, nhưng đang hồi phục được vài tháng nay”.
“Thật là một địa điểm tuyệt vời cho một công việc mùa hè đấy nhỉ”.
Tôi cười, “Hơn hẳn thư viện là cái chắc”.
Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình trong im lặng thêm một lúc. “Thực sự là có tới 1200 hòn đảo ở dưới kia cơ à?”, tôi hỏi. Tôi mới chỉ đếm được ba hay bốn đảo, nổi lên giữa đại dương như những miếng ghép hình khổng lồ. Tôi đợi câu trả lời của anh ấy. “Mick ơi?”
“Gì cơ? À ừ, khoảng khoảng đó. Chỉ có chừng 200 đảo là có người ở, nhưng tôi nghĩ cứ đà phát triển thế này thì con người sẽ có mặt trên nhiều đảo hơn nữa. Cứ mỗi tháng lại có thêm một khách sạn hoặc khu nghỉ dưỡng khai trương”. Anh ấy cười khúc khích: “Ai cũng muốn có một mảnh của thiên đường”.
Mick lại xoa ngực lần nữa, đưa tay trái lên khỏi cần số, duỗi ra trước mặt. Tôi để ý thấy vẻ mặt đau đớn và những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán anh. “Anh không sao chứ?”
“Tôi ổn, chỉ là chưa bao giờ tôi bị sôi dạ dày đến mức này thôi”. Anh ấy uống thêm hai viên giảm axit và vò nát cái vỏ thuốc rỗng.
Một cảm giác bất ổn chợt vụt qua tâm trí tôi. “Anh có muốn tôi gọi ai giúp đỡ không? Nếu anh hướng dẫn tôi cách dùng radio, tôi sẽ gọi”.
“Không cần đâu, khi nào thuốc có tác dụng là tôi đỡ ngay ấy mà”. Anh ấy hít một hơi thật sâu rồi mỉm cười: “Dù sao cũng cảm ơn cô”.
Mick có vẻ ổn được một lúc, nhưng mười phút sau anh ấy rút tay khỏi cần số, không ngừng xoa xoa bên vai trái. Mồ hôi chảy ròng ròng trên khuôn mặt anh. Từng nhịp thở nông dần, Mick ngồi ngả hẳn ra trên ghế lái vì xoay xở mãi cũng không tìm được tư thế phù hợp. Cảm giác bất an của tôi đã trở thành nỗi sợ hãi.
T.J tỉnh dậy. “Chị Anna”, nó gọi, đúng ra là hét lên để át tiếng động cơ. Tôi quay lại. “Mình sắp đến nơi chưa?”
Tôi tháo dây bảo hiểm, quay về ngồi ghế cạnh T.J. Tôi không muốn phải hét lên nên kéo thằng bé lại gần và nói, “Nghe này, chị nghĩ Mick đang lên cơn đau tim. Anh ấy bị đau ngực, nhìn rất tệ nhưng lại cứ nghĩ là bị sôi dạ dày”.
“Cái gì! Chị không đùa đấy chứ?”
Tôi gật đầu. “Bố chị đã may mắn sống sót sau một cơn đau tim nặng vào năm ngoái, nên chị biết chắc chắn. Chị nghĩ anh ấy sợ nên không dám thú nhận thôi”.
“Thế còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có lái được cái máy bay này không?”
“Chị không biết”.
T.J và tôi cùng bước tới ghế lái. Mick đã dùng cả hai tay ấn vào ngực, hai mắt nhắm nghiền. Tại nghe của anh ấy đã lệch sang một bên còn mặt xám ngoét đi.
Tôi ngồi xuống bên cạnh anh ấy, cảm giác sợ hãi bao trùm. “Mick”. Giọng tôi hốt hoảng. “Chúng ta cần gọi trợ giúp ngay”.
Anh ấy gật đầu. “Tôi sẽ hạ cánh xuống nước trước và một trong hai người hãy dùng radio”, Mick thở hổn hển, cố gắng nói tiếp. “Mặc áo phao vào. Chúng ở trong tủ đồ bên cạnh cánh cửa này. Sau đó về chỗ ngồi và thắt dây an toàn”. Anh ấy nhăn nhó trong đau đớn. “Đi đi!”
Trống ngực tôi đánh thùm thụp, máu nóng dồn lên khắp cơ thể. Chúng tôi chạy ngay lại tủ đồ, lôi đống áo phao ra.
“Tại sao chúng ta phải mặc áo phao hả chị Anna? Chiếc máy bay này tự nổi được cơ mà, đúng không?”
Bởi vì anh ấy sợ là sẽ không kịp hạ cánh.
“Chị không biết, có thể đây là quy trình tiêu chuẩn khi hạ cánh khẩn cấp giữa đại dương”. Tôi tìm thấy áo phao được xếp trong hộp đồ hình trụ có ghi XUỒNG BƠM HƠI và một đống chăn. “Cầm lấy này”, tôi nói, đưa cho T.J một cái áo phao rồi mặc một cái khác vào. Chúng tôi về chỗ ngồi, cài dây an toàn, tay tôi run đến nỗi phải cài hai lần mới được.
“Nếu anh ấy bất tỉnh chị sẽ hô hấp nhân tạo ngay. Em phải tìm radio đấy nhé T.J?”
Thằng bé gật đầu, mắt mở to. “Em làm được”.
Tôi nắm chặt hai thành ghế, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, mặt nước đang ngày một gần hơn. Nhưng thay vì từ từ hạ độ cao, máy bay lại tăng tốc và chúng tôi đâm xuống theo phương gần như thẳng đứng. Tôi liếc mắt về phía đầu máy bay. Mick đã gục trên cần số, không động đậy. Tôi tháo dây an toàn, cố bước ra hành lang.
“Chị Anna”, T.J hét lên. Đường viền áo phông của tôi sượt qua khi nó cố nắm lấy tay tôi.
Trước khi tôi đến được ghế lái, Mick đã đổ ngược ra phía lưng ghế, tay vẫn còn nắm chặt cần số, một cơn co thắt dữ dội đang hành hạ ngực anh ấy. Mũi máy bay ngóc hẳn lên và đuôi máy bay chạm xuống nước trước, đập lên đập xuống trên từng đợt sóng. Đầu cánh máy bay chạm xuống mặt nước, chiếc máy bay đã ngoài tầm kiểm soát.
Cú hạ cánh bất ngờ làm tôi khuỵu xuống, cứ như thể một ai đó dùng dây trói quanh mắt cá chân tôi và siết thật mạnh. Tiếng cửa kính vỡ làm tai tôi ù đi, tôi có cảm giác bồng bềnh như đang bay ngay trước khi một cơn đau đớn kinh hoàng dội tới lúc máy bay vỡ tan.
Tôi bị ném xuống giữa đại dương, nước biển tràn vào đầy họng. Tôi hoàn toàn mất phương hướng, nhưng chiếc áo phao đã giữ tôi nổi lên. Đầu tôi đập mạnh xuống mặt nước, và tôi họ không ngừng, cố gắng hít không khí vào và đẩy nước ra.
T.J! Ôi Chúa ơi, T.J đâu rồi?
Tôi tưởng tượng ra cảnh thằng bé bị kẹt ở ghế ngồi, không thể tháo dây an toàn ra được, vậy là tôi cố nhìn quanh trên mặt nước, nheo mắt dưới ánh nắng gắt và không ngừng gào thét tên nó. Ngay khi tôi nghĩ nó đã chìm rồi thì thằng bé trồi lên trên mặt nước, ho sặc sụa, cố nhổ nước biển ra phì phì.
Tôi bơi về phía nó, cảm thấy có vị máu trong miệng, đầu tôi đau đến mức tôi nghĩ nó sắp nổ tung. Ngay khi bơi đến chỗ T.J, tôi nắm lấy tay nó, cố để cho nó biết tôi vui sướng nhường nào khi thằng bé không chết, nhưng tôi chẳng thể thốt nên lời và chợt cảm thấy chếnh choáng như đang chơi vơi giữa một làn sương mờ.
T.J hét lên đánh thức tôi tỉnh lại. Tôi nhớ từng đợt sóng vỗ không ngừng vào mặt khiến tôi uống không biết bạo nhiêu là nước, rồi tôi chẳng còn nhớ gì hết.
CHƯƠNG 1
Tiến >>
Nguồn: ebook©vctvegroup
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 15 tháng 2 năm 2025