Khi tôi chào đời thì cái mà tôi cảm nhận được đầu tiên là mùi cháo lòng.
Buồng mẹ tôi nằm chờ đẻ nối liền với một chái bếp lợp giấy dầu. Trong bếp nồi cháo lòng sôi lục bục, bắn những tia bột dính như keo lên nắp vung mở hé. Mùi cháo lòng ngậy quá chừng! Lúc đầu tôi hớn hở hít lấy hít để. Thế rồi một cảm giác ngơn ngớn chạy dọc người tôi (tất nhiên vẫn trong tư thế nằm co) khiến tôi buồn nôn. Nhưng mà tôi không nôn được. Miệng tôi lúc ấy lòng thòng rất nhiều thứ dây dợ, dạ dày của tôi chỉ quen tiếp nhận, chưa bao giờ biết phản ứng ngược lại, vì thế tôi muốn khóc nhưng cũng không khóc được. Rồi tôi lại ngửi thấy mùi thơm thơm của thứ lục diệp đang ải dần trước sức nóng của chiếc nồi gang. Ấy là lúc bà tôi cho hành, rau răm, mùi tàu vào nồi cháo. Mùi thơm này nhanh chóng trở nên khó chịu vì mỗi lúc một ngai ngái, nồng nồng khiến tôi ngạt thở. Thế rồi một mùi tanh khủng khiếp lại ập vào mũi tôi. Ấy là lúc bà tôi đang lấy tay vét vét những vụn tiết, vụn mỡ, vụn rau bám trên thành chậu, những thứ còn sót lại sau khi dồi lòng. Cũng còn phải đến hơn một vốc tay. Nghiêng chậu, lại còn tới hơn một bát nước tiết nữa. Bà tôi úp cái chậu vào nồi tiết đang bốc khói, đập “cành cạch” lên thành nồi cho mọi thứ rơi vào khoảng mờ mịt của hơi nước. Lẳng cái chậu vào góc bếp, bà với lấy cái đũa cả to ngoáy nồi cháo theo chiều vun từ ngoài vào trong. Có vẻ như đã bằng lòng với nồi cháo cho buổi hàng của mình, bà nhặt hai mẩu rơm bện, gồng mình bê nồi cháo đặt sang một bên bếp. Bị giảm nhiệt, lập tức nồi cháo sôi nhỏ lại. Bà đi vào buồng mẹ đang nằm.
- Vẫn đau hả?
- Dạ...
- Bà Kim không ngồi trực được, về rồi. Mà cũng mấy ngày rồi còn gì. Chửa trâu rồi con ơi. Bước sang tháng ba tới cả chục ngày mà vẫn thế này thì tao cũng đến chịu. Thằng bố nó ở đâu, réo cho nó về.
Thì ra tôi đã ngửi thấy mùi cháo lòng từ mấy ngày hôm nay rồi. Cửa mình của mẹ tôi đã hé lộ vài chục tiếng đồng hồ mà tôi vẫn còn vương vấn cái chỗ nằm êm ái, ấm áp này, không chịu tòi ra. Bà tôi bảo: Tao thỉnh cha Phăng rồi, sáng nay cha sẽ đến cầu kinh cho mau ra.
Ngay sáng hôm ấy tôi được nghe giọng đọc ê a của một người đàn ông ngoại quốc. Ông ta ngồi ở gian ngoài nên tôi không rõ mặt. Giọng ông ta ấm, hơi trầm, rất da diết, như là để cho riêng tôi nghe, như là đang thủ thỉ tâm tình với tôi mặc dù tôi chẳng biết làm như thế là để làm gì? Buổi đầu tôi bị hấp dẫn ghê gớm bởi giọng đọc của người đàn ông được gọi là Cha Phăng này. Ông bảo với tôi: Này, chú bé ơi, mẹ chú là người ngoại đạo nên ta đọc bài Kinh Tín Kính trước, lòng tin được thắp lên trong lòng mẹ chú rồi, lúc ấy Chúa mới nghe thấy lời cầu nguyện của mẹ chú được. Thế rồi ông ta đọc. Lẩm nhẩm nhưng hào hứng. Tôi nằm nghe từ đầu đến cuối.
Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất. Tôi tin kính Đức Chúa Giê Su Ki Tô là Con Một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi, bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà người xuống thai, sinh bởi bà Maria đồng trinh, chịu nạn thời Phongxiô-Philatô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng, ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế này, các thánh thông công.
Tôi, Phạm thị Mến, người đàn bà tội lỗi xin phép tha tội.
Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại Tôi tin hằng sống vậy.
Amen.
Đọc xong bài Kinh Tín Kính, người đàn ông có tên là Cha Phăng hình như dừng lại, ngó vào căn buồng mẹ tôi đang nằm chờ sinh. Tôi thích thú lắm, mắt lim dim chờ nghe cha Phăng đọc tiếp. Sau một lúc im lặng cha Phăng bảo: Bây giờ tôi đọc Kinh Thú Nhận cho mẹ chú đây. Chúa sẽ tha tội và con trai thân mến ơi, con hãy chui ra nhé.
Ô hay! Tại sao tôi lại là con trai của ông được? Thì ta là Cha Phăng, Cha của mọi giáo dân kia mà. Sao ông vừa bảo mẹ tôi là người ngoại đạo? Mẹ tôi không phải là giáo dân, mẹ tôi không phải là con của ông, tôi cũng không phải là con của ông. Chú bé ngang bướng ơi, ừ thì ta không gọi chú là con trai của ta nữa. Bây giờ ta đọc kinh đây, chú hãy mau mau chui ra cho mẹ chú khỏi đau đớn nhé.
Và giọng đọc của cha Phăng lại bắt đầu cất lên.
Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng, và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những lời thiếu sót. (Hình như cha Phăng dừng lại để đấm ngực. Tôi nghe thấy tiếng bình bịch phát ra từ nắm tay của ông) Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Vì vậy tôi xin Rất Thánh Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh, các Thiên Thần, các Thánh và anh chị em khẩn cầu cho tôi trước tòa Thiên Chúa, Chúa chúng ta.
Amen.
Tôi nghe thấy tiếng bước chân của bà. Bà tiến đến chiếc giường nơi mẹ tôi nằm. Bà đưa tay lên sờ trán mẹ rồi lui xuống cuối giường, vén chiếc vỏ chăn đắp ngang bụng mẹ lên. Bà nhìn tôi bằng con mắt mệt mỏi và chán nản. “Dịch ra nhiều, cứ thế này rong huyết mà chết mất thôi”. Hình như mẹ tôi lấy sức để rặn. Cửa mình của mẹ hé lộ to hơn nhưng tôi chưa muốn rời bỏ chỗ nằm tuyệt vời này dù đầu tôi đang bị dốc ngược ra. Tôi cố níu kéo cuộc đời thai nhi trong khi mẹ và bà cứ muốn đẩy tôi ra. Bên ngoài kia là cái gì? Là nồi cháo lòng mà tôi phát kinh tởm mấy ngày nay ư? Là cha Phăng với giọng đọc như hát ru ư? Là bà Kim đỡ đẻ với giọng nói the thé luôn miệng giục mẹ tôi “Răng đi, rặn đi” mấy ngày vừa qua ư? Là bà tôi với hai bàn tay từng vét những vụn tiết, vụn mỡ lại đưa lên vuốt ve người tôi ư? Không, tôi nằm trong này được rồi. Đừng đẩy tôi ra nữa. Tôi đang ở trong tư thế khó chịu lắm. Sao mẹ không thương tôi, mẹ cứ cố sức đẩy tôi ra làm gì thế này? Và giọng đọc của cha Phăng lại cất lên kia kìa. Cha bảo gì với tôi cơ? “Thú nhận tội lỗi rồi thì phải ăn năn. Bây giờ ta đọc bài Kinh ăn năn tội cho mẹ chú bé đây, đừng nằm mãi trong ấy nữa nhé, chú bé hãy chui ra đi, Chúa sẽ ban cho chú cuộc sống, một cuộc sống đủ đầy và hạnh phúc, nghe không?”. Cha Phăng lại đọc. Hình như mẹ cũng lắng nghe những lời cha đọc. Khi lắng nghe mẹ không rặn nữa, mẹ để tôi yên, tư thế tôi ngồi đỡ khó chịu hơn.
Lạy Chúa, Chúa là Đấng trọn tốt, trọn lành vô cùng, Chúa đã dựng nên con và cho Con Chúa ra đời, chịu nạn, chịu chết vì con, mà con đã cả lòng phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa, thì con lo buồn đau đớn cùng chê ghét mọi tội con trên hết mọi sự. Con hết lòng chừa cải, và nhờ ơn Chúa thì con sẽ tránh xa dịp tội cùng làm việc đền tội cho xứng.
Amen.
Đến lúc này thì tôi buồn ngủ. Tôi đã chán giọng đọc ê a, rầu rĩ của cha Phăng rồi. Khi cha Phăng đọc sang đến bài Kinh phù hộ thì tôi ngủ béng đi mất. Tôi ngủ rất lâu. Chỉ đến khi tôi nghe thấy hàng trăm tiếng đại bác nổ, nổ liên hồi, nổ dồn dập, nổ rền vang, nổ đanh xé, nổ dữ dội, nổ kinh khiếp thì tôi giật mình tỉnh dậy. Chân tôi đạp mạnh. Và tôi thấy ngột ngạt. Tôi tìm thấy hơi thở thoáng đãng ở phía cửa mình của mẹ. Tôi toài về phía ấy. Hình như mẹ tôi rùng mình. Rồi toàn cơ thể mẹ căng cứng lên, ép thành một luồng hơi mạnh, từ từ đẩy tôi ra. Tôi lại thấy ngột ngạt quá. Tôi đạp mạnh một cái nữa và đầu tôi chui tọt ra khỏi cửa mình mẹ. Tiếng đại bác vẫn nổ liên hồi. Tiếng sắt thép va vào nhau, tiếng xèo xèo của nhiệt độ nung chảy kim loại, tiếng vỡ toác, tiếng đổ sụp và cả tiếng hô xung phong nữa, tất cả theo dòng dư chấn từ ngàn dặm xa xôi ùa về khiến tôi hoảng hốt đẩy mình bật lao ra khỏi mẹ. Một đôi bàn tay rất mềm đỡ lấy đầu tôi, rồi vai, rồi lưng, rồi chân... Tôi khóc thét lên. Bao nhiêu những dây dợ lòng thòng quanh người tôi được đôi bàn tay mềm mại kia lau chùi sạch bách. Riêng có một thứ dây gắn với rốn tôi thì khi lấy đi có làm tôi hơi đau một tí. Thế là tôi chấm dứt cuộc sống thai nhi của mình. Thế là tôi bắt đầu một cuộc sống mới, cuộc sống như cha Phăng nói, là do Chúa ban cho. Đôi bàn tay mềm mại kia quấn quanh người tôi một thứ vải nhẹ và xốp. Sau đó tôi được trao cho mẹ. Không bao giờ tôi còn gặp lại đôi bàn tay mềm mại thần tiên đó nữa. Ngay hôm sau bà Kim sung vào đoàn dân công tiếp viện cho chiến trường Điện Biên. Hàng vạn tiếng nổ trong đêm tháng ba u huyền ấy đã đẩy bật tôi ra chào đời. Những tiếng nổ còn tiếp tục kéo dài trong mấy chục ngày sau nữa. Có một tiếng nổ đã cắt đứt cuộc đời bà Kim.
Vậy mà khuôn mặt đầu tiên tôi nhìn thấy lại không phải là khuôn mặt của bà Kim. Trong khi người đàn bà ấy đưa tay ra đỡ lấy tôi thì tôi còn đang mải khóc, mắt nhắm tịt lại nên không nhìn thấy nét mặt bà thế nào? Tôi chỉ ngừng khóc và mở mắt ra nhìn khi nghe thấy một tiếng nựng rất nhỏ nhưng ngọt ngào, cơ hồ như phát ra từ một làn gió thoảng trong không gian chật hẹp của căn buồng nồng nặc mùi cháo huyết. Và khuôn mặt của mẹ đập vào mắt tôi. Một đôi mắt to với những đường viền sắc nét rợp dưới bờ mi sũng nước. Cánh mũi cao chạy dài xuống bờ môi hơi mỏng và héo. Tôi nhìn thật lâu vào một chấm đen khó hiểu bên cánh mũi trái của mẹ. To bằng con ruồi, không, to bằng con ngươi mắt đang mở ra, tròn xoe, của tôi. Chiếc mụn ruồi ấy tạo nên một nét rất riêng nhưng cũng có nghĩa là đã can thiệp một cách thô bạo vào hệ thống thẩm mỹ của khuôn mặt mẹ. Nhưng tôi yêu chấm đen ấy ngay từ cái nhìn đầu tiên. Tôi oe oe, ngọ nguậy và khi được mẹ bế lên tôi đã cố đưa tay sờ vào nốt ruồi trên mặt mẹ. Mẹ úp mặt tôi vào mắt mẹ, tôi đã đưa đôi môi non nớt của mình hôn vào chấm đen bên cánh mũi trái. Mẹ của tôi đã được định vị một cách rõ nét. Chấm đen trên mặt mẹ là khoảng sáng duy nhất không bao giờ tắt trong cõi lòng đôi khi có những lúc u tối của tôi.
Bà lập tức chạy vào nhà thờ để báo tin cho cha Phăng biết. Nhưng khi bà vào đến nơi thì cha Phăng vừa lên xe vào Tòa Sứ cũ để nghe thông báo về tình hình Việt Minh tấn công Điện Biên Phủ.
Mãi đến gần trưa hôm sau cha Phăng mới đến nhà tôi để xem mặt “đứa con của Chúa”. Trước khi cha Phăng bước vào buồng mẹ con tôi nằm, bà chặn cha ở cửa nói nhỏ điều gì đó. Cha Phăng vừa nhún vai, vừa “ô ố, la lá” rồi cúi người bước nhanh vào. Việc làm đầu tiên của cha Phăng là ông bế tôi lên đi ra phía bếp nơi có ánh sáng ngày tràn trề để nhìn tôi cho rõ. Tôi nhận thấy ánh mắt của ông nhìn lên mái tóc tôi, rồi nhìn sâu vào đôi mắt tròn xoe của tôi, sau đó tiếp tục nhìn qua cánh mũi, nhìn xuống làn da... Ông có một cử chỉ như là lắc đầu, rồi cất lên câu nói quen thuộc: “A men, lạy Chúa tôi!”. Tóc tôi màu đen, mắt tôi màu đen, mũi tôi hếch và hơi tẹt, da tôi vàng, không có một chút liên hệ gì với cái giống người Tây Ban Nha của cha cả. “Bé con! Con đúng là con của Chúa dù Chúa chưa bao giờ giáng sinh dưới lốt da vàng, mắt đen, mũi hếch. Thế là Thị trấn Nét Mặt Buồn lại thêm một tiểu thần dân, xứ đạo lại thêm một tín hữu, và ta lại có bổn phận chăn dắt thêm một con chiên lạc. Dẫu sao thì ta cũng rất yêu con, con trai, à không, cậu bé tóc đen của ta ạ”.
Bây giờ tôi mới có dịp nhìn rõ nét mặt cha Phăng, người đàn ông đã đọc kinh cầu nguyện cho tôi ra đời. Đầu ông hơi hói, tóc hất ngược ra phía sau có màu hung hung vàng. Mũi ông khoằm khoằm chạy giữa hai vệt mắt màu nâu xám. Ông có hàm răng rất đẹp, trắng và đều tăm tắp. Hình như ông có râu quai nón nhưng đã được cạo nhẵn nhụi. Cằm ông lõm, khi cọ vào má tôi tạo cảm giác hơi gồ ghề. Từ người ông tỏa ra một thứ mùi rất khó xác định. Sau này tôi mới biết đó là mùi hoa hồng. Tôi rất thích ngửi mùi này nhưng nó lại làm tôi ngạt. Tôi ngọ nguậy, nhăn nhó, mặt méo xệch như muốn khóc. Thứ mùi xa xỉ từ cha Phăng phải đến ba mươi năm sau tôi mới được ngửi lại. Ngửi trên một thân xác đàn bà đã từng trải qua rất nhiều người đàn ông. Cha Phăng thấy tôi phản ứng một cách khốn khổ bằng vẻ mặt sơ sinh nhàu nát liền bế tôi trả về chỗ mẹ. Cha hôn lên trán mẹ rồi bước ra khỏi căn buồng tối tăm, ẩm thấp. Bà tôi đi theo đằng sau cha ra tới tận chỗ để xe như để được nghe cha nói điều gì đó. Nhưng cha Phăng không nói gì cả. Đến khi ngồi lên xe rồi, cha mới chợt quay lại hỏi:
- Cô Mến định đặt tên đứa trẻ là gì?
Bà vội nói như giãi bày:
- Con muốn để cha rửa tội và đặt tên cho đứa bé nhưng con Mến nó bảo nó sẽ tự đặt tên. Thưa cha, con Mến gọi con nó là Minh Việt.
- Minh Việt à? - Cha Phăng nhún vai - Có vẻ như gợi nhắc đến những tên Việt Minh đang đánh nhau trên Điện Biên Phủ. Chúa đã chứng kiến sự trong sạch của tôi. Thằng bé thuần túy là một đứa trẻ An Nam. Nhưng Chúa sẽ ban phước lành cho nó. Thôi, chào bà.
Cha Phăng đi rồi, bà quay vào tiếp tục dọn dẹp đống bát đũa còn đang nằm lỏng chỏng trên bàn. Buổi bán hàng của bà đã xong. Nồi cháo lòng trơ vỉa cháy ố vàng. Còn một khúc ruột dài bằng gang tay, hình móc câu, được bà đặt vào bát mang xuống bếp dành làm thức ăn cho bữa trưa. Mẹ tôi nhìn thấy khúc lòng ấy bỗng ứa nước miếng. Bà liền đặt nó lên thớt thái từng miếng nhỏ, gạt vào bát rồi mang đến bên giường cho mẹ. Mẹ tôi gượng ngồi dậy, lưng tựa vào tường, bốc ăn hết chỗ lòng một cách ngon lành.
Bố tôi là ai? Câu hỏi ấy đang lởn vởn trong đầu cha Phăng, bà, và cả tôi nữa. Cha Phăng đã đúng khi liên tưởng giữa cái tên Minh Việt với bố tôi. Lúc ấy bố tôi đang đánh trận ở Điện Biên Phủ. Trong lúc bố tôi đang gào lên những tiếng hô xung phong, ông không hề biết rằng, một sự tiếp nối từ ông đã được bắt đầu ở nơi đây, quê nhà của ông - thị trấn Nét Mặt Buồn.
Bốn mươi năm sau, trong đoàn giáo chức quốc tế đến dự lễ ở nhà thờ An Lạc có một Đức giám mục tên là Phờrăngxoa đờ Bêhiêng. Trong bài nói chuyện không cần phiên dịch, cha Bêhiêng có kể rằng, năm lên 8 tuổi ông được theo Cha bề trên lên tàu thủy vượt đại dương đi truyền đạo. Sau sáu mươi mốt ngày lênh đênh trên biển, ông nhìn thấy một dải đất màu xanh nằm ở cuối đường chân trời. Ông hỏi Cha bề trên: Dải đất kia là xứ nào? Cha bề trên bảo: Đó là xứ An Nam, nơi chúng ta sẽ đến khai hóa và truyền đạo. Hai ngày sau cha Bêhiêng đặt chân lên dải đất mà ông đã nhìn thấy từ ngoài khơi. Ông đã ở lại đó hai mươi nhăm năm, nơi ông ở và hành đạo chính là thị trấn An Lạc này, thị trấn mà ông vẫn gọi bằng cái tên Nét Mặt Buồn. Còn giáo dân ở đây thì gọi ông một cách giản dị là: Cha Phăng!
Nhưng hãy khoan gặp cha Phăng sau bốn mươi năm cách biệt vì với tôi lúc này, sau khi chui ra khỏi cửa mình của mẹ, việc đầu tiên là phải tìm hiểu xem ai là bố tôi?
Vào chuyện
Tiến >>
Đánh máy: casau
Nguồn: casau - VNthuquan;net
NXB TRẺ
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 25 tháng 6 năm 2018