Truyện Một Con Chó Tốt

james stephent

dịch giả: lê vĩnh thọ

(ireland)

Truyện một con chó tốt (The Story of a Good Dog) do Alice S.Morris tuyển chọn và giới thiệu trong tập Những chuyện dị thường (the Ucommon Reader). James Stephent (Ireland) sinh ở Dublin cùng ngày, cùng giờ và cùng một thành phố như người bạn thân nhất của ông là James Joyces, người đã cách mạng hóa những kỹ thuật viết truyện hư cấu, giới thiệu “dòng ý thức”, sáng tạo từ ngữ và thí nghiệm với cú pháp. Là một thành viên lỗi lạc của phong trào Phục hưng, James Stephent là người phát ngôn của tinh thần Ireland. Truyện Cái bình vàng (The Crock of Gold) của ông vẫn là tác phẩm kinh điển nổi tiếng.

Một người đàn ông tôi đã từng quen biết rất rõ đã kể cho tôi câu chuyện này. Ông ta là hạng người rất chân thật, nhưng hay kể lể cặn kẽ, tỉ mỉ nên có lẽ ông ta đã thêm mắm thêm muối đôi chút vào câu chuyện.

Ông ta kể: ai cũng có một con mèo hoặc một con chó tốt nhất, con vật ấy vẫn lưu lại trong tâm hồn, khi những ký ức rất thân thương khác đã phai mờ và người ta quả quyết nói rằng: “Đó là con chó tốt nhất”. Đã có những con Faire, Tommy, Guzzle và Spot, và chúng đều là những con chó tốt đến nỗi khó mà tin rằng còn có con nào tốt hơn, thế nhưng con chó tốt nhất của tôi không có tên gì hết, nó vâng lời khi nghe một tiếng huýt sáo nho nhỏ. Nó không bao giờ sủa; nó không hề gây bất cứ tiếng đọng nào, ngoại trừ, thỉnh thoảng nó phát ra cái tiếng nghe như tiếng súc miệng khe khẽ từ đâu đó trong bụng nó - hầu như anh không thể nghe được cái tiếng đó - và cái tiếng đó biểu lộ cơn thống khoái của nó. Tội nghiệp người bạn cũ thân yêu của tôi, nó chẳng có nhiều điều đáng lấy làm khoái trá: nó chỉ khoái để mà khoái, thế thôi.

Đây là trường hợp chúng tôi gặp nhau. Bấy giờ trời đã xế chiều và tôi đang lang thang hết phố nay đến phố khác. Tôi đang tìm kiếm một cái gì đó. Một trong những điều tôi tìm kiếm là việc làm, nhưng lần này tôi đang tìm kiếm một cái gì khác - và thình lình tôi thấy cái đó. Nó ở trong mõm một con chó: non nửa ổ bánh mì, và con chó ngậm nó đang len lét đi ngược lên một ngõ hẻm. Nó là một gã chó sục lớn, một loại chó săn, và tôi đang âm thầm bám sát theo nó để có được một phần của bất cứ điều gì sắp xảy ra. Tôi bắt kịp nó ở cuối đường hẻm, và nó thốt ra vài tiếng càu nhàu rất khẽ như có ý dò hỏi tôi. “Bỏ xuống”, tôi bảo và nó nhả cái đó xuống.

Nó ngồi xổm cách tôi mấy bước, nó nhìn miếng bánh mì và nó nhìn tôi, rồi nó gãi. Tôi bẻ nửa ổ bánh mì thành hai phần suýt soát nhau và tôi đưa cho nó cái phần lớn hơn. Nó nhìn tôi, nó nhìn miếng bánh mì, và tôi hiểu rằng nó đang cố tìm hiểu xem có một sự đánh lừa nào chăng. Rồi nó gãi dữ dội, và khi tôi bắt đầu ăn, nó cũng bắt đầu ăn. Thỉnh thoảng nó ngừng lại để nhìn kỹ tôi và rồi nó, khe khẽ phát ra cái thứ tiếng súc miệng lạ thường từ đâu đó trong bụng nó, biểu lộ cơn thống khoái vả nó lại bắt đầu ăn bánh mì.

Bánh mì mới ngon lảm sao! Tôi nhớ là đã nghĩ rằng bánh ngọt chỉ ngon chưa bằng một nửa ổ bánh mì và miếng bánh mì này là miếng ngon nhất chưa từng có; tôi có thể ăn một trăm ổ như thế và rồi tôi có thể ăn cả con chó.

Trời đã chạng vạng, thế nên tôi co quắp nằm ngủ ngay tại chỗ, con chó lần đến bên tôi một cách rất thận trọng vả cuối củng nằm ép sát vào người tôi, nó phát ra cái tiếng súc miệng một lúc và nó gãi hầu như suốt đêm. Tôi chẳng quan tâm đến điều gì cả. Tôi đã có một người bạn; và nó càng ít quan tâm hơn bởi vì nó cũng đã có một người bạn.

Sáng hôm sau, tôi mới hiểu ra vì sao nó gãi. Nó mắc chứng xà mâu, ghẻ lở từ đầu đến chân. Nó hầu như là một khối thịt đầy vảy. Một con mắt của nó đã mù. Nó nhỏ hơn tôi khoảng ba tuổi - nghĩa là nó đã khá già, và nó nhìn tôi bằng cái con mắt còn khá tốt với một lòng trìu mến nhân từ mà một con chó tốt dành cho con chó con tốt nhất của nó. Nó biết rằng tôi là một kẻ kém cỏi, bất tài và nó rất sung sướng về điều đó bởi vì nó đã quyết định rằng ban ngày nó sẽ nuôi tôi và ban đêm sưởi ấm cho tôi. Trời sắp lập đông, u ám và mưa lất phất, chúng tôi đã cùng nhau lang thang nay đây mai đó và chúng tôi cẩn thận tránh né mọi người. Tôi không muốn gặp người ta vì họ không muốn cho tôi việc làm, và nó không muốn gặp người ta vì họ ném đá vào nó.

Trong hơn hai tháng, bất cứ cái gì tôi ăn đều do nó mang về. Nó thật tài tình. Nó biết ở đâu có những mẩu bánh mì. Đôi khi chẳng có gì cả, nhưng phần lớn các ngày đều có một chút gì đó. Chắc là tôi đã đói lắm nhưng hồi ấy tâm hồn tôi bay bổng khoảng một dặm một phút và nó khinh bỉ những cái dạ dày.

Một buổi sáng, con chó tốt bụng của tôi lên đường đi săn như thường lệ. Rồi, mới đi được vài bước nó bỗng dừng lại. Nó trở lại và dúi đầu vào người tôi. Rồi nó lại ra đi, và lại dừng bước. Thế rồi, thình lình, nó ngẩng đầu lên trời và tru lên - lần đầu tiên tôi nghe nó phát ra cái âm thanh đó! Nó tru và tru mãi như thể nó đang cố gắng tru cho chết phứt đi. Tim tôi như muốn vỡ tung ra vì hãi hùng. Tôi chạy đến với nó và ôm mặt nó, tôi thấy ngay chuyện chẳng lành.

Con mắt còn lại của nó cũng hỏng rồi. Nó hoàn toàn mù. Nó không thể đi săn nữa. Nó đang tru lên không phải vì chính thân phận nó; nó đang tru lên vì nó không thể đi lùng kiếm cái gì đó cho tôi ăn. Nó chẳng quan tâm gì đến bản thân nó, cũng như tôi, lúc bấy giờ chẳng quan tâm gì đến bản thân mình. Quả là nó đã muốn tru lên cho chết phứt đi nhưng đôi tay tôi đang vỗ về, dỗ dành nó, và trong chốc lát nó đứng lặng im và run rẩy.

Tâm hồn tôi có một giang sơn nhỏ bé riêng của nó, một cõi mông lung, kỳ ảo, vô thưởng, nơi mà không có gì đứng yên trong hơn một phút, nhưng tâm hồn tôi không biết gì cả về những vấn đề thực tế, nó không biết làm gì cả. Làm sao tôi nuôi được con chó của tôi, nó già nua, mù lòa và bị bệnh tật gặm nhấm gần chết?

Tôi bồng nó lên - nó chẳng nhẹ nhõm gì - và tôi bước đi, cứ bước đi mãi. Bên trên những cánh đồng ở bên đường và bên trên chúng tôi là bầu trời ảm đạm: cuộc đời là một cái hộp và chúng tôi là hai con chuột đang ở trong một cái bẫy. Tôi đến một thị trấn, thấy có một tiệm thuốc tây; cửa mở. Tôi đặt con chó đằng sau cánh cửa rồi bước vào. Một thanh niên - có lẽ lớn hơn tôi mười tuổi - đứng đằng sau cái quầy, và tôi nói với anh ta: “Ông làm ơn giết giùm con chó của tôi mà không làm cho nó đau đớn được không?”.

Anh ta là một người miền Bắc cứng cỏi, khuôn mặt nghiêm khắc. Anh ta nhìn tôi từ đầu tới chân với đôi măt như hai viên đạn.

Anh ta nói: “Cậu sẽ trả cho tôi bằng gì đây?”.

Tôi đáp: “Tôi không có tiền”.

Anh ta nói: “Tôi không có thứ thuốc độc không làm cho đau đớn”.

Tôi nhìn hàng chai lọ trên quầy vả nhìn lên nhưng bức tường, rồi chợt có hứng tôi nghĩ ra những lời lẽ khôn khéo đến mức láu cá.

Tôi nói: “Ông là một người uyên bác. Chẳng có việc nào như thế mà ông không làm được”.

Hai viên đạn lại trở thành đôi mắt.

Anh ta nói: “Con chó làm sao?”

“Nó già và mù lòa và đang hấp hối vì chứng xà mâu”.

“Con vật ấy đâu?”,

Tôi chỉ và anh ta sải chân bước ra nhìn.

Anh ta nhìn chằm chằm vào con vật đang nằm thu mình và nói:

“Trời ơi, mang nó đi ngay!”.

Tôi theo ông ta vào tiệm.

Tôi nói: “Ông hãy nghe tôi. Đó là con chó tốt nhất đời. Nó đã nuôi dưỡng tôi trong hơn hai tháng”.

Anh ta nói: “Cậu đã ăn những gì lấy từ miệng thứ đó à?”

Tôi đáp: “Vâng. Sáng nay nó đã mù hẳn và nó đang hấp hối vì kinh sợ rằng nó không thể nuôi tôi”.

Người thanh niên nhìn tôi như thể tôi đã điên loạn.

Tôi nói: “Ông biết cách lảm mọi việc. Hãy làm điều này cho con chó tốt nhất đời”.

Anh ta quay phắt lại, lấy một xấp giấy báo và đặt trên nền nhà. Anh ta ra lệnh: “Cho nó nằm trên đó”. Tôi bế con chó lên - nó chỉ còn là một khối thịt mềm nhũn run rẩy vì kinh hãi.

Người thanh niên đi vào đằng sau quầy và trong khoảng năm phút anh ta trở ra, mang theo một cái bát.

Anh ta nhìn con chó, nét mặt dịu lại và nói: “Trời ơi! Có sữa ấm, bánh mì và đường - chó thích đưởng. Và có thêm cái gì khác nữa vừa đủ để kết liễu những đau khổ của nó trong nháy mắt”.

Tôi đặt cái bát trước mũi con chó. Nó ngửi rồi lại ngửi. Và rồi với một niềm vui lạ lùng, nó bắt đầu tớp và ăn trong khi tôi vỗ ve, vuốt ve nó. Nó đang nếm một thứ thực phẩm mà có lẽ đã sáu bảy năm rồi nó không biết mùi, kể từ khi ông chủ xa xưa của nó tống nó ra đường và ném đá vào nó cho đến khi nó bỏ đi.

Người thanh niên nói: “Mang nó ra đường rầy. Trong vòng chưa đến nửa giờ, nó sẽ đi”.

Thế nên tôi ngồi giữa đám bụi cây với nó và nó bắt đầu bày việc ra mà làm rồi xóa đi nhũng việc đã bày; nó, bắt đầu ngủ rồi nó bắt đầu thức, và nó bắt đầu phát ra cái thứ tiếng súc miệng một cách vui vẻ rồi nó bắt đầu quên đi những điều này và quên tất cả.

Nó quên sự mù lòa, tuổi tác và nỗi sợ hãi. Nó đã quên cái đói, nó quên tôi, nó quên gãi, nó quên chính cuộc đời. Nó nằm duỗi ra một chút một cách khoan khoái rồi một cơn rùng mình nhè nhẹ lướt qua người nó và thế là nó đi.

Tôi đẩy nó lút sâu vào bụi rậm rồi bỏ đi, lại hoàn toàn cô độc, nhưng tôi thiết tưởng anh sẽ đồng ý rằng khi tôi nói nó là con chó tốt nhất của tôi, tôi không lầm lẫn chút nào trong vấn đề rất quan trọng đó.

Ít lâu sau, tôi có việc làm - đó là lời người đàn ông đã kể cho tôi câu chuyện này.

HẾT

Đánh máy: hoi_ls
Nguồn: Hoi_ls - Tạp chí Kiến thức Ngày nay
VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 27 tháng 4 năm 2022