Lời chú thích: Tác giả trân trọng nhắc lại rằng mặc dầu dựa vào địa lý và thời sự, tất cả nhân vật và tình tiết trong bộ tiểu thuyết gián điệp này chỉ là sản phẩm của tưởng tượng. Nếu có sự trùng hợp hoặc gần gặn nào với thực tế thì chỉ là ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của người viết.
Như thường lệ, Văn Bình ngồi trên taxi chạy trên đường Phra Athit để quen với phố xá rồi ra lệnh quẹo trái, được trước một tiệm nước. Kể ra thị trấn Vọng Các này chỉ to lớn, đông đúc và bí hiểm đối với người khác chứ đối với Văn Bình thì chẳng có gì lạ. Nhắm mắt lại, chàng có thể đi đêm trong thành phố không bao giờ bị lạc. Ban đêm trong hẻm tối om, chàng trả tiền không cần chiếu đèn bấm: da tay chàng đã quá quen với giấy bạc bath. Chàng búng nhẹ một cái là phân biệt được bạc nhỏ bạc lớn.
Văn Bình quen với thành phố Vọng Các còn hơn cả nha sĩ quen với hàm răng bịt vàng của thân chủ triệu phú nữa. Quen như thể vợ chồng, nhớ kỹ vị trí của mỗi nếp răn ở bụng, mỗi vết thẹo ở ngực hoặc mỗi vết tàn nhang trên đùi non…
Những lần trước, khi đến đất Thái, Văn Bình thường cảm thấy hân hoan. Gái Thái không trắng trẻo như cây nhà lá vườn ở xứ Đồng Nai, nếu để lồng vào tủ gương, mở đèn lên ngắm nghía như ông thày tu ngắm nghía bức tượng tôn nghiêm, thì không nên đa mang gái Thái. Song nếu tình yêu có nghĩa là tắt đèn thì trên vùng đất Viễn Đông thật khó tìm ra những thân hình căng cứng, những nhà vô địch dai bền như giai nhân nước da bánh mật ở đô thành Vọng Các này.
Nhưng lần này Văn Bình lại không vui. Taxi vừa đậu lại, chàng vội nhăn mặt. Đường Phra Athit ở dọc sông Chao Phya, con sông lớn nhất của thủ đô Thái. Cơn mưa mùa hè oái oăm vừa tạnh, nước sông cuộn lên đục ngầu khiến Văn Bình buồn nôn, liên tưởng đến cái bô chứa nước bằng sắt tráng men trắng đã rỉ sét và tróc men nằm lỏng chỏng ở góc phòng của những căn nhà xiêu vẹo bán tình dọc giòng sông Chao Phya.
Mọi năm, cứ đến mùa mưa, sông Chao Phya thường nặc mùi khó chịu. (Nói cho cùng thì không riêng gì sông Chao Phya, mọi con sông ở gần thành phố trong khu vực nhiệt đới này đều hôi như nhau). Văn Bình ngửi thấy mùi gỗ xúc ngâm kinh niên, mùi lá mủn của những rừng tràm ở thượng lưu, mùi mạt cưa và nhất là mùi rác rưởi. Những mùi này xông lên mạnh đến nỗi đeo mặt nạ lọc không khí cũng phải ngửi thấy và chóng mặt nhức đầu.
Trước đây, khi phải qua bờ sông giữa lúc mưa vừa tạnh, Văn Bình đã có một phép màu để át được mùi hôi thối độc đáo. Phép màu này là nghĩ đến cái miệng thơm thơm, làn do thơm ngon và cái nách thơm thơm của những nữ đồng nghiệp trong ban Biệt Vụ.
Nhưng hôm nay, óc tưởng tượng phong phú của chàng đã bỏ đi vắng. Chàng cố hình dung trước mắt những cô gái bốc lửa với những cái tên cũng bốc lửa không kém đang nằm bên chàng trong gian phòng kín. Song những việc vừa xảy ra làm chàng mất hứng.
Cái mất hứng thứ nhất là chàng đang say sưa trên một hòn đảo nhỏ ngoài khơi Mỹ quốc thì bị gọi về Hoa thịnh đốn. Đang bù khú mà bị triệu hồi đột ngột đã trở thành chuyện cơm bữa với điệp viên đại tá Z.28. Trong thời gian hoạt động dưới quyền ông Hoàng, chàng đã bị phá đám vô tình hay cố ý như vậy hàng bốn, năm chục lần. Nên có bị phá đám lần nữa cũng chẳng sao. Vì như Lê Diệp nói « Chậc, anh sắp mở khóa động đào thì bị dựng dậy, lôi xuống lầu, phải không? Ồ, có gì quan trọng lắm đâu mà anh hốt hoảng. Đàn bà nào mà chẳng giống đàn bà nào, không yêu lần này thì yêu lần khác. Thỉnh thoảng phải chay tịnh càng sống lâu, phải không? » Nhưng khốn nỗi, lần này không giống những lần khác. Những lần khác, Văn Bình chỉ dính với một người đàn bà. Lần này chàng lại dính với mấy chục người đàn bà. Những lần khác, Văn Bình chỉ được yêu đương trong phòng gắn máy điều hòa khí hậu. Lần này là trời cao, là biển rộng, là sông nước trập trùng, là những khu vườn trồng toàn hoa thơm cỏ lạ…với hằng hà sa số người đẹp khỏa thân hoàn toàn.
Hòn đảo này là nơi hội họp của những người theo chủ nghĩa thiên nhiên. Nếu chỉ là nam nữ khỏa thân để tìm ánh nắng mặt trời và gió mặn ngoài biển, già lẫn lộn với trẻ, gày nhom lẫn lộn với mập ú, lùn lẫn lộn với cao lêu nghêu, xấu như Chung vô Diệm lẫn lộn với Tây Thi, thì Văn Bình không bao giờ đến, và một khi ra đi thì không bao giờ tiếc. Tuy nhiên, chàng lại tiếc, tiếc ngẩn tiếc ngơ, tiếc đến bỏ ăn bỏ ngủ, tiếc đến tay chân bải hoải, ruột gan cồn cào, mắt hoa đầu váng, vì hòn đảo này chỉ là nơi hẹn hò của bọn người theo chủ nghĩa thiên nhiên trá hình. Do sự tổ chức của một tay trùm hồng lâu và thanh lâu quốc tế, trai gái từ khắp nơi trên thế giới đổ xô tới ùn ùn để tìm khoái lạc.
Tình cờ Văn Bình được lọt vào thiên thai. Chàng định lưu lại một vài tháng, mỗi ngày thay đổi món ăn yêu đương năm bảy lượt, toàn là cao lương mỹ vị. Chàng không ngờ là mới chân ướt chân ráo làm quen của đạo quân giai nhân trẻ măng thì nhân viên của ông Sì-mít, tổng giám đốc Trung ương Tình báo CIA, đã vác mặt tới lôi chàng lên thủy phi cơ, bay một mạch về tổng hành doanh.
Tuy nhiên, cái hứng thú thứ nhất chỉ làm chàng tiếc nuối chứ không làm chàng bực mình. Nguyên nhân của sự bực mình này là mùi thơm không…thơm của các cô gái tiếp viên phi hành.
Từ Nữu Ước qua Ba Lê không có chuyện gì xảy ra vì Văn Bình ngủ gà ngủ gật. Trên đường từ Pháp sang Viễn Đông, các nữ tiếp viên không lôi cuốn được chàng vào cõi mộng song cũng không bóp nát giấc mộng của chàng. Nhưng về gần đến Vọng Các, chàng toát bồ hôi. Tuy máy bay được điều hòa khí hậu, Văn Bình vẫn phải ngửi mùi…hôi nách của các cô gái mặc đồng phục, thân hình khá đẹp, rún rẩy lượn lên lượn xuống như đèn cù bên ghế chàng.
Kỹ nghệ mỹ phẩm đã phát minh ra hàng chục, hàng trăm thứ nước hoa, xà bông để át mùi bồ hôi. Nhờ những Déodoril, Pristil, Rexona…mùi hôi nghẹt thở đã được che đậy sau mùi thơm man mác. Nhưng liệu hồn, nếu mùi thơm man mác này giảm bớt thì mùi hôi nách trào mạnh ra như nước lũ, cuốn phăng bờ đê. Đàn bà đẹp luôn luôn trữ sẵn phép màu trong ví da, đề phòng tình trạng « nước lũ cuốn phăng bờ đê » có thể đối phó kịp thời. Song chẳng hiểu tại sao mấy cô tiếp viên lại quên bẵng. Báo hại Văn Bình phải bặm miệng, nín thở, khi họ mang khay thức ăn đến. Chàng khát khô cuống họng, thèm rượu một cách ghê gớm nhưng không dám kêu. Tuy vậy, chàng vẫn phải ngửi vì chàng không thể nhịn thở được mãi. Ghế của chàng lại ở hàng ngoài, gần phòng phi hành, chốc chốc các cô gái giết người lại đi qua…
Văn Bình đã mất hứng nên khi ra đến đường bờ sông Chao Phya phải cho tay vào túi lấy mù-soa để bịt mũi. Sau khi móc hết túi áo, và túi quần, mất gần 5 phút đồng hồ dài giằng giặc, chàng mới sực nhớ rằng từ nhỏ đến lớn, chàng không có thói quen đài các mang mù-soa trong mình. Nếu có, thì đó chỉ là mù-soa mà đàn bà đẹp đã dùng, hoặc mù-soa bán biếu tại các khách sạn lớn, hoặc mù-soa giấy …
Không có mù-soa, Văn Bình đành lấy gói Salem. Hương vị bạc hà sẽ giúp chàng quên được mùi sông nồng nặc. Chàng rít một hơi dài, rồi quay lộn lại đường Phra Athit.
Khi hút thuốc, chàng ngửa cổ lên trời thở khói phù phù, hai chân tiếp tục bước nên không nhìn thấy phía trước. Và chàng đụng vào một người bộ hành Thái.
Nạn nhân của chàng là phụ nữ. Nàng trạc 25, cái tuổi chín chắn trên tình trường, cái tuổi không còn yêu thơ ngây vớ vẩn nữa. Bị chàng húc quá mạnh, nàng ngã ngồi xuống đất.
Nàng lồm cồm bò dậy, và chẳng nói chẳng rằng nắm lấy tay Văn Bình. Cô gái có phản ứng nhanh nhẹn và chính xác chứng tỏ có một số vốn phong phú về võ thuật. Văn Bình có thể né tránh dễ dàng, song chàng lại đứng yên cho cô gái thi thố nhu đạo với chàng. Nếu là người đàn ông khác thì đã nằm sóng soài trên vỉa hè ướt át vì lối quật ngã của nàng được thực hành một cách tinh vi, khoa học và kiến hiệu. Chỉ riêng miếng đòn sơ kiến này đã cho thấy nàng là đai đen nhu đạo.
Nhưng Văn Bình vẫn trơ như đá, vững như đồng. Thân thể chàng như được đóng đinh vít xuống lề đường. Mặt nàng đỏ gay, gần toát bồ hôi mà chàng vẫn không nhúc nhích. Nàng bặm miệng, thu hết sức lực vào bàn tay, sửa soạn đánh đòn quyết định.
Song nàng bỗng buông chàng, rồi thốt lên một tiếng lớn, nửa sửng sốt, nửa sợ hãi:
-Kìa anh. Anh Văn Bình!
Văn Bình cũng sững sờ:
-Tưởng ai, hóa ra Z.100
Trong khoảnh khắc, những kỷ niệm 3, 4 năm về trước rồn rập trở lại trí nhớ của chàng. Tên thật của Z.100 là Mỹ Linh, đặc phái viên của ông Hoàng tại Nam Vang. Chàng lên Cao miên, điều tra một số điệp viên của Sở bị hạ sát, và khám phá ra Mỹ Linh tư thông với Trung ương Cục Miền Nam. Văn Bình lập mưu phá tan ổ điệp báo của địch, song cố tình mở sinh lộ cho Mỹ Linh thoát thân. Sở dĩ chàng không bắt nàng vì nàng mắc một căn bệnh sinh lý tai hại: bệnh đồng tính luyến ái, căn bệnh phổ biến của trai gái trong hậu bán thế kỷ 20. Đàn ông thích yêu đàn ông, còn đàn bà thích yêu đàn bà. Vì bệnh đồng tính luyến ái, Mỹ Linh đã bị địch lợi dụng.
Trước khi bỏ trốn, nàng viết thư để lại cho chàng, trong đó có đoạn:
« Việc đáng tới đã tới. Anh đã khám phá ra vai trò hàng hai của em. Vâng, em xin thú nhận là tư thông với đối phương, phá hoại hàng ngũ của Sở. Tội em đáng chết…
Nhưng anh ơi, tội em đáng chết nhưng em chưa thể chết vì đang còn bổn phận nặng nề nuôi mẹ già, nuôi em ăn học thành người. Bởi vậy, em phải bỏ trốn. Em tin rằng anh là người cao thượng không nỡ nào đuổi bắt con đàn bà đáng thương như em. Trong tương lai, nếu còn được gặp anh, em xin đái tội lập công. »
Mỹ Linh đã đi biệt. Từ nhiều năm nay, Văn Bình không nghe nhắc đến nàng. Đúng ra Sở Mật Vụ có thể tìm ra tông tích nàng sau một thời gian ngắn. Trừ phi biến thành con muỗi nàng mới thoát khỏi màng lưới thần kinh quỷ sợ của ông Hoàng. Nàng vẫn sống yên ổn sau ngày ra đi vì Văn Bình không báo cáo sự phản bội của nàng cho ông Hoàng biết. (Xem « Máu Loang Chùa Tháp »).
Chàng thường nói quả đất tròn và hẹp, sớm muộn những kẻ xa nhau đều gặp nhau, song chàng không ngờ định mạng oái oăm lại bắt chàng đụng đầu Mỹ Linh trên vỉa hè Vọng Các giữa lúc chàng sắp đến một chỗ hẹn quan trọng.
Đối với người khác, chàng có thể nói dối là đi nghỉ hè, hoặc nhân một chuyến xuất ngoại dừng chân tại Vọng Các để du hí. Nhưng chàng không thể nói dối với người điệp viên giàu kinh nghiệm như Mỹ Linh. Chàng đành nhìn nàng mỉm cười.
Hồi ở Nam Vang, nàng mới 25 tuổi. Thời gian trôi qua, nàng vẫn là cô gái 25 tuổi ngày nọ. Vẫn đôi mắt một mí như người Phù Tang, làn da trắng xanh, và bộ ngực xẹp lép -nghĩa là tương phản với quan niệm tình yêu của Văn Bình- nhưng vẻ đẹp ngày nay lại sắc sảo hơn, lôi cuốn hơn, vẻ đẹp cổ kính như bức tranh thủy mạc Tàu, vẻ đẹp mong manh như giọt sương khuya trên cành hoa quỳnh, vẻ đẹp lả lướt như cành liễu bên hồ, vẻ đẹp yểu mệnh như tia nắng chiều thu sắp tắt…
Như Văn Bình là khối nam châm mà nàng là kim khí, nàng ôm chầm lấy chàng:
-Em nhớ anh quá! Em cám ơn anh.
Nàng hôn vào má, vào cổ chàng, không đếm xỉa đến những người qua lại. Cũng may là đường Phra Athit không phải là con đường ngựa xe như nước áo quần như nêm của thủ phủ Vọng Các nên người qua lại thưa thớt. Và may nhất là trời tối. Tuy vậy, ánh đèn đường cũng chiếu sáng vào chỗ hai người ôm nhau hôn.
Nàng liến thoắng hỏi chàng:
-Anh đến đã lâu chưa?
Lẽ ra chàng phải đáp là đến đã lâu. Có thể Mỹ Linh còn có liên hệ với tình báo của địch. Không hiểu sao chàng lại đối xử với nàng một cách hoàn toàn thành thật:
-Mới. Anh mới từ Ba Lê đến Vọng Các.
-À, chuyến thường lệ 6 giờ tối. Bao giờ anh đi?
-Chưa định. Hiện nay em ở đâu?
-Gần khách sạn Thái Hotel. Nếu anh không bận, em xin mời anh thăm nhà em ngay bây giờ.
Văn Bình chép miệng:
-Đáng tiếc…
Mỹ Linh thở dài:
-Em biết rồi. Anh đang có công chuyện. Thôi anh đi đi. Nếu anh cho phép, em sẽ đến lữ quán tìm anh. Anh còn ngụ tại Erawan như mọi lần nữa không?
-Không. Anh lấy phòng ở Thái Hotel.
Nàng ngần ngừ một giây như để suy nghĩ chín chắn rồi nói, giọng buồn buồn:
-Có lẽ em không nên đến thăm anh thì hơn.
-Tại sao?
-Vì em còn làm việc với họ.
-Ồ, em còn làm việc với họ thì có gì là lạ. Anh sẽ chờ em.
-Anh là người đàn ông rộng lượng.
Văn Bình kéo Mỹ Linh vào sát ngực. Nàng hôn chàng lần nữa. Phải là người coi trời bằng vung như Văn Bình mới dám ôm đàn bà âu yếm ngoài đường vì kiểm tục Thái khá nghiêm khắc. Sở dĩ chàng hôn đi hôn lại không phải vì quá thèm đàn bà (đêm nào mà chàng không có đàn bà một bên!) mà là vì làn môi Mỹ Linh tiết ra một sức hút kỳ lạ. Theo y học, đàn bà mắc bệnh đồng tính luyến ái thường dửng dưng về ân ái, ôm đàn ông họ có cảm giác như ôm bức tượng đá. Da thịt đang nóng bỗng lạnh ngắt, đàn ông đụng vào sẽ phải run lên cầm cập. Nhưng khi đàn bà đồng tính luyến ái biết yêu đàn ông, họ sẽ yêu mãnh liệt gấp chục lần con người bình thường.
Mỹ Linh bấu ngón tay vào vai chàng, không muốn rời xa nữa. Nếu da thịt chàng không được tập luyện công phu, cử chỉ âu yếm của nàng đã làm chàng tóe máu. Mãi mấy phút sau nàng mới chịu rời ra, giọng luyến tiếc:
-Em đi nhá!
Mỹ Linh đã khuất trong bóng tối mà Văn Bình còn ngây ngất. Giờ đây chàng mới hiểu sao người La Mã cổ xưa thích yêu những cô gái khỏi bệnh đồng tính luyến ái. Cách đây không lâu, một số đại diện tình báo trong thế giới tự do nhóm họp tại thủ đô Hòa Lan, được coi là thủ đô của bệnh đồng tính luyến ái, để nghiên cứu tác động của bệnh tâm lý này về phương diện nghề nghiệp. Văn Bình là hội thảo viên. Đúng ra, đại biểu của điệp báo Nam Việt là Triệu Dung, Văn Bình chỉ đóng vai phụ tá. Chàng vốn ghét hội họp, bàn bạc, chỉ ưa hành động sôi nổi, nhưng vì đề tài hội thảo liên quan đến cuộc đời giang hồ tình cảm của chàng nên chàng nằng nặc xin đi. Vì vậy, chàng được biết rằng đồng tính luyến ái không phải là bệnh của thời đại nguyên tử mà là di sản của thời xa xưa. Một trăm năm trước Thiên Chúa giáng sinh, dân chúng La Mã đã tổ chức hội liên hoan của những người đồng tính luyến ái vào ngày 23 tháng 4 hàng năm. Thần Apollo, thần của ánh sáng, của ca nhạc, của thơ, của vẻ đẹp con người trong huyền thoại Hy Lạp cũng có bệnh đồng tính luyến ái hữu danh với 20 « nhân tình » đực rựa…
Văn Bình đã tỏ vẻ hoài nghi khi các hội thảo viên nói về sự hăng say lạ lùng của các nữ bệnh nhân đồng tính luyến ái được bình phục. Đêm nay, trên lề đường Phra Athit, chàng mới thấy rõ sự thật. Sự thật đam mê này còn đọng trên môi, trên má, trên da thịt chàng. Chàng bâng khuâng nhìn theo Mỹ Linh rồi rút thuốc lá ra hút.
Mưa bắt đầu rơi lớt phớt.
Trời mưa lâm râm mà ở lì trong phòng khách sạn với một cô gái đam mê thì tuyệt…Văn Bình lắc đầu xua đuổi những ý nghĩ thèm thuồng vừa nhú lên. Công việc quan trọng đang chờ chàng trong một căn nhà ở giữa đường Phra Athit.
Thở dài, chàng đếm bước trên vỉa hè vắng vẻ.
Trong đời hoạt động, Văn Bình đã nhiều lần nhận lãnh chỉ thị công tác một cách kỳ quặc. Tuy nhiên, trong hầu hết trường hợp, chàng đều được biết trước nội dung của điệp vụ mà chàng có trách nhiệm thi hành. Nếu không biết rõ chi tiết thì cũng biết qua nội dung. Nhưng lần này, chàng chẳng biết ất giáp gì hết.
Phi cơ riêng chở chàng vừa đáp xuống Hoa thịnh Đốn là một phái viên CIA khác đã chờ sẵn ngoài sân bay bê-tông. Chàng không kịp bước vào trong nhà gắn máy điều hòa khí hậu để chiêu một khúc bánh mì thịt nguội của rượu huýt ky nữa vì một chuyến phi cơ thương mãi sắp sửa cất cánh đi Nữu Ước. Đến Nữu Ước, chàng lại lên phi cơ đi Ba Lê. Rồi từ thủ đô ánh sáng Ba Lê thẳng một mạch về Vọng Các.
Chàng không được diện kiến ông tổng giám đốc Sì-mít như những lần trước. Chàng cũng không được biết trước sẽ đi đâu, gặp ai, và làm gì. Chỉ thị công tác được đựng trong ba cái phong bì. Cái ngoài màu vàng, không đề chữ. Cái giữa nhỏ hơn, màu xanh cũng không đề chữ. Cái trong cùng nhỏ hơn nữa, với những giòng chữ đánh máy trên giấy màu đỏ nhạt:
« Ngay sau khi xuống phi cơ ở Vọng Các, yêu cầu đại tá đến số nhà …trên đường Phra Athit, nhà của một người làm nghề bói bài, tên là Prakun.
Mật ngữ:
a.Vợ chưa cưới của tôi bị mất tích cách đây 36 tiếng đồng hồ, tôi nóng ruột muốn biết nàng còn sống hay chết.
b.Tôi sẽ bói ngay và trong 5 phút sẽ có kết quả. Trong quá khứ có người bị mất tích 85 ngày mà tôi vẫn tìm ra tông tích. Tuy nhiên, về vấn đề thù kim, tôi lấy đắt hơn người khác.
c.Tôi không có tiền bath. Đô la được không? 10 đô la nhé?
d.Tiền bath tiện hơn. Nhưng đô la cũng được. Nếu có thể, xin ông trả cho 15 đô la.
Sau khi trao đổi mật ngữ, đại tá sẽ ngồi đợi. Một người bạn của đại tá sẽ đến và trao nhiệm vụ mới. »
Lệnh công tác của ông Sì-mít chỉ có thế. Trước khi chàng qua tây bán cầu, ông Hoàng đã kêu chàng vào văn phòng và kể khổ liền tù tì gần 60 phút đồng hồ về việc ngân quỹ của Sở sắp cạn. Chàng thường nghe ông Hoàng kể khổ như vậy nhiều lần, và lần nào sau khi kể khổ, ông Hoàng cũng hỏi chàng bằng giọng lo lắng:
-Anh đã nghe rõ chưa? Mình hết tiền rồi. Có lẽ phải nhờ đến anh mới xong. Anh có sẵn lòng giúp cho một tay được không?
Dĩ nhiên là chàng phải giúp một tay. Giúp cả hai tay, hai chân chàng cũng không từ chối huống hồ chỉ giúp một tay. Vả lại, chàng muốn lắc đầu cũng không đặng. Chàng đành gật đầu lia lịa, và ông hỏi nói:
-Nhân tiện anh sang Mỹ, tôi đã liên lạc với bên CIA. Ông Sì-mít cho biết hiện có một vài công tác khó khăn ở Viễn Đông muốn nhờ anh giải quyết. Về khoản tiền nong, tôi sẽ định sau với họ. Anh nghĩ sao?
Dĩ nhiên là Văn Bình chẳng nghĩ gì cả vì ông Hoàng đã nghĩ giùm chàng. Nghề gián điệp là nghề của sự éo le, đôi khi gần như lố bịch vì chàng phải từ Việt Nam tới Hoa Kỳ, non nửa vòng địa cầu, để rồi từ Hoa Kỳ trở về gần Việt Nam, thêm nửa vòng địa cầu nữa, để được biết là chàng sẽ hoạt động ở Vọng Các, cách Sàigòn có hai giờ đồng hồ chim sắt.
Chàng đâm oán ông Sì-mít, oán ông Hoàng, oán luôn cả chính mình. Nếu người ta nói toạc móng heo là hoạt động ở Vọng Các, có phải là chàng tiết kiệm được gân sức và bồ hôi không?
Chàng ném điếu Salem rồi quẹo vào hẻm tối bên trái. Tiệm bói toán của CIA nằm ép ở giữa hẻm. CIA là tổ chức gián điệp giàu nhất thế giới. Họ thiếu gì tiền mà lại chui rúc trong cái ổ chuột tối om này? Văn Bình tự hỏi song không tìm ra giải đáp. Thủ đô Vọng Các cũng là thủ đô Đông Nam Á của Xịa (tiếng lóng của tình báo Việt Nam gọi CIA). Cá lớn cá bé ở Phi luật Tân và Đông Dương đều tùy thuộc tổng hành doanh Vọng Các. Tại đây, Xịa chiếm một tò nhà khá đồ sộ làm văn phòng chính thức, và trên dưới một trăm ngôi nhà khác dành cho nhân viên cao cấp trú ngụ hoặc dùng làm địa điểm tiếp xúc an toàn. Nhà của họ đều rộng, đẹp chứ không phải là cái quái thai gạch ngói xiêu vẹo, bẩn thỉu mà Văn Bình sắp đến.
Chàng lẩm bẩm một mình:
-Có lẽ mấy anh Xịa này điên rồi!
*****
Văn Bình đã rủa oan hệ thống tình báo CIA.
Vì họ không hề điên. Lúc chàng rủa họ cũng là lúc họ tỉnh táo, sáng suốt, lanh lẹ, khôn ngoan hơn bao giờ hết.
Trời tối hẳn. Trời tối ở những khu vực nhiệt đới là thời gian mà người tây phương lười làm việc nhất. Họ phải ra đường hóng mát, hoặc chui vào các căn phòng hoan lạc không khí điều hòa mát rợi. Đặc biệt là ở ngoài đường cũng như trong phòng, họ phải có đàn bà cặp kè một bên. Đàn bà Á đông là của trời cho hấp dẫn đối với đàn ông tây phương quen bị giống cái của họ bắt nạt. Đối với đàn ông Mỹ thì giống cái ở xứ Thái lại hấp dẫn gấp chục lần. Phụ nữ Thái khá ngoan, và ngon lành về thân hình, lại không bắt họ canh chừng máy giặt hoặc là rửa chén bát. Nên gần như thông lệ, chú Sam nào đến Thái cũng dành trọn thời gian từ chập choạng tối đến chập choạng sáng cho thú vui yêu cuồng sống vội.
Cũng vì lý do dễ hiểu này nên các văn phòng chính thức của Mỹ đều tắt đèn và đóng im ỉm. Tối hôm Văn Bình đến Vọng Các, mọi văn phòng của một tòa nhà 5 tầng, đường Wireless cũng tắt đèn và đóng im ỉm, trừ ở lầu 5. Đường Wireless là nơi tọa lạc đại sứ quán Mỹ, ở số 95. Nhưng tòa nhà 5 tầng này không mang số 95 vì nó là trụ sở kín của Xịa.
Bề ngoài tòa nhà này là trụ sở một công ty xuất nhập cảng lớn, có chi nhánh khắp Đông Nam Á. Hoạt động thương mãi và doanh nghiệp thực thụ chỉ diễn ra ban ngày, và từ lầu nhất đến lầu 4. Còn ban đêm và lầu 5 được coi là môi trường của CIA. Muốn lên lầu 5 phải dùng thang máy từ dưới nhà lên lầu 4, nơi đặt phòng giấy của viên giám đốc công ty. Rồi từ lầu 4 lên trên bằng cầu thang xi-măng. Cầu thang máy đặc biệt được xây kín trong tường, dành riêng cho viên giám đốc và một số nhân viên cao cấp.
Tối hôm ấy, lầu 5 được thắp đèn sáng trưng. Tuy nhiên, những bức riềm bằng vải tẹt-gan dầy đã ngăn ánh sáng lọt ra ngoài. Trong một căn phòng rộng, chỉ có một cửa ra vào, hai người đàn ông trên tứ tuần, mũi lõ, mắt xanh, khuôn mặt nghiêm trọng đang ngồi đối diện nhau quanh cái bàn sắt lớn sơn màu xám nhạt. Một người là giám đốc công ty xuất nhập cảng giả hiệu, tên là Cônby. Người thứ hai, trẻ hơn, đẹp trai hơn và vui vẻ hơn là đặc phái viên CIA vừa từ Hoa thịnh Đốn tới hồi sáng.
Viên giám đốc nói:
-Y vừa đến phi trường Don Muong. Cuộc tiếp xúc sẽ diễn ra trong vòng 60 phút nữa. Đại tá sửa soạn xuống xe thì vừa.
Đại tá đặc phái viên CIA có vẻ ngần ngại:
-Y là con hổ trong ngành gián điệp, chứ không phải là cán bộ tầm thường. Tôi sợ đòn phép không qua được mắt y đâu.
-Đây không phải là đòn phép. Mà là chiến thuật hành động. Tôi xin nhắc anh là Sở đã hứa trả công cho mật vụ Nam Việt 12 triệu đô la.
-Tôi nghe ông Sì-mít nói là có 8 triệu.
-Phải, thoạt đầu thỏa thuận 8 triệu, được trả bằng bạc Việt Nam qua trung gian quỹ đối giá của viện trợ Mỹ. Nhưng vào giờ chót, họ yêu cầu được thanh toán bằng đô la xanh. Họ đáo để lắm, chờ cho nhân viên của họ rời Ba Lê rồi mới đặt điều kiện mới. 8 triệu đô la xanh đổi ra bạc Việt Nam tại thị trường quốc tế biến thành 12 triệu vì như đại tá đã biết, hối xuất chính thức theo quỹ đối giá là 118 đồng một mỹ kim, nhưng hối xuất chợ đen lên đến hơn gấp rưỡi. Nghĩa là khi không ông Hoàng đòi sơi thêm 4 triệu đô la.
-Ông Sì-mít đã ưng thuận chưa?
-Thì có gì mà không ưng thuận? Vì ông Hoàng có vòi thêm tiền đâu? Ông ta chỉ yêu cầu được trả bằng đô la, viện cớ là Sở Mật Vụ nhân viên đã có dư bạc bản xứ, và đang thiếu ngoại tệ trầm trọng. Tưởng cũng cần nói cho anh biết thêm là nếu có thể làm nổi vụ này, ta đã không thuê họ. Chẳng qua vì ta không có nhân viên thích ứng.
-Hừ…ta thiếu gì nhân viên ở đây! Trước khi lên đường, tôi đã nghiên cứu danh sách nhân viên Đông Nam Á. Hiện thời, gần 98.000 người ăn lương tháng của ta trong 12 quốc gia bao quanh Thái Lan. Riêng tại Thái Lan, nhân viên nổi và chìm đã lên tới 12.500 người. Không lẽ trong số này lại không tìm ra được một nhân viên thích ứng…
-Nhưng đó là sự thật, một sự thật phũ phàng và chua chát. Sở dĩ ta không có nhân viên thích ứng vì ông Hoàng…
-Ông Hoàng phá đám?
-Cũng gần như vậy. Năm 1963, ta nhờ ông Hoàng theo dõi một vụ khoa học gia nguyên tử bị Quốc tế Tình báo Sở bắt cóc và đưa về lục địa Trung quốc. Hoạt động trên đất Tàu phải là người Á đông nên ta sẵn sàng trả 1 triệu đô la. Nhưng ông Hoàng chê ỏng chê eo không chịu. Bất đắc dĩ ông Sì-mít phải quay sang yêu cầu báo Đại Hàn. Tại vùng Thái bình dương, ngoài Nam Việt còn có tình báo Phi luật tân, Đài Loan, Thái Lan và Đại Hàn là quy tụ được nhân viên hữu hạng. Nghe nói một triệu đô la, tình báo Đại Hàn chấp thuận liền. Nhưng 6 tháng sau…
-Thất bại?
-Phải, thất bại hoàn toàn. Họ mất luôn 3 nhân viên trong vòng 6 tháng nên rút lui không kèn không trống.
-Như vậy không phải do ông Hoàng phá đám.
-Ta kín đáo mở cuộc điều tra và phăng ra là phản gián Trung cộng đã biết trước. Tổng hành doanh của ta tại Vọng Các đã nghi ngờ mật vụ Nam Việt xì tin cho Quốc tế Tình báo Sở để tình báo Đại Hàn thất bại, khiến ta phải cầu cạnh họ.
-Có bằng chứng cụ thể?
-Nếu có thì còn nói gì nữa. Tất cả chỉ là nghi ngờ.
-Ồ, nghi ngờ thì không nên kết tội ông Hoàng. Trong nghề này, thất bại là thường.
-Nhưng không lý nào ta thất bại luôn một dây dài giằng giặc. Năm 1964, ta lại nhờ ông Hoàng lấy một tài liệu ở Bắc Cao. Lại vấn đề tiền. Lần này ta chịu trả 2 triệu. Nhưng ông già tham lam lại đòi gấp đôi, nghĩa là 4 triệu. Rốt cuộc, ta đành phải thương lượng với tình báo Phi luật tân.
-Và cũng thất bại?
-(thở dài não ruột) Cũng thất bại.
-Và cũng nghi ngờ ông Hoàn, nhưng không có bằng chứng cụ thể?
-Cũng vậy. Ông Sì-mít tức muốn hộc máu nhưng phải nén lòng điều đình lần thứ ba. Vụ này xảy ra trên lãnh thổ Bắc Việt. Lần thứ ba này, ông Hoàng nói toạc móng heo rằng trong hai lần trước, CIA hà tiện vô lý nên công việc thất bại, khiến cho tình báo hai quốc gia bạn bị thiệt hại. Vì vậy Sở Mật Vụ Sàigòn không thích làm thuê với CIA nữa. Ta xuống nước năn nỉ đến trẹo quai hàm, ông Hoàng mới lên giọng nhân nghĩa chấp thuận, song đòi 6 triệu đô la. Nghĩa là mỗi lần ông mỗi tăng giá. Ta phải ngậm đắng nuốt cay mà gật đầu.
-Và ông Hoàng thành công?
-Phải, thành công một cách ngon lành và dễ ớn. Lãnh 6 triệu đô la, ông Hoàng chơi cho ta một vố đau điếng. Trong một cuộc diện kiến với ông Sì-mít, ông ta ỡm ờ nói là một số nhân viên CIA ở Viễn Đông tiếc tiền không dám chi tiêu vào công cuộc bảo vệ an ninh nội bộ nên đối phương đã lợi dụng để thâm nhập. Rồi ông Hoàng đưa ra một danh sách nhân viên nhị trùng của địch, và nói là CIA cứ bắt giữ những người này là chặn đứng được sự trà trộn. Ông Hoàng lại nói thêm là Sở Mật Vụ đã mất khá nhiều hy sinh nhân mạng, công phu và tiền bạc để đoạt được bản danh sách này. Tuy nhiên, sau khi thanh lọc hàng ngũ, ông Sì-mít muốn trả bao nhiêu tiền cũng được.
-Bản danh sách này đúng hay sai?
-Đúng trăm phần trăm. Không biết ông Hoàng đã tìm thấy ở đâu.
-Và ông Sì-mít đã tốn bộn tiền…
-10 triệu đô la nữa. Nhưng vấn đề tài chính chưa quan trọng bằng vấn đề tin cậy. Ông Sì-mít đã tin cậy ông Hoàng ngoài sức tưởng tượng. Tôi có cảm tưởng rằng ông Hoàng chẳng thương gì ta. Nếu có, thì chỉ là thương đồng đô la. Ông ta thiếu tiền nên phải cặp kè với ta, thế thôi. Và nếu gặp cơ hội thuận tiện, ông ta sẽ là người đầu tiên đâm vào lưng ta. Anh nghĩ sao?
Đặc phái viên của Trung ương CIA mân mê cái máy điện thoại màu đỏ trên bàn, vẻ mặt trầm ngâm:
-Hiện giờ, tôi chẳng biết nói gì cả. Vì tôi phải gặp y trước khi có một thái độ rõ rệt.
Giám đốc công ty xuất nhập cảng giả hiệu Cônby nói:
-Tôi xin báo cáo anh biết là chúng tôi tuân lệnh ông Sì-mít, song không thể hợp tác chặt chẽ với nhân viên của ông Hoàng. 12 triệu đô la không phải là món tiền nhỏ.
Đặc phái viên Trung ương thở dài:
-Anh muốn làm gì, tùy ý. Tôi không ngăn cản. Vả lại, tôi cũng không có thẩm quyền ngăn cản anh. Về binh nghiệp, anh cũng là đại tá như tôi, nhưng về chức vụ chuyên môn, anh là giám đốc địa phương, còn tôi là chánh sở Kế hoạch Hành động ở Trung ương. Mỗi người một nhiệm vụ, một lãnh vực hoạt động riêng biệt. Tôi chỉ được lệnh sang đây tiếp xúc với đại tá Văn Bình của Sở Mật Vụ Nam Việt và giao nhiệm vụ cho y. Thú thật, tôi không ngờ tình hình nội bộ lại khó thở đến thế…
Giám đốc địa phương Cônby cau mặt, buông mình phịch xuống ghế.
*****
Văn Bình tạt qua mái hiên bên trái rồi dừng lại. Khi bước qua hẻm, chàng đã quan sát kỹ càng phía sau. Chàng không tin là bị theo.
Căn nhà mang số 24.
Đó là một căn nhà trung bình, có lầu, được đúc bê-tông, quét vôi trắng toát. Trước cửa nhà là một cột đèn công cộng. Ánh đèn nê-ông chiếu sáng vào hàng ba.
Cửa vào được mở rộng, bên trong thắp đèn sáng quắc. Ngoài cửa, Văn Bình nhìn thấy một tấm bảng gỗ sơn nhiều màu, trên vẽ những con bài cơ to tướng, bên cạnh một bàn tay mở rộng, lớn bằng tờ báo, bên trên có những đường chỉ màu đỏ. Tấm bảng gỗ chi chít những hàng chữ như con giun. Văn Bình biết nói chứ không đọc làu Thái ngữ nên đoán phỏng đó là văn chương quảng cáo nghệ thuật bói bài của Prakun.
Chàng trèo ba bậc cấp vào nhà. Prakun ở phòng trong. Phía ngoài là phòng đợi. Cũng như các phòng đợi khác, nó chỉ gồm những cái ghế lợp da cũ kỹ kê sát tường, và trên cái bàn kê giữa phòng, chàng thấy một chồng báo hàng ngày và tạp chí hình ảnh. Văn Bình chưa kịp yên vị thì một cô gái khá xinh đẹp, mặc áo dài Tàu từ cửa hông bước ra, nghiêng đầu chào chàng.
Tuy nàng mặc sường sám Trung hoa, chàng cũng biết nàng là người Xiêm trăm phần trăm, căn cứ vào làn da hơi ngăm ngăm, cái cổ tròn trịa, bộ ngực nhỏ nhưng cứng, bắp chân toàn thịt, không thấy chút mỡ. Chàng thè lưỡi liếm giọt nước ngọt vô hình trên mép. Thân hình nẩy nở của cô gái làm chàng khát nước, mặc dầu hồi nãy trên phi cơ chàng đã gọi sâm-banh uống gỡ gạc, uống cả mấy chai một lúc như thể lạc đà.
Cô gái cười duyên với chàng rồi liến thoắng hỏi chàng bằng tiếng Thái. Văn Bình không giỏi lắm nhưng cũng không đến nỗi bết lắm về tiếng Thái nên trả lời trơn tru. Cô gái hỏi chàng có phải đến bói bài và mua thuốc không, và dĩ nhiên chàng trả lời có tuy chàng không tin vào tài bói bài của Prakun, cũng như không biết Prakun bán những thứ thuốc gì.
Giới giang hồ quốc tế cho chàng biết thủ đô Vọng Các có một số cửa tiệm bán thuốc khích dâm và dụng cụ sinh lý đặc biệt. Các tiệm này trá hình làm tiệm coi tướng, bói bài hoặc bán đồ nhật dụng cần thiết. Hầu hết các thành phố lớn ở Viễn Đông đều có những cửa tiệm lạ lùng này. Tuy nhiên, ở Vọng Các, nó có vẻ khác thường hơn với nhiều môn thuốc bí truyền được mang từ Diến Điện và Ấn Độ tới.
Cô gái mở cửa, mời chàng vào phòng trong.
Văn Bình suýt hắt hơi vì mùi nhang và mùi trầm hắt mạnh vào mũi chàng. Gian phòng không lấy gì làm hẹp, song vì đồ đạc quá nhiều nên chàng có cảm tưởng là bước vào sà-lim. Hàng chục thứ cây hình thù cổ quái trồng trong chậu sứ được bày quanh phòng, cao bằng đầu người. Trên trần treo lủng lẳng hàng trăm băng giấy ngũ sắc, ánh đèn đỏ làm chàng phải nheo mắt.
Giữa phòng chễm chệ một bộ ván bằng gỗ mun khảm xà cừ. Prakun ngồi xếp bằng tròn bên trên, lưng dựa vào một chồng gối cao ngất, bọc vải xanh vàng đỏ sặc sỡ. Trước mặt Prakun là một dãy bát hương, khói bốc nghi ngút. Và một cái lư đồng lớn, bệ vệ, kiêu căng, tỏa khói trầm ngào ngạt…
Cô gái nói nhỏ vào tai chàng:
-Mời ông ngồi.
Văn Bình vẫn đứng sừng sững trước bộ ván, không quan tâm đến những vòng khói đen dầy xoắn vào mũi, vào mắt. Mặt chàng biểu lộ vẻ sửng sốt. Chàng đinh ninh trước khi đến đây, Prakun là thằng cha đực rựa, chuyên lợi dụng sự dễ tin của đàn bà con gái để kiếm ăn. Chàng không dè Prakun là đàn bà.
Và đàn bà có thân hình và bộ ngực núi của. Cô gái mặc áo Tàu chỉ bằng một phần của Prakun mà Văn Bình còn liếm mép thèm thuồng, huống hồ…
Văn Bình quên cả lịch sự tối thiểu khi Prakun cất tiếng chào. Chàng ngây người, hai chân như bị vặn bù-loong vào nền nhà vì chàng khám phá ra Prakun mặc áo hàng voan mỏng màu trắng, cái yếm bên trong cũng bằng hàng mỏng –và đục lỗ lớn như vải tuyn may mùng- da thịt hồng hồng của cô thày bói hiện ra lồ lộ dưới cặp mắt hau háu của chàng.
Prakun dịu dàng:
-Ông coi bói?
Văn Bình đáp:
-Vợ chưa cưới của tôi bị mất tích cách đây 6 tiếng đồng hồ, tôi nóng ruột…
Prakun cắt lời:
-Tôi hiểu ý ông rồi. Ông nóng ruột muốn biết nàng còn sống hay chết. Nàng đang còn sống, ông ơi! Ông không cần bói bài nữa…
-Cô là Prakun?
-Không lẽ tôi lại là đại tá Văn Bình Z.28!
-Trời đất!
-Tôi đã biết mặt, nghe danh đại tá từ lâu, nên thiết tưởng không cần trao đổi mật ngữ nữa.
-Vâng, xin tùy cô.
-Mời đại tá dùng rượu huýt ky. Tôi có mấy chai tuyệt ngon. Gửi mua tận bên Anh quốc.
Prakun rót huýt ky từ một chai Black anh White mới khui vào hai cái ly đã lên nước bóng loáng, rồi đưa cho Văn Bình:
-Đại tá uống đi cho tim bớt đập.
Văn Bình ngạc nhiên:
-Tôi là người luôn luôn bình tĩnh. Dầu gặp trường hợp tối hiểm nghèo, tôi cũng chỉ đập 80 cái trong một phút.
-Nhưng hiện thời tim ông đang đập trên một trăm. Đại tá vừa mất tĩnh, bằng chứng là trong mật ngữ định trước, đại tá phải nói « 36 tiếng đồng hồ ». Đại tá quên phắt và nói « có 6 tiếng đồng hồ » mà thôi. Theo quy tắc nghề nghiệp, nhân viên điệp báo không được quên một dấu phẩy. Vậy mà…
Văn Bình cảm thấy đau nhói ở ngựcc. Prakun nói đúng, chàng đã lầm 36 ra 6. Lần đầu tiên từ nhiều năm nay chàng quên mất mật ngữ. Nếu Prakun là người lạ, chàng đã lãnh một viên đạn vào tim.
Prakun uống một hớp rượu rồi nói, giọng thong thả:
-Tiếng đồn quả không sai, đại tá là người đàn ông khôi ngô, khỏe mạnh, và khả ái nhất nhì ở châu Á. Đàn bà trên thế giới chắc phải chết mê chết mệt vì đại tá. Tại sao đại tá còn chần chừ chưa uống? Cái ly uống không phải bằng pha lê đắt tiền và thiếu mỹ thuật chứ gì? Đừng trông mặt mà bắt hình dong, thưa đại tá. Tuy cái ly của tôi không phải bằng pha lê, song lại tốt hơn, quý hơn pha lê nhiều. Da nó xù xì vì các ông hoàng bà chúa Ba Tư muốn như vậy. Vâng, ly này được sản xuất tại xứ ngàn một đêm lẻ Ba Tư. Cung nữ làm riêng để tiến lên đức vua.
Văn Bình nâng cái ly đen sì lên mắt để ngắm nghía. Đắt nhất và quý nhất là ly bằng ngọc bích. Trong cuộc đời giang hồ, chàng đã có dịp uống vương tửu trong chén ngọc bích. Uống vào khỏi miệng là tâm thần lâng lâng như bay lên chín tầng mây. Hồi ở Trung hoa, chàng đã uống mai quế lộ đựng trong ly ngọc bích Diến Điện, nước nổi tiếng về ngọc bích đẹp nhất hoàn vũ, đẹp hơn cả ngọc Tích Lan.
Nhưng ly ngọc bích không bao giờ mang màu đen và tối om như củ mật. Ngọc bích bao giờ cũng mang màu đỏ, thường là đỏ chói như có máu tươi, hoặc hồng hồng, và rực rỡ ánh sáng. Cái ly của Prakun lại méo mó, gồ ghề chứng tỏ đã được cắt tiện một cách vụng về. Văn Bình quan sát một lát rồi đặt xuống, ngước nhìn Prakun như yêu cầu nàng giải thích. Prakun rót thêm rượu rồi bưng lên môi uống tiếp. Uống xong, nàng mới ngửa cổ cười nhè nhẹ:
-Để tôi giảng cho đại tá nghe. Cái ly này không phải bằng ngọc bích hoặc quý thạch. Mà là bằng …sừng trâu.
-Sừng trâu?
-Phải. Đại tá sửng sốt ư? Người dân ở Trung Đông coi sừng trâu là môn thuốc kỳ lạ. Đeo nhẫn bằng sừng trâu thì tránh được bệnh run tay run chân. Dùng sừng trâu làm ly uống rượu thì tim khỏi đập mạnh, sức khỏe gia tăng, và chịu đựng thêm bền bỉ. Sừng trâu thường đã có những dược tính như vậy, sừng tê giác còn đặc biệt hơn nữa. Cái ly mà đại tá đang uống được tiện trong sừng tê giác. Mỗi cái sừng chỉ chế được một cái ly. Phải lấy cái lõi ở bên dưới mà cắt ra thì ly mới tốt. Giống tê giác này chỉ sinh sống trong rừng già Bắc Lào, gần Phong Saly. Đi săn cả năm may ra mới bắn được một con đủ làm hai cái ly. Tê giác cái thì sừng tiết ra một chất kỳ dị, hễ uống rượu đựng trong ly sừng thì đàn ông đâm ra mê mẩn. Tê giác có chửa thì tác dụng còn mạnh gấp ba. Một số lang dạo ở gần biên giới Trung hoa đã rót rượu vào sừng tê giác có chửa để mời các cô gái đẹp uống…Cặp ly của tôi làm bằng sừng tê giác có chửa. Đại tá sợ mê tôi nên không dám uống chứ gì?
Văn Bình khựng người. Prakun nhìn chàng bằng cặp mắt tuyệt đẹp. Nàng không dùng lông mi giả và bút chì màu mà mắt nàng vẫn rộng, và đen láy, hàng mi vẫn rậm rì. Xưa nay, chàng vẫn tấn công phụ nữ, ít khi chàng bị phụ nữ tấn công trong tình trường. Song hôm nay, Prakun đã ngang nhiên tỏ tình với chàng…
Văn Bình chưa kịp trả lời thì Prakun đã cười khanh khách:
-Đại tá nổi danh là người đàn ông bách chiến bách thắng, nhưng đại tá sẽ thua tôi. Tôi muốn đại tá mê ai, yêu ai thì đại tá sẽ phải tuân lệnh răm rắp. Đại tá không tin ư? Vậy, tôi xin mời đại tá thử vài món thuốc do tôi chế tạo. À, tôi quên chưa tự giới thiệu với đại tá tôi là bà thày khét tiếng về bùa yêu ở Thái Lan. Đối với đại tá, tôi xin tính giá phải chăng. Toi có một loại bùa yêu hiệu nghiệm tuyệt đối. Chỉ một trăm đô la thôi…
Bùa yêu không còn xa lạ đối với một người lăn lộn từ đông sang tây, từ đồng bằng lên rừng núi, từ sa mạc cháy bỏng đến vùng băng giá lạnh lẽo, từ các quốc gia tự do đến phía sau bức màn sắt như điệp viên Văn Bình Z.28. Chàng đã nhiều lần dùng bùa yêu, và nhiều lần là nạn nhân của bùa yêu. Chàng tin tưởng mãnh liệt vào khả năng của bùa yêu, nhất là bùa yêu Trung Đông.
Bùa yêu cũng là một trong nhiều môn được giảng dạy trong trường điệp báo. Đã có lần Văn Bình lặn lội trèo nen vượt suối dọc biên giới Thổ nhĩ Kỳ để tìm một giống ngựa cái đẻ con có bùa yêu. Bùa yêu này là một cục bướu đầy thịt mọc trên đầu con ngựa sơ sinh. Ngay khi sinh hạ, ngựa mẹ đã ngoạm cục bướu này, nhổ vứt đi, nên tìm nó rất khó khăn (1).
(1) cục bướu này được dùng để chế bùa yêu hippomanès của người tây phương.
Bùa yêu thường được pha chế nhất là một con cóc sống. Ngày thứ sáu, ngày kiêng thịt của tín đồ Thiên Chúa giáo, khi chập choạng tối, người ta tìm bắt một con cóc, mang về phơi khô rồi đem tán nhỏ thành bột thật nhuyễn. Bỏ chất bột cóc vào một cái túi kín, dán kín lại, giấu dưới bàn thờ đúng ba ngày ba đêm, xong đâu đó đem chất bột rắc vào hoa. Cô gái ngửi nhằm hoa sẽ ốm tương tư.
Người phương tây còn chế bùa yêu bằng lá cây hồng hoang (2) phơi khô, hái trước ngày lễ thánh Gioan, tức là ngày 26-6, may trong một cái túi vải mỏng, đeo trước ngực đúng 9 ngày. Còn muốn tạo cho thân thể một hơi hướng quyến rũ, bắt người yêu phải nhớ suốt đời thì pha trộn một ve nước hoa gồm 20 gram nước cốt hoa đinh hương (3), 10 gram nước cốt hoa phong lữ thảo, và 200 gram cồn 90 độ.
(2) lá hồng hoang tức là pervenche. Người ta còn dùng một thứ khác gọi là Oenula Campana, mùi thơm bạc hà.
(3) đinh hương là girofle, phong lữ thảo là géranium. Những bùa yêu kể trên được thông dụng tại Âu châu, nhất là ở Pháp và Ý. Ở Viễn Đông, nghệ thuật pha chế bùa yêu được coi tinh vi hơn một bực.
Văn Bình không thuộc vào loại đàn ông dùng bùa yêu. Thân chủ của bùa yêu thường là những chàng trai xấu xí, hãm tài, và cù lần, không lôi cuốn được cảm tình của nữ giới hoặc không đủ tài năng thỏa mãn những đòi hỏi tự nhiên của nữ giới. Chàng chưa dùng bùa yêu mà đàn bà, con gái đẹp đủ màu da, đủ hạng tuổi đã bám sát lấy chàng như được gắn dính bằng keo thượng thặng êpoxy. Nếu dùng bùa yêu, thì chàng sẽ chết ngộp vì người đẹp…
Nghe Prakun đề nghị, Văn Bình chỉ nhoẻn miệng cười. Prakun hiểu ý chàng nên cười lạt:
-Đại tá gớm thật!
Đang cười một cách tự tin gần như kiêu hãnh, Văn Bình vội vàng ngậm miệng. Chàng có cảm tưởng Prakun đã dọc được bằng mắt những ý nghĩ nhú lên trong óc chàng. Prakun vẫn cười nhưng là cười nhạt, cười ra vẻ thách thức:
-Ông đại tá Văn Bình, ông đừng tưởng tôi nhẹ dạ như hàng trăm người đàn bà ông gặp trong đời. Ông đừng hòng lung lạc được tôi. Ông đẹp trai, tài giỏi thật đấy, song rất nguy hiểm…
Prakun đưa cánh tay ra sau, lấy cái áo choàng bằng len trắng treo trên ghế. Động tác này làm một bên ngực nàng ưỡn ra. Nhũ hoa tròn trịa và khiêu khích của nàng như xẻ toạc làn vải mỏng dính mà nhảy ra ngoài. Đầu óc Văn Bình rối beng. Chàng say sưa như vừa uống thuốc loạn tính. Nếu không kềm hãm được dục vọng, chàng đã nhảy xổ tới, ôm gọn thân thể căng cứng của cô thày bói kỳ dị.
Prakun khoác áo vào người rồi nói:
-Ông bạn của đại tá đã đến.
Cửa mở.
Bước vào là một thanh niên tây phương trạc tứ tuần, dáng đi cũng như khuôn mặt hoàn toàn quen thuộc đối với Văn Bình.
Chàng vội reo lên:
-Kìa Pit, đại tá Pit.
Chàng không ngờ đặc phái viên của CIA là đại tá Pit. Chàng đã có dịp gặp Pit và hoạt động với Pit cách đây không lâu, nhân một chuyến giả làm nhà bác học Cao Ly vượt bức màn sắt Liên Sô (xem « Núi Đá Tiên Tri », xuất bản 1965). Thời gian qua, viên phụ tá Hành động của ông tổng giám đốc CIA vẫn không đổi khác. Pit vẫn trẻ như hồi hai người quen nhau ở Mỹ.
Pit ôm lấy chàng:
-Tưởng ai, té ra anh.
Prakun lên tiếng:
-Mời hai ông đẩy cửa hông sang phòng bên.
Phòng bên được trang trí theo kiểu Nhật Bản gồm toàn bàn ghế thấp lè tè, che khuất bằng một tấm bình phong sơn mài sặc sỡ. Prakun chờ cho hai người vào trong rồi đóng cửa lại.
Văn Bình ngồi xuống ghế, lấy thuốc Salem ra hút. Pit nói, giọng hơi sửng sốt:
-Ồ, anh vẫn hút thuốc lá cũ?
Văn Bình cười:
-Tôi ghét thay cũ đổi mới.
-Hừ…anh nói sai rồi. Anh chỉ ghét thay cũ đổi mới thuốc lá Salem và rượu huýt ky. Còn đối với đàn bà thì tôi không tin. Tuy ở xa, tôi vẫn luôn luôn theo dõi thành tích của anh. Nghe nói đàn bà vẫn mê anh kinh khủng.
-Ồ, sự chung tình của giống cái không liên quan đến công việc mà anh sắp giao cho tôi thực hiện. Không lẽ ông Sì-mít lại chịu thuê tôi hàng triệu đô la chỉ vì tôi có biệt tài tán tỉnh phụ nữ…
-Biết đâu đấy!
-Nghĩa là anh muốn tôi biến thành Don Juan để thuyết phục cô vợ bé của Mao Trạch Đông làm mật báo viên cho CIA?
-Không hẳn thế, nhưng cũng gần như vậy. Tôi xin nhắc lại: anh là người có nhiều kinh nghiệm nên được ông Sì-mít coi là hội đủ điều kiện để hoàn thành kế hoạch « Phục kích ».
-Nghe anh nói, tôi có cảm tưởng là được ông Sì-mít mướn để phục kích, bắt cóc và ám sát…
-Không hẳn thế, nhưng cũng gần như vậy. Một yếu nhân Hoa Kỳ sắp đến Vọng Các thăm viếng. Trong khuôn khổ kế hoạch « Phục kích », anh có nhiệm vụ nghiên cứu mọi cách để ám sát yếu nhân này.
-Trời ơi. CIA cơ quan tình báo của chính phủ Hoa Kỳ lại chủ mưu ám sát một yếu nhân Hoa Kỳ. Thôi, anh giao cái kế hoạch « Phục kích » bất lương ấy cho người khác. Chúng tôi rất cần tiền, cá nhân tôi lại rất có cảm tình với cá nhân anh, nhưng tôi không thể xía vào cuộc tranh chấp nội bộ của nền chính trị Hoa Kỳ. Chào anh.
Văn Bình đứng dậy.
Chàng sửa soạn bước ra nhưng phải đứng lại vì Prakun vừa uyển chuyển bước vào.
Đại tá Pit đon đả:
-Cô tệ thật. Chúng tôi khát cháy cuống họng mà cô không cho uống gì cả.
Prakun nói:
-Xin ông tha lỗi. Tôi bị một nữ thân chủ giữ riệt ở ngoài. Vợ của một ông tướng, lại là khách quen nên tôi không tài nào đi nổi. Ông chồng mê vợ bé, bỏ phế vợ cả ấy mà. Tôi vừa đuổi bà ta đi xong. Hồi nãy, đại tá Văn Bình quên chưa uống rượu.
Cô gái mặc sường sám bưng khay rượu vào, đặt lên bàn rồi lặng lẽ lui ra, khép chặt cửa. Trên cái khay bạc, ly rượu bằng sừng tê giác đầy ắp huýt ky vẫn còn nguyên.
Văn Bình cảm thấy rờn rợn.
Chàng có linh tính là thần Chết đang lởn vởn đâu đây.
Chương I
Tiến >>
Đánh máy: tran datrau2022
Nguồn: TranDaTrau- VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 12 tháng 5 năm 2022