Từ Kasaoka (Bitchu) đi về phía Nam chừng bảy dặm, ở vùng biển nội địa Seto, tại nơi giáp ranh giữa ba tỉnh Okayama, Hiroshima và Kagawa, có một hòn đảo nhỏ chu vi chừng hai dặm, gọi là đảo Ngục Môn.
Đảo Ngục Môn
Các sử gia địa phương trước đây đã đưa ra nhiều cách giải thích về cái tên rùng rợn này. Trong đó có một giả thuyết đáng tin cậy nhất, cho rằng đảo này vốn tên là Bắc Môn, bắt nguồn từ những tư liệu khảo cứu như bên dưới.
Từ thời Fujiwara Sumitomo[1], vùng biển Seto đã khét tiếng về nạn cướp biển. Trước đây thuyền buôn từ lục địa đi qua cửa biển Akama để vào trung tâm Nhật Bản, thường bị đám cướp biển hung hãn trên biển Seto quấy nhiễu. Thế lực của chúng dĩ nhiên cũng có khi mạnh khi yếu, song từ thời Nara xa xưa (710 – 784) tới tận đầu thời Edo (1600 – 1867), chúng vẫn giữ vững truyền thống. Nhất là dưới thời Nam Bắc triều [2] (1336 – 1392), thế lực của chúng bành trướng lớn mạnh nhất. Ai nấy đều biết cướp biển Seto đã giữ vai trò quan trọng nhường nào trong suốt sáu mươi năm phân tranh Nam Bắc triều.
Đám cướp biển được gọi là “cướp biển Iyo”, bởi sào huyệt của chúng trải dài từ bờ biển Iyo đến các đảo nhỏ ở Hiuchi, Bingo. Đảo Ngục Môn hiện giờ là một trong những sào huyệt hồi ấy, vì nằm ở vị trí quan trọng phía Bắc nên được đặt tên là đảo Bắc Môn, đến một lúc nào đó bỗng đổi tên thành đảo Ngục Môn.
Ngoài ra cũng còn vài thuyết khác, nhưng thiếu căn cứ lịch sử chính xác. Nghe nói đầu thời Edo, trên đảo có một người vạm vỡ thân cao sáu thước bảy tấc nên nổi tiếng khắp nước, tên là Ngũ Hữu Vệ Môn. Từ bấy đảo này được gọi là đảo Ngũ Hữu Vệ Môn, đến một lúc nào đó bỗng đổi thành đảo Ngục Môn.
Tôi cũng không rõ gọi là Bắc Môn hay Ngũ Hữu Vệ Môn thì chính xác hơn. Nhưng kết quả cuối cùng vẫn là đổi sang cái tên xui xẻo Ngục Môn. Tại sao lại thế? Về điểm này, giả thuyết của các sử gia lại giống nhau.
Họ đều cho rằng, vào thời Mạc phủ, hòn đảo này từng là lãnh địa của một lãnh chúa nào đó ở vùng Chugoku[3]. Trên đảo trồng đầy thông đỏ, là đảo đá hoa cương biệt lập. Trên đảo ít ngư dân, chỉ biết đánh bắt cá kiếm ăn bằng phương pháp nguyên sơ nhất, nghe nói đều là con cháu của bọn cướp biển khi xưa. Về sau vị lãnh chúa kia muốn khai phá đảo, bèn biến nơi đây thành nơi lưu đày tội phạm. Từ ấy, những kẻ mắc tội tử hình trong lãnh địa của ông ta, nếu được xá tội chết, sẽ bị đày tới đây. Chính vì vậy, chẳng biết tự lúc nào, đảo đổi sang cái tên rùng rợn là đảo Ngục Môn.
Suốt ba trăm năm dưới thời Edo, hẳn cũng có những người được tha cho về quê cũ, nhưng chắc chắn vẫn còn không ít kẻ chết già ở đảo. Phần lớn kết hôn với ngư dân bản địa (vốn là hậu duệ cướp biển) và sinh con đẻ cái, ngoài ra trong các tội phạm được đặc xá về quê cũng có kẻ lúc trước đã thành đôi với phụ nữ ở đảo rồi để lại con cháu.
Đến thời Meiji, chế độ lưu đày bị bãi bỏ, nhưng dân đảo ghét người ngoài, lại thêm hạn chế về hoàn cảnh nên khó kết thông gia với dân đảo khác. Bởi vậy có thể nói, hơn ba trăm hộ dân với hơn một nghìn khẩu ở đảo đều là hậu duệ của cướp biển và tội phạm lưu đày.
Nếu trên đảo xảy ra vụ án, việc điều tra hẳn sẽ tương đối khó khăn. Về điểm này, ông K, nhiều năm làm giáo viên tiểu học tại một hòn đảo trong vùng biển Seto có lần đã kể, “Đảo tôi sống chỉ tầm hơn ngàn người, nhưng giữa họ lại có quan hệ thân thích chồng chéo hai ba tầng, thậm chí năm sáu tầng. Nói cách khác cả đảo giống như một gia tộc lớn vậy. Thế nên, cảnh sát từ nơi khác đến chẳng làm được gì, hễ xảy ra chuyện là cả đảo sẽ đoàn kết lại, cảnh sát đành bó tay.
“Nếu giữa dân đảo có hục hặc tranh chấp, ví như mất đồ hoặc trộm tiền, cảnh sát sẽ tới hỗ trợ điều tra, nhưng cứ sắp bắt được thủ phạm thì họ lại tự hòa giải riêng với nhau, còn nói không phải trộm cắp gì cả, hóa ra tôi cất vào tủ quần áo rồi quên khuấy đi mất. Cứ như thế, bảo bình yên thì cũng bình yên đấy, nhưng nếu có chuyện thì lại khó xử lý vô cùng.”
Ở các đảo bình thường còn thế, nói gì hòn đảo đặc biệt như Ngục Môn. Hậu duệ cướp biển! Con cháu tội phạm! Bị các đảo xung quanh hắt hủi, dân chúng dĩ nhiên sẽ ghét người ngoài gấp bội. Một khi có chuyện lôi thôi, khỏi nói cũng biết cảnh sát sẽ gặp khó khăn nhường nào.
Thế mà nơi ấy lại xảy ra án mạng. Còn là kiểu án mạng cực kỳ kinh khủng! Giết người hàng loạt một cách công phu, quái đản và tà ác khó tả, chỉ nghe kể thôi cũng sởn tóc gáy, thậm chí không tin nổi, hoàn toàn phù hợp với cái tên hòn đảo.
Nhưng quý vị độc giả đừng vội đưa ra kết luận, xin các vị nhớ cho, đảo Ngục Môn không phải hòn đảo tách biệt nằm tít ngoài khơi xa, mà ở ngay giữa biển nội địa Seto, bởi vậy hẻo lánh đến đâu cũng có mức độ thôi. Trên đảo có điện, có bưu điện, ngày ngày đều có thuyền từu đất liền ra ra đảo rồi trở về, xuất phát tại Kasaoka (Bitchu).
Chuyện xảy ra vào cuối tháng Chín năm 1946, sau chiến tranh tầm một năm.
Bạch Long là một tàu tuần tiễu trọng tải chừng 35 tấn, xuất phát từ Cảng Kasaoka. Cabin chen chúc đủ loại hành khách, ồn ào nhốn nháo, trong đó quá nửa là dân thường gần đây rủng rỉnh nên đi từ đảo Konoshima đến đảo Shiraishi ăn hải sản, còn lại là vợ chồng ngư dân từ các đảo nhỏ vào đất liền mua đồ. Vùng biển Seto dồi dào tôm cá nhưng lại thiếu gạo, nên cư dân ở đây thường đem tôm cá đổi lấy gạo ăn.
Tấm chiếu tatami cũ nát bẩn thỉu trong khoang lèn chặt khách và hành lý, chẳng còn chỗ đặt chân. Mùi mồ hôi, mùi cá, mùi sơn, mùi xăng, mùi khói xả… mùi nào cũng khó ngửi, giờ lại hòa trộn vào nhau lan khắp khoang thuyền. Ai hơi yếu dạ mà ngửi phải là nôn nao muốn mửa. Nhưng mọi người ở đây đều khỏe, vẫn thản nhiên cười nói bằng giọng địa phương oang oang, không khí thành ra ồn ào kinh khủng.
Tách hẳn khỏi sự hỗn tạp ấy, là một người đàn ông ngồi trong góc khoang. Anh ta đội mũ dạ mềm, mình vận haori[4] và hakama[5] kẻ ca rô.
Ngày nay người ta thường mặc đồ Âu hoặc na ná đồ Âu, ở nhà còn có lúc thế này thế khác chứ đã ra ngoài thì đến mèo và trẻ con cũng mặc đồ Âu luôn. Trên thuyền chỉ mình anh ta vận đồ Nhật, (thật ra vẫn có một người nữa, nhưng người ta là nhà sư, không tính).
Thời buổi này mà còn khăng khăng mặc đồ Nhật chứng tỏ tâm tính cũng khá bảo thủ. Mặt mũi anh ta vô cùng bình thường, dáng người thấp bé, phong thái không lấy gì làm nổi bật, da ngăm ngăm như người phương Nam, song cảm giác không mấy rắn rỏi khỏe khoắn, tuổi chừng băm tư băm lăm.
Anh ta ngồi tựa cửa ổ mắt nhìn xa xăm, mặc cho gió lùa lồng lộng và khoang thuyền ồn ào nói cười. Nước biển trong xanh, rải rác đó đây là những đảo nhỏ đẹp như tranh. Nhưng anh ta chẳng hề xao xuyến trước cảnh sắc ấy, trái lại còn lờ đờ buồn ngủ.
Giữa đường thuyền cập vào đảo Shiraishi và Kitagi, nhiều người xuống nhưng hầu như không có ai lên. Đã ba tiếng trôi qua kể từ khi tàu xuất bến Kasaoka, khi thuyền chuẩn bị rời đảo Manabe thì trong khoang vừa ầm ĩ là thế giờ chỉ còn ba hành khách.
“Ôi chao, đây chẳng phải sư thầy chùa Senko sao? Ban nãy tôi không để ý. Thầy đi đâu vậy ạ?”
Nghe giọng ồm ồm bắt chuyện, người bên cửa sổ giật mình bừng tỉnh, quay mặt vào nhìn. Kẻ vừa lên tiếng chừng bốn lăm bốn sáu tuổi, thoạt trông đã biết là ngư dân, mặc bộ đồ kaki rộng thùng thình, hình như mua lại từ quân đội Nhưng anh ta không chú ý tới kẻ này, mà chỉ nhìn người được gọi là sư thầy chùa Senko.
Nhà sư nọ tầm sáu mươi, mà không, có lẽ phải gần bảy mươi tuổi rồi. Song thân hình cao lớn vạm vỡ như tráng niên, mắt to, mũi lớn, miệng rộng, đem lại cho người ta cảm giác đáng tin cậy. Mắt ông ta trong trẻo ôn hòa nhưng vẫn ánh lên sắc lạnh. Vận bộ đồ đi đường bên ngoài kimono trắng, đầu trọc đội mũ không vành thêu kim tuyến.
Nhà sư cười hiền, nếp nhăn hiện nơi khóe mắt, “Ô, Takezo đấy à? Tôi cũng không biết anh ở đây.” Giọng điệu khá dễ chịu.
“Tôi có phải nhân vật quan trọng gì đâu. Thầy đi đâu vậy ạ?” Takezo hỏi lại.
“Tôi đến Kure lấy chuông về.”
“Chuông ư? Cái chuông bị trưng dụng trong chiến tranh ấy à? Nó vẫn còn ạ?”
“Vâng, chưa bị nấu chảy, vẫn được giữ ở đó.”
“Thầy đi lấy nó về à? Giờ nó ở đâu rồi?”
“Ha ha, tôi khỏe chừng nào cũng không vác nổi, chỉ tới làm thủ tục thôi, sau đó phải phiền mấy cậu thanh niên trên đảo đưa về hộ.”
“Cũng phải, để tôi giúp một tay nhé? Chuông vẫn còn lành lặn, đáng mừng quá!”
“Đúng rồi. Chuông cũng xuất ngũ về làng.”
Nhà sư đang cười, Takezo thình lình nói, “À quên, nói tới xuất ngũ về làng, tôi mới nhớ ra. Nghe đâu cậu Hitoshi của chi thứ cũng mới phục viên đấy.”
“Hitoshi của chi thứ?” Nhà sư bỗng nhìn chằm chằm vào người kia, “Sao anh biết? Bên quân đội báo về à?”
“Không phải bên quân đội, hôm kia, à nhầm, hôm kìa, một đồng đội của cậu ấy đột nhiên đến đảo chuyển lời rằng cậu vẫn khỏe mạnh bình an, mọi người đừng lo, không phải chuyến sau thì là chuyến sau nữa sẽ về. Hay tin, cô Sanae vô cùng phấn khởi, vội mời người đó ăn cơm, còn quà cáp cảm ơn.”
“Hừm, người đồng đội đó về rồi à?”
“Vâng, về mất rồi. Chỉ nghỉ lại một đêm thôi, nghe nói được biếu nhiều quà lắm. Nếu cậu Chima của chi chính còn sống thì hay quá.”
“Hừm, nếu cậu Chima còn sống thì hay.” Nhà sư nhắm mắt, lẩm bẩm cảm khái.
Người đàn ông ngồi bên cửa sổ đột ngột bước đến, “Xin hỏi, thầy có phải là thầy Ryozen ở đảo gục Môn?”
Nhà sư mở mắt, cặp mắt sáng rực nhìn xoáy vào anh ta, “Vâng, tôi là Ryozen, cậu đây là?”
Người đàn ông mở cặp lấy một phong bì, bóc phong bì, rút ra tờ giấy được gập cẩn thận, đưa cho nhà sư. Dường như là giấy xé từ một cuốn sổ tay, nhà sư nghi hoặc nhận lấy.
“Nhờ anh Kindaichi Kosuke chuyển giúp,” nhà sư đọc lên, rồi kinh ngạc nhìn người đàn ông mặc đồ ca rô, “Chữ cậu Chima đây mà!”
Người đàn ông lẳng lặng gật đầu.
“Cậu là Kindaichi Kosuke?”
Người đàn ông, giờ là Kindaichi, lại gật đầu.
“Trên thư ghi gửi ba người là tôi, trưởng làng và bác sĩ Murase, tôi xem luôn bây giờ được không?”
“Mời thầy.”
Nhà sư mở tờ giấy gấp kĩ ra, đọc lướt những hàng chữ viết tháu nhàn nhạt bằng bút máy. Đọc xong, ông gập thư lại như cũ, “Phiền cậu cho tôi xin cả phong bì, tôi sẽ tạm giữ bức thư.”
Sau khi cất thư vào phong bì, nhà sư lấy một túi giấy lớn trong ngực áo, kẹp phong thư vào. Đoạn chậm rãi quay lại nhìn Kindaichi.
“Có nghĩa là cậu muốn tìm một nơi yên tĩnh nghỉ ngơi ít lâu, mà đảo Ngục Môn là một địa điểm lý tưởng, vì vậy cậu Chima mới giới thiệu cậu tới tìm tôi, trưởng làng và bác sĩ Murase?”
Kindaichi gật đầu, “Có được không ạ? Có phiền các vị lắm không? Tôi đã chuẩn bị ít gạo…”
“Không, không hề gì. Nếu đã được chi chính giới thiệu, trên đảo có thiếu thốn đến đâu đi nữa cũng không để cậu đói, mọi người sẽ chăm sóc cho cậu. Cậu muốn ở bao lâu thì ở. Có điều, cậu Kindaichi này…”
“Dạ?”
“Rốt cuộc chi chính xảy ra chuyện gì vậy? À không, tại sao Kito Chima không về?”
“Chima, cậu ấy…” Kindaichi ngập ngừng, vẻ khó nói.
“Chết trận rồi ư?” Takezo run rẩy, rụt rè hỏi xen vào
"Không, không phải chết trận, sau khi chiến tranh kết thúc, đến tháng Tám năm nay cậu ấy vẫn còn sống. Nhưng trên tàu hồi hương… "
"Cậu ta qua đời rồi ư?"
Người đàn ông mặc đồ Nhật gật đầu, "Ít lâu nữa sẽ có thông báo. Tôi được Chima nhờ tới đây đưa tin."
"Ôi, đúng là bất hạnh!" Takezo đau đớn kêu lên rồi giơ hai tay lên ôm đầu.
Ba người lặng thinh, rầu rầu phóng mắt nhìn ra xa. Cuối cùng nhà sư cảm thán thốt lên, "Người chi chính chết, chi thứ lại được cứu, đúng là sự đời khó lường."
Tàu Bạch Long kéo theo bọt nước trắng xóa, phát ra tiếng u u đơn điệu, tiếp tục lướt đi trên biển. Nước biển Seto xanh biếc trong veo, nhưng sóng mạnh dập dềnh như điềm báo mưa to gió dữ sắp ập xuống. Thỉnh thoảng lại nghe đằng xa ầm ầm như tiếng nổ.
[1] Fujiwara Sumitomo (?-941), vốn là quan đánh dẹp cướp biển, về sau lại trở thành thủ lĩnh cướp biển.
[2] Trong thời đại này, tồn tại Bắc triều do Ashikaga Takauji thiết lập ở Kyoto, và Nam triều của thiền hoàng Go-Daigo ở Yoshino. Hai triều đình này giao chiến trong vòng năm mươi năm, kết thúc bằng việc thiên hoàng Nam triều thoái vị năm 1392.
[3] Phần Tây Nam đảo Honshu của Nhật Bản, gồm năm tỉnh Okayama, Hiroshima, Yamaguchi, Tottori và Shimane.
[4]. Áo khoác tay rộng thường mặc ngoài kimono.
[5]. Quần rộng nhiều nếp gấp, hai ống hoặc một ống, dài tới mắt cá chân, cố định ở eo bằng một nút thắt hình nơ, xưa chỉ dành cho nam giới, ngày nay cả hai giới đều mặc được.
MỞ ĐẦU
Tiến >>
NXB: Hồng Đức Xuất bản năm 2018
Nguồn: TVE-4U
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 24 tháng 7 năm 2022