Người Tình Cũ

đào hiếu

Chương I

Tôi không gõ cửa, vì khi xoay cái nắm đấm tôi biết bên trong không gài chốt. Ðối với căn phòng này, như thế có nghĩa là vào được. Trần rất ít tiếp khách. Ngoại trừ người phục vụ đem các bữa ăn, gần như không ai được vào căn phòng này. Cánh cửa đóng. Nó sơn xanh đã ngã màu, ngăn cách anh và cái thế giới bên ngoài với những tiếng giày dép, tiếng máy chữ lóc cóc…

Trần năm trên chiếc giường nệm nhỏ. Anh mặc một bộ pyjama kẻ sọc xanh bằng loại vải rẻ tiền. Có tôi hay không có tôi, anh vẫn nằm như vậy. Tôi quen với dáng dấp anh cũng như anh quen với dáng dấp tôi, với những cử chỉ của tôi.

Tôi quan sát anh trong im lặng và anh cứ nằm im cho tôi quan sát.

- Ðừng uống thủy ngân nữa. Tôi nói.

Trần cười. Anh cười vì tôi nói câu ấy đã mấy lần rồi. Nhưng anh vẫn uống. Thủy ngân, thạch tín. Toàn thuốc độc. Những phân tử thủy ngân len vào tế bào, buộc tế bào phản ứng lại, tích tụ nước. Da thịt anh căng lên, mặt sưng phù. Nụ cười của anh cũng sưng phù.

- Nó đang xuống, Trần nói, nhưng không uống thủy ngân nó vẫn xuống, thành ra chưa kết luận được là do thủy ngân hay do nó theo chu kỳ của nó. Phải ít lâu nữa mới biết được.

Chính Trần cũng không biết được "ít lâu" là bao nhiêu ngày, bao nhiêu tuần. Không phải chỉ có cơ thể mà cả ý thức và ý chí anh đang chống lại thủy ngân. Tim đập không bình thường gây mất ngủ liên tục.

- Thế mà dự lễ làm gì?

- Nằm trong phòng riết tôi cũng cần ra ngoài. Chỉ đi quanh, không ngồi vào ghế đâu.

Nhưng buổi lễ chưa bắt đầu. Ánh sáng của ngọn đèn nê-ông hơi vàng. Tôi vẫn thích nó dịu hơn một tí. Cuốn tiểu thuyết của một nhà văn Nam Phi để mở bên gối nằm. Ðó là nguồn vui của anh. Tôi cầm cuốn sách lên, xem cái bìa, một cuốn sách quen, mượn ở thư viện. Nhưng Trần có vẻ không chú ý đến cuốn sách. Anh hỏi tôi:

- Bạn bè đến đông đủ chưa?

- Gần đủ. Ðã đông lắm rồi đấy.

- Có Sáu Phi không?

- Có.

- Có gia đình Mộng Hòa không?

- Có. Lũ nhỏ đang nghịch phá cây đàn piano.

Trần cười. Nhưng bây giờ thì anh ngồi dậy, dáng điệu linh hoạt, tươi tắn. Tôi giúp anh thay áo. Anh chỉ thay áo, còn quần thì vẫn mặc pyjama. Anh vẫn cố gắng tự gài nút được.

Trần hỏi:

- Sáu Phi già lắm rồi, hả?

- Mặt thì chưa già nhưng tóc thì lốm đốm bạc. Cũng như tôi thôi. Ba mươi chín tuổi. Già gì. Nhưng nhìn lũ nhỏ mới biết mình già.

Tôi định đỡ Trần xuống cầu thang nhưng anh muốn tự đi một mình. Anh lê từng bước.

- Các khớp sụn ở ngón chân đã hóa cốt hết. Cả khớp ở cổ chân cũng cứng lại rồi. Rất khó giữ thăng bằng.

Chúng tôi đứng lại trong bóng tối một lúc để cho Trần lấy sức và cũng để quan sát đám đông đang tụ tập trong khoảng sân rộng. Trần điểm qua từng người một: Quỳnh, Mẫn, Mộng Hòa, bác sĩ Long…

- Mấy đứa con Mộng Hòa đâu rồi? Trần hỏi.

Tôi nhìn quanh quất. Cây đàn piano màu đen đã được đẩy vô phía trong và lũ nhỏ thì chạy chơi đâu mất. Trần hỏi tôi:

- Ông có nói gì về Trần Quang Long không?

Trần Quang Long là một nhà thơ kháng chiến. Tôi sống với anh chỉ có vài năm nhưng đó là thời gian đầy kỷ niệm sâu sắc khó quên. Hôm nay bạn bè sinh viên tranh đấu cũ họp nhau tại đây nhân ngày giỗ Trần Quang Long và Trần Triệu Luật đã hy sinh tại chiến trường miền Ðông năm 1968. Bạn bè nói về hai anh, kể lại những kỷ niệm về hai anh, cái thời sinh viên lãng mạn, cái thời đi làm cách mạng như đi làm hiệp sĩ cưỡi con ngựa trắng vượt qua bao nhiêu núi đồi, đồng cỏ…

Một vài người lên phát biểu. Nói dài quá. Buổi lễ có khi trở thành nhạt vì những khuôn sáo.

Tôi gặp lại Lan, vẫn gầy, hai gò má nhô cao nhưng đôi mắt cứ sáng rực, vui và trẻ.

- Chị vẫn ở bên giáo dục?

- Anh xưa quá. Tôi về ủy ban nhân dân thành phố đã hai năm nay rồi.

- A! Ủy ban nhân dân thành phố! Hồi trước Nguyễn Xuân cũng ở đấy. Biết Nguyễn Xuân không? Nhớ không nào? Cái tay gầy gầy chải đầu bóng?

Lan cười rũ. Sao lại cười?

- Nguyễn Xuân là ông xã tôi.

Thế đấy! Trước kia thân nhau là vậy. Ði công tác ở làng cô nhi Long Thành cũng đi chung, cứu trợ đồng bào hỏa hoạn ở trung tâm Phan Ðình Phùng cũng đi chung, trưa trưa thường kéo nhau đi ăn ở xóm nhà lá đường Nguyễn Bỉnh Khiêm… thế mà bây giờ hỏi han ngớ ngẩn buồn cười như vậy. Sáu bảy năm gì đó không gặp nhau. Nhưng nào có xa xôi gì đâu. Quanh quẩn trong thành phố.

- Xin lỗi, tôi nói, nhưng cũng do chị. Tại sao đám cưới không chịu mời.

Lan cười:

- Làm sao mà mời hết được. Nội nhớ từng cái địa chỉ cũng đã đủ phát khùng rồi.

Bác sĩ Long đang đọc một đoạn thơ của Trần Quang Long trên micro. Anh ăn mặc đẹp, dáng người cao lớn khỏe mạnh. Hiếu cũng thế. Họ trẻ trung mà chững chạc, họ khiêm tốn mà tự hào. Trong buổi tưởng niệm này, họ nhớ mà vui, họ nói về những người đã khuất nhưng cũng là nói về cả phong trào, về chính mình. Còn Trần, anh vẫn đứng ở chỗ kín đáo nhất. Anh quay sang hỏi tôi:

- Mộng Hòa đâu?

Tôi ngoắc Hòa lại. Chị dụi mắt, vừa đi vừa nghiêng nghiêng mặt để xem ai đứng lẫn trong bóng tối.

- Dạo này sao coi anh bết quá vậy. Ăn được không?

- Ăn dữ lắm.

- Ngủ?

Trần nói ngủ được. Anh không muốn giải thích dài dòng về chuyện mất ngủ của mình.

Phía trong hội trường, Miên đang hát rất say sưa. Miên có thói quen cầm đàn ghita ngược, đó cũng là một điểm làm cho người ta chú ý nhiều đến anh.

Trần bắt đầu thấy mệt nhưng cũng muốn nghe hết bài hát, sau đó tôi đưa anh lên phòng. Ở cầu thang, anh bảo tôi:

- Không có Oanh nhỉ. Cả thằng Nguyễn nữa. Mất vui.

Nguyễn là bạn cùng học ở đại học sư phạm với tôi ngày trước. Ðêm nay tôi có ý đợi Nguyễn và Oanh nhưng không thấy đâu. Mọi khi Oanh vẫn thường đi theo chồng, nhưng bây giờ Hiếu thì đang nói huyên thuyên trên micro kia, còn Oanh thì biến mất tăm.

Hiếu nói dài quá, những lời của anh đuổi theo chúng tôi vào tận căn phòng quen thuộc của Trần và vẫn tiếp tục vang lên khi tôi bước ra khỏi căn phòng ấy. Nhẹ khép cánh cửa lại. Khi xuống thang gác tôi thấy rải rác có những người đã ra về và tôi đứng lại một lúc lâu trong bóng tối của những bậc cuối cùng. Ðến lượt Ngọc, anh bước đến micro và kể chuyện bằng cái giọng lè nhè đặc biệt của anh. Anh kể rằng ở Huế có một cái hồ sen rất đẹp và rất yên tĩnh. Ðó là hồ Tịnh Tâm. Những cặp tình nhân, những chàng trai và những cô gái thường lui tới hẹn hò ở đây. Ngày kia có một cô gái trong lúc chờ người yêu, bị một tên du đãng chọc ghẹo sàm sỡ. Lúc ấy có một thanh niên khỏe mạnh nhảy đến can thiệp và cho tên du đãng kia đo ván, cứu cô tiểu thơ nọ. Chàng thanh niên hiệp sĩ ấy là nhà thơ Trần Quang Long của chúng ta. Nhà thơ đã hạ tên du đãng bằng vài thế nhu đạo thông thường.

Ngọc đã phác họa một Trần Quang Long như thế, nét vẽ của anh vừa kiêu bạc vừa lừng khừng. Ðó là cách của anh. Tôi có phác thảo riêng của tôi về Long nhưng bây giờ tôi chưa nói xong về Trần, về Nguyễn, về Mộng Hòa và nhiều người nữa như Oanh như Hiếu… Có lẽ tôi cũng không thể nói hết được. Họ nhiều quá, đứng chật cả khoảng sân rộng, ngồi gần kín cả hội trường. Tôi bước xuống rất nhẹ. Tôi đi vòng qua mấy gốc cây, ra xa một chút nữa, chỗ khuất tịch nhất, vắng vẻ nhất. Và bỗng nhiên tôi thoáng nghe tiếng đàn ghita. Tiếng đàn nhỏ, vang không xa, không tới được chỗ đám đông. Rồi có tiếng gọi tên tôi. Tôi dừng lại, cố nhìn người chơi đàn trong bóng tối. Ðó là Nguyễn, anh ngồi trên thành bể nuôi cá, dưới bóng cây. Tôi ngồi xuống bên anh, im lặng vì tôi biết anh cũng đang cần im lặng.

Xong bản nhạc, Nguyễn ngồi im. Tôi nghe thấy mùi rượu.

- Uống ở đâu vậy?

- Ðừng hỏi. Có muốn thì đi với tao.

Rồi Nguyễn dợm đứng lên, nhưng tôi kéo anh xuống. Tôi hỏi:

- Sao không đến gặp chúng nó một tí. Có mặt đủ cả.

- Nghe tao đàn còn hay hơn.

Thế là Nguyễn chơi bài Danza Oriental của Louis Maravilla. Anh ngồi ngất ngưởng, đầu lắc lư thật mạnh theo những âm điệu huyền bí của Ả Rập.

Oanh đến giữa lúc xuất thần đó. Oanh lấy ngón tay khều nhẹ vai tôi. Tôi ra hiệu Oanh giữ im lặng. Oanh mặc quần áo màu sẫm, gần như chìm mất trong bóng tối, chỉ có khuôn mặt trắng và một chút hương thơm là được cảm nhận rất rõ bên cạnh chúng tôi. Oanh nói thầm thì sát tai tôi:

- Làm gì mà hắn ngất ngưởng quá vậy?

- Hắn say.

- Anh có say không đấy?

- Không. Anh có uống đâu.

- Buổi lễ tới đâu rồi?

- Chẳng biết tới đâu. Sao em đến muộn quá vậy?

- Em đã tính không đến.

Bỗng nhiên tiếng đàn ngừng bặt. Nguyễn làm bộ lè nhè:

- Ta không bao giờ đàn khi người khác nói chuyện.

Oanh vuốt ve mái tóc bờm xờm của Nguyễn:

- Xin lỗi. Xin lỗi nhạc sĩ. Nhạc sĩ đàn nữa đi.

- Mất hứng rồi.

Nguyễn xách đàn đứng lên, khập khiễng bước trên cái chân giả.

- Trời muốn mưa đấy, Oanh bảo, tìm một cái quán nào gần đây.

Quán nằm sâu trong một cái hẻm rộng sang trọng. Nguyễn xách cây đàn nghênh ngang bước vào giữa các ghế mây có khách ngồi lưa thưa. Họ giương mắt nhìn anh, những cô gái trang điểm rực rỡ đang ngồi với bạn trai cũng đưa mắt nhìn anh. Nhưng Nguyễn gần như bất cần trước những cái nhìn ấy. Anh nói:

- Xin lỗi quý vị. Xin cho tôi được tự nhiên một chút. Tôi xin phép thay thế cho cái máy quay dĩa.

Tôi thấy Nguyễn bắt đầu lố bịch trước mọi người và tôi muốn ngăn anh nhưng Oanh thì cứ tỉnh bơ. Oanh cười tươi như không, chẳng lấy gì làm ngượng ngùng về những trò gàn dở của Nguyễn, lại còn có vẻ đắc ý nữa. Oanh nói với người chủ quán:

- Một thiên tài của cây đàn ghita đấy.

Bà chủ quán sồn sồn lòe loẹt giương mắt ngạc nhiên:

- Nhưng tôi không dám làm phiền những vị khách đang ngồi đây.

Nguyễn không muốn dài dòng. Anh ngồi xuống chiếc ghế mây trong góc.

Tôi gọi thức uống xong thì đốt thuốc đưa cho Nguyễn. Nguyễn có vẻ rất thích thú được hút thuốc. Anh dựng cây đàn một bên và ngồi nhả khói nhìn con cá vàng lửng lơ trong bồn cá bằng thủy tinh.

- Tội nghiệp thằng Trần, tôi nói, cả tuần nay nó uống thủy ngân, mình mẩy sưng cả.

- Bịnh của ảnh sao lại uống thủy ngân, Oanh hỏi, đó là bệnh thấp khớp mà?

- Cũng chẳng phải thấp khớp. Nguyên thủy là một bệnh ngoài da, bệnh vảy nến, nhưng suốt nhiều năm không ai định bệnh được. Chích và uống thuốc không đúng nên nó tàn phá ghê gớm như vậy.

Nguyễn dụi tàn thuốc lá, nói lơ đãng:

- Nhưng nó còn một bệnh hiểm nghèo hơn. Bệnh thủ cựu.

Rồi anh cầm đàn lên. Dòng nhạc từ góc chúng tôi tỏa ra. Rồi cứ thế, nó chiếm lĩnh khoảng không, ngấm vào cả trong thứ ánh sáng đục của quán cà phê lúc hơn mười giờ đêm.

Khách không ai quay lại nhìn chúng tôi vì họ không ngạc nhiên, nhưng họ cũng không có vẻ gì phản đối, rồi họ hiểu ngay rằng mình đang nghe một guitariste bậc thầy nên tất cả đều ngồi im.

Một anh chàng tóc dài nào đó đứng dậy nói nhỏ với bà chủ quán và bà ta tắt máy quay dĩa.

Tiếng đàn của Nguyễn nổi lên ấm áp lạ lùng.

Nguyễn đang chơi một tác phẩm của Fernando Sor và cũng vừa lúc ấy có tiếng còi xe hơi bấm lia lịa ba bốn cái một lúc ngoài đường. Âm thanh ấy làm mọi người có vẻ khó chịu. Tôi quay nhìn ra đường. Một chiếc xe du lịch sơn màu cam đang đậu sát lề. Oanh thì không cần quay ra nhưng cũng biết là ai đến. Chị với lấy cái giỏ xách, đặt tờ giấy bạc mới tinh trên bàn để trả tiền nước cho chúng tôi rồi xin phép về.

Nguyễn không chú ý gì đến những điều vừa xảy ra. Anh biết buổi lễ đã xong. Anh nghe đủ bốn tiếng còi của Hiếu nhưng anh vẫn bình thản. Hết bản đàn, Nguyễn nói:

- Thôi về. Tao bắt đầu thấy chán.

Người phục vụ đem tiền lẻ đến. Nguyễn đổi lấy mấy điếu thuốc lá và chúng tôi bước ra đường. Cơn mưa phùn lúc nãy còn để lại một chút gió se se trên da và mấy vệt sáng nhạt nhòa trên mặt nhựa đen loáng.

Ðường phố bắt đầu vắng. Tôi đưa Nguyễn về nhà.

Chúng tôi trở về một căn phòng ở khu nhà tập thể. Nguyễn trải chiếu ra cho tôi nằm xong, lặng lẽ cởi quần áo. Anh ngồi xuống chiếu và bắt đầu tháo cái chân gỗ ra. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, cánh quân của anh kéo từ Củ Chi về, vừa vượt qua sông Rạch Tra thì bị phục kích. Một mảnh đạn cối 81 ly đã chém vô cổ chân anh. Ba tháng trời ở bệnh viện, nửa năm chống nạng và bây giờ người ta lắp vô cho anh một cái chân giả ngay dưới đầu gối một chút. Nguyễn tháo đoạn chân gỗ ra, vứt nằm dưới sàn gác. Cái chân cụt hơi teo, chỗ vết cắt, da nhăn dúm như cái bao nylon cột túm lại.

- Nhiều khi tao vẫn còn cảm giác như có mấy ngón chân ở ngay cái chỗ ấy. Nhất là nằm mơ. Cứ thấy mình đá banh mới kỳ.

Nguyễn nằm xuống cạnh tôi. Tôi tưởng có thể ngủ dễ dàng, hóa ra đến khi Nguyễn ngủ rồi tôi vẫn còn thức. Tôi ngồi dậy, nhẹ bước ra bên ngoài.

Những tàng cây được ánh điện đường soi sáng nổi rất rõ trên nền đen thẫm của bầu trời. Và lá cây không còn là mầu xanh nữa mà biến thành màu trắng bạc của gỗ. Rõ từng chiếc, y hệt như cây cối trong tranh khắc gỗ. Bức tranh nền đen với cây đa cổ thụ, ngôi miếu mục nát, con đường lát đá đầy rêu phong và cái giếng nước nứt nẻ.

Bức tranh ấy gợi nhớ những kỷ niệm của một thời xa lắc.

Chương I

Tiến >>


Nguồn: Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. -daohieuvn.wordpress.com
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 18 tháng 3 năm 2023