Dòng Sông Thơ Ấu

nguyễn quang sáng

- 1 -

Chiếc xe đò từ Sài Gòn về làng, cuốn theo bụi cát của con đường dài hàng trăm cây số, dừng lại trước cửa nhà cha tôi. Xe dừng nhưng máy vẫn nổ, anh lái xe vừa bóp kèn, vừa vỗ cả cửa xe, ló cái đầu ra cửa, kêu lớn:

- Chú Hai ơi! Thằng Năm con của chú còn sống, về tới Sài Gòn rồi.

Không đợi cha tôi bước ra, anh cứ hét vọng vào nhà. Khi cha tôi, một ông già hơn bảy mươi, ốm yếu, từ trong nhà bước ra, chưa thấy mặt anh thì xe đã chuyển bánh rồi.

- Nó nói cái gì vậy bây? Chạy ra bến xe hỏi lại nó coi!

Chị tôi đang ngồi sàng gạo, chị nghe rõ hơn:

- Thằng Năm về!

Chị tôi vừa nói, vừa vụt chạy ra đường với hai bàn chân đất. Cả mấy đứa nhỏ trong nhà (những đứa mà ngày tôi đi, chúng chưa có mặt ở trên đời) và lũ nhỏ hàng xóm ùa ra đường, chạy ra bến xe ngoài chợ.

Chị tôi chạy trước, khi rõ được tin rồi, chị quay lại bảo với mấy đứa con:

- Về nói với ông ngoại, cậu Năm bây còn sống, về tới Sài Gòn rồi.

Từ chợ, chị ghé từng nhà trong bà con dòng họ, vừa đi, vừa chạy, đến lúc trở về, chị mới hay, cái đầu tóc xổ ra lúc nào, cứ xấp xải, và tay vẫn cầm cái sàng gạo.

Chị cười nói với mọi người:

- Tôi như con điên.

Hôm sau, cái mái tóc xấp xải của chị không còn nữa. Chị cạo đầu, chiều qua lúc trời vừa xẩm tối, sau khi đốt ba nén hương vái lạy ông bà.

- Tôi có vái, nếu đất nước được giải phóng, thằng em tôi còn sống thì tôi xin xuống tóc[1], xin ăn chay một tháng. Hồi nó đi tôi chưa lấy chồng, bây giờ tôi đã có tám mặt con rồi, còn gì!

Gia đình tôi có tám chị em, mất hai còn sáu. Chị lớn, chị Hai, mất từ bé, những đứa em sau không ai biết mặt chị. Người anh kế, anh Ba, thay chị là anh lớn. Chị thứ tư, tôi thứ năm, kế là em gái thứ sáu, thằng em trai thứ bảy cũng mất lúc còn ẵm ngửa, còn thằng thứ tám, và thằng út. Có người khen má tôi giỏi, sanh con thật đều, cứ ba năm một đứa, đến thằng út, không sanh nữa thì mất. Má tôi mất lúc tôi mới mười ba, chị tôi mười bảy, còn thằng út mới lên hai. Chị tôi phải thay má tôi, chăm sóc cả một đàn em. Còn anh lớn tôi, anh Ba, chỉ thấy mặt trong bữa cơm. Chị coi tôi như người bạn, việc gì cũng thổ lộ.

Một đêm hát đình, chị cùng bạn gái đi xem hát. Chị mặc áo dài trắng, cổ đeo cây kiềng vàng, tai đeo đôi bông hột đá, và tóc còn để ngang. Lần đầu tiên tôi thấy chị đẹp. Cái đình! Cái đình của làng tôi nằm ở giữa làng, bên con đường đá. Trước mặt đình, qua con đường đá là bến sông, bên kia sông là rặng cây của cù lao. Nhìn ngang là chợ Phủ Thờ có một hàng sao, nhìn xéo lên là tháp chuông của nhà thờ cù lao Giêng. Cái nhà thờ được dựng lên từ ngày Tây mới chiếm nước ta, nên còn gọi là nhà thờ gốc. Cái tháp chuông vượt hẳn lên khỏi rặng cây, ở phía bên này sông, đứng đâu cũng nhìn thấy, như cái lâu đài với màu xanh đang ngả xám. Cái chuông ấy bao lớn, không ai nhìn thấy; buổi chiều và sáng sớm, tiếng chuông ở tận bên kia, lan qua mặt sông, vang đến tận từng nhà bên này sông. Dù không theo đạo, cũng phải nghe tiếng chuông của Chúa! Cái đình của làng tôi thờ ai, chẳng mấy ai biết. Theo lời bà nội tôi kể, đình làng thờ ông Chưởng Cơ, tức là Thoại Ngọc Hầu. Sau khi đào xong con kinh Vĩnh Tế, vạch đường biên giới giữa nước ta với Campuchia, số người già yếu được Ngài cho giải binh. Số binh sĩ ấy mới trụ lại đất An Giang này, người bên Hậu, kẻ vượt sông, sang Tiền, xây cơ lập nghiệp. Nghe đâu, ông sở hay ông sơ[2] của tôi cũng là lính của Ngài. Hằng năm, hễ đến rằm tháng sáu, trăng tròn, thì có lễ cúng đình, làm heo, làm bò, vật cả trâu, những ai là người vai vế trong làng, áo dài với khăn bóng, đều tụ về, mâm trên mâm dưới, ăn ăn uống uống đến mấy ngày liền. Lại kêu gánh hát từ Sài Gòn về, hát suốt ba đêm. Ba ngày lễ ấy, từ trưa cho đến chiều, một chiếc xe ngựa, dựng hình đào kép với cảnh tuồng tích. Hai bên hông xe mỗi bên một tấm, sau xe một tấm, tấm nào cũng lớn bằng cái bảng đen ở trường, đủ màu xanh đỏ vàng trắng. Mặt các cô đào, các anh kép, mặt Quan Công cùng Lã Bố... Xe để trần không mui, trên xe có đào thật, kép thật, son phấn mũ mão với lông công, cùng với một cái trống. Chiếc xe ngựa chạy trên con đường đá, dọc theo làng với những tiếng trống thùng thà thùng thình tở mở. Ngựa chạy đến đâu, con nít hai bên đường ùa ra đến đó. Trên xe, họ ném giấy quảng cáo cho trẻ em giành giựt. Giấy quảng cáo tung ra trắng như cánh chim. Làm sao không nôn nao cho được! Nhà thổi cơm sớm, ai cũng chập chờn bước ra khỏi cửa. Sao đêm ấy, tôi không đi với chị tôi? A! Tôi nhớ ra rồi. Chị tôi dỗ các em:

- Người ta đông như kiến, đi lúp xúp dưới chân người ta, người ta đạp chết.

Chị hứa mai chị sẽ xay bột làm bánh tầm, bánh xếp, làm cả bánh con đuông, và có cả nước cốt dừa. Bọn em tôi vui ra mặt.

Sau này nghĩ lại, tôi đâu có ngờ, cái đêm hát đình năm ấy, chính là đêm quyết định số phận của chị tôi. Cái đình thờ thân của làng, chính là nơi trai gái gặp nhau, từ đó mà sau này họ nên vợ nên chồng.

Dưới bến, xuồng ghe từ các nơi đổ về, san sát bên nhau, như những chiếc bè. Trên đường, có một cái bãi trống dành cho xe ngựa từ xa tới. Ngựa rung đầu, tiếng nhạc kêu leng keng.

Trai gái từ dưới bến bước lên, từ trên xe bước xuống, từ các ngả đường bộ đổ về, mỗi người mỗi kiểu, mỗi cách, nhưng ai cũng muốn khoe sắc, khoe tài, khoe của. Họ mặc những bộ đồ đẹp nhất (ai không có thì đi mượn); con trai, đầu chải sáp thơm, láng mượt; con gái, thì nào bông tai, đủ kiểu: bông cẩm thạch, bông hột đá, cổ đeo dây chuyền vàng, cổ tay đeo vòng cẩm thạch, đeo dây neo, họ khoe cả chiếc răng vàng khi nhoẻn miệng cười (ấy là cái đẹp bấy giò, ở làng quê). Tóc của các cô gái thì chải bằng dầu dừa, mướt mượt (ai mà chẳng muốn vuốt ve).

Cái rạp hát ở trong sân đình, chứa không quá vài trăm, mà người thì chật cả sân, tràn ra đến tận con đường đá. Thấy mặt nhau là vui rồi, cần gì phải xem hát.

Khuya lắm, chị tôi mới về. Chị gọi tôi dậy. Nghe hơi thở của chị, tôi tưởng là chị vừa thoát khỏi một chuyện gì ghê gớm.

Lúc chị tới đình thì có một anh chàng cứ lẵng nhẵng theo sau. Chị vào đình xem hát, hắn cũng chui theo. Chị đi quanh co qua chỗ đông người, tưởng hắn không theo kịp, đến khi chị ra về, nghe có tiếng chân ai ở phía sau, quay lại, hóa ra là hắn. Hắn không chào, không hỏi, không trêu cũng không chọc, chị tôi đi nhanh, hắn cũng đi nhanh, chị tôi đi chậm, hắn cũng đi chậm.

- Còn đứng ở trước cửa nhà mình kìa! - Chị tôi không biết gọi anh ta bằng gì, nên nói trống không.

Từ con đường đá vào nhà tôi, phải đi qua cây cầu khỉ bắc ngang con kinh nhỏ, nên anh ta vẫn đứng ở bên đường.

- Để em lấy đá em liệng, cho thằng chả đi.

Tôi chưa cầm đá mà chị đã chụp lấy tay tôi:

- Đừng em, người ta đâu có làm gì.

Vài hôm sau, chị tôi nhận được thư của anh ta, thư tình. Nếu má tôi còn, chắc là chị thủ thỉ với má. Bây giờ chị biết nói với ai. Cha tôi? Lạ, ở làng, chỉ có nhà tôi gọi cha tôi là cha, còn người khác, họ gọi là ba. Ba hay cha cũng vậy, nhưng cái tiếng ba nghe nó gần gũi, thân mật hơn. Còn tiếng cha nghe như xa hơn và nghiêm khắc hơn. Cha tôi đúng là người nghiêm khắc, chẳng những con cái mà bà con dòng họ cũng như người quen biết ai cũng nể, cũng sợ. Má tôi cũng sợ cha tôi lắm. Mà cha tôi có làm gì ai đâu, cũng chẳng có chức quyền gì, một người dân, cũng chẳng phải là người giàu có, chỉ là anh thợ bạc, suốt ngày ngồi gò lưng, làm công lấy tiền. Vậy thì còn ai để chị nói? Chị chỉ nói với tôi, cho tôi xem cả thư tình. Thư anh ta viết, đọc nghe mùi như bài ca, bài hát trong tuồng cải lương.

- Chữ viết đẹp chớ, hả em?

Chị tôi khen. Hai ba ngày lại có một lá thư. Những lá thư ấy, chị tôi xếp cẩn thận, để trong áo gối, trên đầu nằm, chị bảo, để rơi rớt, sợ người ta bắt được! Cái anh chàng ấy khôn thật! Anh lân la thăm hỏi tất cả bà con bên ngoại, bên nội tôi. Đến lúc thấy mọi người đã yêu đã quý mình, anh mới nhờ người đến dạm hỏi. Tức khắc bà con nội ngoại tôi như đứng lên hùa theo.

- Mấy đứa em tôi còn nhỏ, tôi chưa đi được! - Chị nói vậy, rồi ôm thằng em út của tôi vào lòng, hôn lên mái tóc của nó: - Chị chưa đi đâu em!

Thằng em út tôi biết gì mà nói? Đúng như vậy thật. Sau này tôi được nghe kể lại: sau khi tôi đi bộ đội rồi, chị bồng thằng em tôi lên Sài Gòn, đi ở cho những người bà con giàu, nuôi em. Có người tưởng là con chị. Anh chàng trai kia vẫn cứ đeo đuổi mãi... Chị tôi đi đâu, anh đi đến đó, có điều không phải đi lẵng nhẵng theo sau. Nhà tôi bỏ làng, tản cư vào Tháp Mười, anh cũng đi theo, cất một cái nhà gần đó. Chị tôi lên Sài Gòn, anh cũng lên Sài Gòn, ở nhà bà con, để ngày ngày được thấy mặt. Có phải chăng là mối tình đầu của hai người? Bốn năm sau, khi thằng út bắt đầu cắp sách đến trường, chị mới cho cưới.

Khi đứa con trai đầu lòng của chị lên mười bảy, chị đưa vào chiến khu, cho đi Quân giải phóng, chị bảo nó làm sao cũng phải tìm cho được cậu Năm. Hai cậu cháu chỉ nhận được thư, chứ chưa gặp được nhau. Hai cậu cháu ở hai chiến trường khác nhau, quá xa cách. Chị tôi nói:

- Tôi nhớ nó nhưng không nhớ được cái gương mặt của nó. Tôi nhìn cha tôi, nhìn mấy đứa em, nhìn mấy đứa con để hình dung cái khuôn mặt của nó. Ba mươi năm rồi còn gì!

Đêm ấy, đêm mồng mười tháng năm, năm bảy lăm. Cha tôi không có thói quen ghi nhật ký, nhưng nếu trong đời có điều gì quan trọng, thì cha tôi gỡ tấm lịch trong ngày để vào cuốn sổ. Chỉ như vậy, không cần phải ghi chép thêm lời nào, ngày tháng của tấm lịch đủ gợi cho cha tôi nhớ tất cả.

Chỉ mới nghe tin thôi mà bà con hàng xóm đã lần lượt kéo đến thăm cha tôi, đông đến nỗi không đủ ghế ngồi cho khách, nhiều nhất là những người cũng có con đi xa như cha tôi. Khách ngồi cả trên giường, ngồi bệt xuống ngay bậc cửa.

Một người nói:

- Bây giờ tôi mới nhớ là anh còn có một đứa con thứ năm nữa. Lâu nay tôi quên bẵng nó đi.

- Không phải anh mà cả tôi nữa, là cha của nó mà cũng có lúc tôi tưởng trong đàn con của tôi, không có nó. Nó cứ đi biền biệt...

Rồi cha tôi dừng lại, nhìn xa xôi ra con sông:

- Như con sông chảy qua làng, có lúc mình quên mình ở bên con sông. Giây phút nào đó, dù bị lãng quên, con sông vẫn trôi qua, vẫn con nước ròng, con nước lớn, và rồi không ai có thể quên khi nó nổi sóng theo cơn gió.

Nỗi nhớ của con người, có lúc nó nằm yên, rồi khi chợt gặp một dáng đi, giọng nói của ai đó, hoặc một bài hát mà nó hay hát, nỗi nhớ lại dậy lên cuồn cuộn như sóng. Và kỷ niệm như những con thuyền, trăn trở không yên.

Nỗi nhớ như con sông vẫn chảy mãi trong đời người.

Sau khi quân Pháp neo chiếc tàu chiến ở đuôi cù lao Giêng, bắn đại bác vô làng, rồi cho bọn lính lê dương đổ lên, chiếm lại chợ thì mấy ngày sau nó đi. Nó đi theo chú Ba Giáo, ở cơ quan tuyên truyền của quận. Mấy tháng sau, lại nghe nó đi bộ đội...

Cha tôi tiếp:

- Sau khi Hòa Hảo dậy, tôi cho tất cả con cái xuống ghe, tản qua bên kia sông, vùng giải phóng. Một buổi chiều nước lớn, bộ đội đang hành quân. Xuồng nối theo xuồng dài dằng dặc trên kinh đổ vào Đồng Tháp. Bộ đội đi bằng xuồng chớ không phải bằng tàu mà con kinh vẫn nổi sóng. Súng lớn, súng nhỏ, có đủ. Người ta chạy xuống bến xem bộ đội, còn tôi và mấy đứa nhỏ thì ngồi sau lái ghe. Tôi nhìn theo từng chiếc xuồng bơi qua, cũng có ý tìm nó. Tôi chưa thấy nó thì nghe một tiếng kêu:

- Cha!...

Suốt từ đó cho đến nay, lâu lâu tôi lại chợt nhớ tiếng kêu của nó, và tôi thấy rởn óc.

Tôi quay lại, thấy một chiếc xuồng đang tách ra, bơi lại phía ghe của tôi. Nó ngồi mũi, rạp mình xuống mà bơi. Nó đã nhận ra tôi từ phía sau lưng. Xuồng vừa cập lại, nó đã nhảy tót lên ghe. Nó vẫn như vậy, nhưng so lúc ở nhà, nó rắn rỏi hơn. Nó mặc quần cụt đen, áo bà ba trắng đã cũ, áo bà ba mà để vô quần, thắt một sợi dây nịt, lủng lắng bên hông một trái lựu đạn. Trong bộ đội không phải chỉ có một mình nó, mà có nhiều đứa nhỏ như vậy, cũng như nó, làm liên lạc.

- Con đi đâu vậy? - Tôi hỏi một câu chẳng có nghĩa gì.

- Con đi hành quân.

Trong lúc đó, thằng em út của nó đã nhào tới, thằng nhỏ mới ba tuổi. Nó ôm thằng em vào lòng, nó hôn.

- Em ở lại mạnh, ngoan nhé!

- Anh đi bộ đội, về, mua kẹo cho em, nghen anh.

Trong lúc đó, chị nó nhìn thấy cái lỗ rách trên vai áo nó, chị nó bảo:

- Cởi áo ra, chị vá cho, sao mà rách rưới như vậy.

- Đâu có kịp, em phải đi. Để lần sau.

Nó nói vậy nhưng chẳng có lần sau nào nữa, cho đến bây giờ. Rôi nó nhảy xuống xuồng, rạp mình, bơi cho kịp anh em. Cái mái dầm trong tay nó quạt đến dậy sóng. Con xuồng lao đi như con thoi. Đi được một quãng, nó quay mặt lại, đưa cái dầm lên, chào!

Tôi tưởng đơn vị của nó cũng hành quân đâu đó trong vùng, như những lần trước, rồi cũng có ngày quay lại. Ngày rồi tháng, tháng lại đến năm, không thấy đơn vị của nó quay lại. Hỏi thăm mới biết là đơn vị của nó đã nhập vào một đơn vị khác, thành một liên chi gọi là liên chi 2K, tức là bộ đội của hai khu nhập lại thành một, từ đó vượt qua sông Tiền, vượt qua sông Hậu, xuống đến rừng U Minh luyện tập, rồi đánh vòng qua bên Bảy Núi. Có lúc tôi thầm trách nó, sao nó không nói với tôi. Nhưng tôi lại nghĩ, chuyện bí mật quân sự làm sao lộ được, vả lại, nó đứa liên lạc, nó biết gì.

Từ đó, gia đình tôi với chiếc ghe, đi từ Phong Mỹ, tản vào Mỹ An, Đồng Tháp, rồi từ Đồng Tháp dắt díu nhau về Sài Gòn làm ăn.

Không mấy chốc mà kháng chiến đã đến chín năm. Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Cũng là một dịp cho người thân đi tìm lại nhau. Tôi đang loay hoay chưa biết tìm cách nào đi thăm nó thì thằng thứ ba tù U Minh về Sài Gòn. Nó đi có việc của cơ quan giao cho. Vợ con của thằng Ba tôi cũng ở Sài Gòn, nên nó tìm tôi thật dễ dàng. Nó bảo nó có gặp thằng em nó hai lần ở U Minh. Theo sự chỉ dẫn của nó, tôi đi thẳng xuống Chắc Băng. Tôi mua nào bánh, nào kẹo. Có một người cũng đi thăm con, hỏi tôi, nó được bao nhiêu tuổi. Tính ra nó đã hăm hai rồi. Người bạn đường cười: “Nó đã lớn, kẹo bánh làm gì, phải mua đồ nhậu”. Đến lúc đó tôi mới sực nhớ. Bắt chước ông bạn đường, tôi mua thêm hai kí lạp xường, một kí tôm khô với hai chai rượu.

Đi xe rồi đi tàu. Tôi đến Chắc Băng, là bến tập kết của bộ đội miền Tây, chuẩn bị xuống tàu đi ra Bắc.

Bộ đội đóng dài theo con kinh Chắc Băng, hàng chục cây số. Cha mẹ đi tìm con, vợ đi tìm chồng, từ các nơi đổ về, xuồng ghe tấp nập. Người ta đóng lều dưới bụi tre, dưới tàn cây, dài dài theo bến. Một cái lều là một cái bếp, cơm sáng, cơm trưa, cơm chiều, cơm tối, khói lên nghi ngút.

Tôi mướn một chiếc xuồng, bơi dài theo kinh, chỗ nào có bộ đội thì tôi tấp vô bến, đưa cái tấm hình hồi nhỏ của nó, hỏi anh em. Từ sáng cho đến tôi, ghé không biết bao nhiêu bến, nhưng không ai biết nó, đông quá mà! Tôi mừng hụt đến bốn lần, vì có bốn anh bộ đội trùng tên với nó. Đến tối, có một anh chỉ huy bảo tôi, cứ ra ngay cái bến tàu, đóng trại tại đó, rồi thế nào cũng gặp.

Đến bến tàu, tôi mới biết, không phải một mình tôi, mà cũng có nhiều người như tôi, cũng chờ con như vậy.

Tôi mua một chiếc chiếu, trải ngay dưới lùm tre, nhìn mặt từng anh bộ đội từ bến bước xuống tàu. Tôi chờ đến ba chuyến, cũng không thấy nó.

Một hôm, trong một đoàn quân, chiến sĩ nối nhau đi xuống bến, có một người tre trẻ, tôi thấy quen quen. Người chiến sĩ ấy cứ nhìn tôi, qua mặt tôi rôi, vẫn quay mặt nhìn lại. Tôi muốn hỏi mà chưa biết hỏi cách nào thì người chiến sĩ ấy đi thẳng lại trước mặt tôi:

- Bác có phải bác Hai không? (Chú còn nói đúng cả tên tôi nữa).

- Phải! Cháu là ai mà bác thấy quen quen.

- Cháu là Sườn, con của Tám “lò heo”.

- Vậy!

- Bác đi tìm thằng Năm phải không?

- Phải!

- Năm xuống tàu đi rồi bác Hai à.

Tôi bủn rủn cả tay chân.

Thằng cháu, tội nghiệp, chỉ kịp nói vậy thì phải quay đi cho kịp anh em. May mà tôi kịp trấn tĩnh, tôi gọi nó, trao cho nó cả cái túi kẹo bánh, rượu và lạp xường:

- Cháu đem xuống tàu, nhậu với anh em. Ra ngoài ấy gặp nó, nói là bác có đi tìm. Mà quên, cháu đã gặp ba cháu chưa?

- Dạ! Cháu đóng ở đây ba ngày rồi, chờ hoài mà không gặp. Bác Hai về, nói giùm với ba cháu, cháu còn sống, cháu đi, rồi cháu về.

Thời giờ chỉ có thể nói với nhau như vậy thôi. Lưng đeo ba lô, vai đeo súng, tay phải xách theo cái giỏ đồ nhậu, nó chạy theo anh em xuống tàu há mồm của tụi Pháp.

Khi tàu tách bến, xuồng ghe dưới bến cũng túa ra, kẻ bơi, người chèo đuổi theo tàu. Còn người trên bờ thì cũng ùa chạy theo trên con đường cập theo kinh. Tôi cũng chạy theo. Người dưới tàu giơ tay ra chào, đưa hai ngón tay. Người trên bến trên xuồng ghe cũng đưa hai ngón tay, hẹn rằng hai năm sau sẽ trở về.

Người cha tìm con không gặp con. Đứa con tìm cha, không gặp cha. Cuối cùng người cha không gặp con lại gặp đứa con không gặp được cha! Trớ trêu như vậy! Ở cái bến tập kết ấy, không phải chỉ có một mình tôi, mà cũng có nhiều người lâm vào tình cảnh như tôi. Những người không may ấy, giây phút, đối với nhau như tình ruột thịt.

Tôi chưa muốn kể, tôi đã gặp những chiếc xuồng của bậc cha mẹ đi thăm con, vừa bơi dài theo bến, vừa gọi tên con mình:

- Bảy ơi, Bảy! Má đây con!

Nghe thắt cả ruột gan...

Thằng Ba ở lại Sài Gòn hoạt động nội thành, lại bị bắt. Nó ở tù, nhung vẫn được tin. Còn nó, nó ở ngoài kia, bặt vô âm tín. Rồi một buổi trưa năm 1964, tôi đang ngồi, bỗng thấy từ xa một người đàn bà, dáng quen quen, tay còn cầm cây dầm, đi xấp xải.

Tôi nhận ra đó là con Tầm. Con Tầm nó gọi tôi bằng dượng. Hồi trước, tôi có nhờ con Tầm bồng bế thằng Năm lúc lên bốn lên năm. Vừa bước vô nhà, nó vừa kêu:

- Dượng Bảy ơi! Dượng Bảy!

Con Tầm đang ở trong vùng du kích của Đồng Tháp, không dễ gì qua tới cái làng bị chiếm này. Nghe cái giọng của nó tôi biết là có chuyện gì không bình thường. Tôi buông giũa xuống, hỏi:

- Chuyện gì vậy Tầm? Ngồi xuống, bình tĩnh rồi nói.

Nó ngồi xuống ghế, tay chống cây dầm. Chèo chống đường xa, mặt nó tái mét, lấm tấm mồ hôi, nhưng nhìn con mắt của nó, tôi thấy đỡ lo. Nó ngước nhìn tôi với cặp mắt sáng:

- Cháu qua đây để báo cho dượng một tin mừng.

- Tin gì mà mừng?

- Tin của thằng Năm.

- Nó về hả?

- Dạ không.

- Vậy chuyện gì mà mừng?

- Dượng bình tĩnh để cháu kể đầu đuôi - Bây giờ nó lại khuyên tôi bình tĩnh - Hôm rồi chú Ba Giáo ghé qua nhà, nói là thằng Năm con của dượng ở ngoài Hà Nội đã thành nhà văn, nhà báo rồi.

- Ba Giáo gặp nó?

- Dạ không! Nó ở Hà Nội, chú ở trong nầy, làm sao gặp mặt được!

- Không gặp mà sao biết?

- Dạ. Chú nói là chú đọc báo, chú thấy tên của nó.

Tôi thở dài:

- Chỉ đọc báo thôi thì lấy gì làm chắc. Với lại trong thiên hạ, đâu phải mình nó có cái tên đó.

- Lúc đầu cháu cũng nghĩ như dượng vậy. Nhưng chú Ba Giáo bảo chú thấy tên và cả hình của nó trên báo nữa.

- Mà cháu có thấy tờ báo đó không?

- Nếu thấy thì cháu đã lấy cái tờ báo đó đem qua cho dượng rồi. Đi đường cháu mới nghĩ ra. Chớ lúc đó, cháu mừng quá, quên hỏi, chỉ nghĩ cách qua cho dượng hay để dượng mừng.

Tôi nghĩ thương con Tầm quá. Tôi mong sao ở ngoài ấy, thằng Năm biết được chuyện này. Vì một tin vui của nó mà người chị bà con cô cậu của nó đã vượt qua đồn bót của giặc, vượt qua bom đạn, một chiếc xuồng với một cây dầm, vượt qua sông lớn.

Khi tôi đưa con Tầm xuống bến, tôi bảo:

- Nay mai có nghe tin gì thì nhắn qua, chớ đừng đi như vậy nữa.

- Có gì đâu dượng Bảy. Nhớ cái lúc nó đi lẫm đẫm, bây giờ nó nên người, cháu mừng quá!

Nếu con Tầm cho tôi biết nó đã lên tá hay lên tướng, tôi còn dễ tin hơn, vì nó là bộ đội, từ một người lính mà lên tá, lên tướng nghe nó phải cái lỗ tai hơn. Đằng này, lại thành nhà báo, nhà văn, nghe nó tréo ngoe. Với lại, cái nghề báo, nghề văn là nghề của chú Ba Giáo, nghề của người có ăn học, còn nó, nó học được bao nhiêu. Con Tầm nói vậy thì tôi hay vậy, để đó, chờ gặp lại nó, xem sao. Cho đến bây giờ tôi cũng chưa chắc.

Một người bạn của cha tôi nói:

- Chuyện đời thay đổi biết đâu! Cũng không lâu, cách đây độ hai ba năm. Chuyến vô khu thăm thằng con của tôi, tôi cùng đi với một cô đi thăm chồng, cổ nói với tôi, lần đầu tiên gặp lại chồng từ miền Bắc vượt Trường Sơn trở về, cô hỏi chồng, bây giờ anh làm gì, anh chồng bảo đang làm bác sĩ. Bác sĩ! “Cháu nghe như nổ cái lỗ tai. Hồi ảnh đi, chữ không đầy lá mít, mà làm bác sĩ! Chắc là ảnh nói cho vui với vợ con! Cháu không tin. Về, cháu hỏi người ta, muốn làm tới bác sĩ thì phải học tới lớp mấy. Nghe nói, cháu lại càng ngờ. Học hết cơm hết gạo mới thành được. Ba cháu mới bảo, muốn chắc nó làm được bác sĩ hay không thì đi mượn một bài toán của mấy người đi học bác sĩ, đem vô cho nó làm thử, nó làm được thì đúng nó là bác sĩ, còn làm không được thì coi như nói dóc. Lần sau cháu vô thăm ảnh, cháu đem theo hai tờ giấy, một tờ là đầu đề của bài toán, một tờ là bài toán đã làm rồi. Gặp ảnh, cháu mới đưa cái đầu đề bài toán cho ảnh làm, đọc xong, ảnh nhìn cháu, cười cười hoài: “Bộ muốn thử tôi phải không, tưởng gì, dễ ợt”, “Dễ thì làm thử coi”. Ảnh vừa ngồi xếp bằng trên võng, vừa làm vừa cười. Ảnh làm bài toán mà cháu thì phập phồng. Khi ảnh đưa bài toán trả lại cho cháu, cháu mới móc cái giấy thứ hai ra cháu so. Mấy con số nó giống y như nhau chú à!”

Thấy cô mang nào lạp xường, nào khô, nào rượu, nào thuốc, tôi mới hỏi:

- Chuyến này mang vô thưởng đó phải không?

Con nhỏ cười ngoản ngoẻn thật dễ thương.

Người bạn cha tôi nói tiếp:

- Cái chuyện thằng con của anh nó thành cái gì đó, cũng được thôi anh Hai. Đã nói là Cách mạng thì cái gì mà làm không nổi, phải không bà con?

Chuyện này, chuyện nọ xọ qua chuyện kia, đêm ấy kéo dài cho đến khuya.

Con sông về khuya, từ nơi xa khơi lại đưa sóng vỗ vào bồ. Tiếng sóng êm ái như bàn tay của người mẹ vỗ nhẹ nhẹ lên vai con. Chiến tranh đã đi qua, dân làng hãy ngủ yên.

Chú thich:

[1] Cắt tóc

[2] Tổ bốn, năm đời

- 1 -

Tiến >>

Đánh máy: hoi_ls
Nguồn: Hoi_ls - NHÀ XUẤT BẢN KIM ĐỒNG, 2002
VNthuquan.net- Thư viện Online
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 5 tháng 3 năm 2022