Ký Ức Tuổi Thơ

phạm tú uyên

PHẦN I - TUỔI THƠ - 1 -

một việc làm táo bạo

Tôi sinh ra ở một vùng quê Phú Yên. Làng Phú Thứ nằm dọc theo Con mương dẫn thủy của đập Đồng Cam, tưới khắp cánh đồng Tuy Hoà trù phú. Làng quê yên ả, hiền hoà ấy bị cày xới, sôi sục trong chiến tranh. Chẳng một mảnh vườn, một tấc đất nào không khét mùi thuốc súng. Tuổi thơ tôi được trộn chung với đạn bom và xác người.

1. MỘT VIỆC LÀM TÁO BẠO

Tôi là con út trong nhà gồm bốn anh chị em. Chị Hai năm đó mười bảy tuổi, cha cho học nghề may nhưng chẳng mấy khi có khách đến nhà may vá. Bàn máy được đẩy vào góc nhà, chị sắm đôi quang gánh cùng nhập bọn với mấy chị hàng xóm đi bán nước mắm.

Anh ba Sơn có một tiệm sửa xe đạp. Gọi là tiệm cho oai chứ thực ra chỉ dăm cái săm lớp, vài cái vành đã cũ mèm, một khung xe sơn màu xám xịt và thùng đồ nghề lỉnh kỉnh những cờ-lê, mỏ-lếch. Tiệm của anh nằm ngay chợ Phú Thứ. Má kể mấy năm trước tiệm buôn bán cũng đỡ lắm, nhưng từ khi chiến tranh về làm ăn trở nên khó khăn. Vả lại anh Sơn năm ấy đã mười lăm tuổi, thích ngồi nghe những chú bộ đội kể chuyện hơn là sửa xe. Có lúc anh ngồi nhìn bộ đội đi ngang qua nhà, nhìn say sưa chẳng biết anh nghĩ gì. Nhưng chắc cũng giống như tôi nhìn mê mẩn chiếc xe đạp anh dựng ngoài hiên. Chiến tranh bắt đầu ác liệt anh vắng mặt ở tiệm nhiều hơn, có khi vài giờ, một buổi hoặc đôi khi cả ngày. Anh Hà trở thành cậu chủ nhỏ, tiệm của anh trở thành thế giới của tôi. Anh Hà là anh thứ tư, trong nhà anh Hà là người giống tính cha, trầm tỉnh ít nói. Anh hơn tôi bốn tuổi, dáng người thấp nên chỉ nhỉnh hơn tôi chút xíu, ấy thế mà tôi lại sợ anh nhất nhà. Anh cũng chưa bao giờ đánh tôi, cứ thấy miệng anh mím lại không hiểu sao tôi lại chẳng dám ho he. Có một điều lạ, là anh luôn biết tôi thích gì và, với tôi anh là người tôi vừa thích vừa sợ.

Môt buổi tối, đúng hơn là vừa chạng vạng chưa kịp đỏ đèn, chị Hai đi bán muối trở về tóc tai rối bời, dép đằng dép chân đằng chân, tất ta tất tưởi, kéo theo sau chừng năm người có cả trẻ con:

- Má ơi! Thằng Sơn bị bọn lính bắn chết rồi...!

Mẹ tôi đang cho heo ăn hốt hoảng chạy lên:

- Con nói cái gì? Sao lại bắn chết nó hả trời, nó sửa xe đạp mà!

Mẹ tôi khóc bù lu bù loa. Tôi không khóc như mẹ nhưng nước mắt của tôi chảy dài nóng ran cả đôi má, tôi thương anh vô chừng, anh Sơn ơi!

- Con làm sao mà biết được, hồi xế thấy bọn lính trói dẫn đi, gặp con, nó ra hiệu con đừng có lại, nó bị trói vầy nè, con đi một đoạn tự nhiên nghe hai phát súng, sảng quá chạy lại thì đúng là nó bị bắn quăng xuống mương dẫn thủy mất xác rồi!

Vừa nói chị Hai vừa đưa hai tay bắt chéo trước bụng. Tôi chân tay bủn rủn, đứng thẩn thờ nhìn bộ đồ anh mắc trên vách, nhìn chiếc giường kê gần cửa ra vào mà hằng đêm tôi với anh ôm nhau ngủ. Giờ anh nằm đoạn mương nào hay còn đang trôi theo con nước… Suy nghĩ miên man, mẹ sai anh Hà chạy tìm ba về. Ba chưa kịp về đã thấy anh Sơn quần áo dính bùn đất, đầu tóc rối bời, ướt mem lao vô nhà. Chưa nói gì anh đã cười toe toe:

- Làm gì tụi nó bắn con được!

Chị Hai tìm áo quần đưa anh Sơn, mẹ lấy khăn vo khô đầu và anh kể lại chuyện xãy ra trưa nay. Tôi, anh Hà ngồi há hốc mồm, đôi khi cười ré lên sung sướng, thích thú. Mẹ, chị Hai thì xít xoa, cứ lạy trời, lạy phật còn cha tôi trầm ngâm không nói gì. Tôi biết cha rất hài lòng vì ánh mắt ông nhìn anh kể, nhìn một cách triều mến. Quả thật anh Sơn của tôi rất cừ, trong mắt tôi anh là một anh hùng. Tôi ngưỡng mộ anh quá sức. Như tôi đã kể ở trên, thời gian sau này anh Sơn hay vắng mặt ở tiệm. Anh lân la theo các chú bộ đội (anh nghĩ phải làm được một việc gì đó để chứng tỏ mình là người đã lớn, can đảm) thế là hôm đó anh xuống Phú Lâm mua phụ tùng xe đạp. Trên đường về tới ga Gò Mầm, thấy lính Cọng hoà đi càn về đang ngồi nghỉ, đánh bài. Có tốp nằm ngủ dưới gốc cây. Anh men lại làm quen, tên lính ngồi gần gốc cây đang thiu thiu ngủ, anh lén lấy khẩu “cạc bin” nhét vô cái hầm ếch bé tẹo được moi sâu dưới gốc cây mà bọn trẻ con chúng tôi hay đào chơi trò đánh giặc giả và cũng để làm hầm tránh đạn, tránh máy bay. Bé bằng cái lỗ mũi, muốn vào phải nằm trường như con rắn mối, nhét khẩu súng vô hầm xong anh giả bộ uể oải đứng dậy về, không tên lính nào nghi ngờ. Đi được một đoạn bọn chúng phát hiện mất súng nên rượt theo anh. Lẽ ra, rời khỏi chỗ bọn lính anh phải chạy nhanh hoặc trốn đâu đó (mà nếu làm điều này thì chắc khi bắt bọn chúng sẽ bắn anh ngay). Anh cứ đi lơn tơn, vừa đi vừa xiết mía nên khi bọn chúng rượt tới cũng không thể nói anh lấy súng được. Bọn chúng bợp anh mấy bạt tai, đạp ngã nhào xuống vũng nước gần đó và trói lại. Chúng dẫn anh về quận.

Năm đó anh mười lăm tuổi, ốm nhom và đen nhẻm. Cao lêu đêu như một cây củi khô, giống như đứa giữ bò hơn là cậu chủ tiệm xe đạp. Tóc anh loăng quăn cháy vàng. Màu tóc của tuổi thơ bom đạn, của chiến tranh và cơ cực. Tôi thích nhất ở anh không phải mái tóc, tôi cũng có mái tóc như vậy. Bởi vì mỗi lần mẹ hôn lên đầu tôi người luôn bảo “tóc của thằng Hà em hôi giống mùi chó con của mẹ quá”. Khi đó tôi không thích thế. Tôi rất thích đôi mắt và cái miệng của anh, cái miệng khi nào như cũng muốn cười, kể cả những lần bị cha cho ăn roi mây!. Nếu không có những giọt nước mắt lăn trên má lúc khóc thì tôi cứ tưởng là... anh cười. Có một bận tôi lén lấy chiếc xe đạp của anh tập đi, tôi chỉ đi được một kiểu là để chân lên bàn đạp rồi lấy chân kia đẩy cho xe chạy và tôi đã cho xe chạy luôn xuống mương dẫn thủy! Bị anh la một trận tơi bời, nhưng lúc đó tôi vẫn thấy… miệng anh như cười. Tôi không sợ nhưng thương anh lắm. Và cũng nhờ chuyện anh lặn xuống mương (gọi là mương nhưng thật ra rất rộng. Ngày ấy tôi đã phải dùng hết sức mới bơi qua được bờ bên kia. Phải rộng hơn một thân tre và sâu thì bằng cả hai thằng tôi chắp lại). Lặn từ chỗ tôi quăng xe, đoạn cầu Phú Thứ đến ga Gò Mầm mất một buổi trời. Chiếc xe bị miếng chắn của ga cản lại và chính cái thùng thiếc rỗng cột sau “ba ga” đã lôi chiếc xe đi xa như vậy. Tại đây anh đã phát hiện ra một hầm bí mật bỏ hoang, sạc lở, hư hỏng khá nhiều, ăn thông qua đường cái dẫn đến một cửa nữa nằm phía dưới bụi tre, lề trên.

Khoảng hai giờ chiều hoặc hơn, bóng ngã đã hai sải chân, trời còn đang nắng chang chang, bọn lính đứa xô, đứa đạp lên người, thúc anh đi nhanh (có lẽ không tìm được súng và cũng không có cơ sở bảo rằng anh lấy nên bọn chúng trút bực bội lên anh) thỉnh thoảng anh lại bị đạp ngã nhào. Lề đường phía trên có nhiều bóng cây, phía dưới là con mương dẫn thuỷ. Gần đến ga Gò Mầm mùi hôi xông lên nồng nặc. Rác, xác súc vật chết, đủ thứ trên đời bị ga cản nên kết lại một mảng lớn. Còn hơn hai trăm mét chợt nhiên anh nhớ đến cái hầm bí mật! Anh mừng không tả nỗi, anh mừng phát run lên, và cũng lúc này anh gặp chị Hai, sợ rầy rà cho chị và nhất là sợ qua khỏi ga làm trở ngại ý đồ của anh, may mà chị đi luôn, anh cố đi chậm để chị đi thật xa. Thấy anh đi chậm quá một tên lính xô mạnh vào lưng, anh chỉ đợi có giây này. Thực ra anh có thể nhảy ùm xuống mương, nhưng nếu vậy bọn lính sẽ bắn theo ngay và có thể sẽ bị trúng đạn. Anh chờ một cú đạp, cú đẩy vào người, anh sẽ ngã, cố ngã làm sao thật tự nhiên. Và rồi anh ngã thật, ngã thật đẹp rơi “tòm” xuống mương. Phía trên mặt nước là một dề rác rưởi dày cả tấc, anh chìm nghỉm không thấy tăm hơi. Tên lính xô anh rơi xuống nước hốt hoảng chưa biết phải làm sao thì mấy tên gần đó:

- Đ.m. cho nó chết luôn, vớt làm gì!

Lúc đó trên bờ không có người dân nào, chứ nếu có ai nhảy xuống cứu thì phiền to. Một tên có vẻ là chỉ huy, chỉa súng xuống nước định bắn, ai đó nói:

- Không cần bắn nó cũng chết, ga nước chảy thế này mà bị trói cả hai tay nữa. Chắc chắn nó bị hút kẹt dính vô mấy lỗ của tấm thép chắn ga, chầu Hà Bá rồi.

Tên chỉ huy ngứa tay ấn vào cò súng “đoàng, đoàng”. Hai phát súng khô khốc chìm trong mênh mông biển lúa đang thì con gái. Bọn chúng lại tiếp tục lên đường, dững dưng như chưa hề có chuyện gì xãy ra. Còn về phần anh Sơn khi ngã “ùm” xuống mương, anh lặn một mạch đến hầm bí mật, chui ra khỏi bụi tre nương theo bờ ruộng, những đám lúa sắp làm đòng che chở, bảo vệ anh thoát ra khỏi vùng nguy hiểm. Từ đó, trong mắt bọn trẻ chúng tôi và cả người lớn nữa anh không còn là thằng Sơn ốm nhom như que củi, đi đứng ra vẻ người lớn lắm. Cây súng lấy được anh đem nộp cho mấy anh xã đội. Với công trạng này, anh bị mấy chú trên huyện phê bình cho một trận vì tội liều lĩnh, nguy hiểm nhưng sau đó về được tuyên dương trước toàn đội thiếu niên xã. Tôi sung sướng và tự hào cứ như công trạng đó là của tôi vậy.

Anh Sơn được mấy bác ở trên huyện giao công tác liên lạc, oai không chê vào đâu được. Anh nói khi nào đủ mười bảy tuổi, các bác sẽ giao súng và anh dặn cả nhà nếu ai hỏi thì bảo là anh đã mười sáu! Tiệm sửa xe được giao lại cho cha. Vậy là ông kiêm luôn thợ sửa xe, anh Hà giúp việc, còn tôi vẫn chạy long nhong.

PHẦN I - TUỔI THƠ - 1 -

Tiến >>


Nguồn: Tác giả Vietnamthuquan.eu - Thư viện Online
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 14 tháng 4 năm 2023