Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ
danh gia cổ vật #2
bí ẩn thanh minh thượng hà đồ
tố hinh (dịch)
Chương 1
nửa đêm trộm mộ “ăn trên chiếu”
Chơi đồ cổ quan trọng nhất là gì?
Người nói là mắt nhìn, kẻ lại bảo là quan hệ, thực ra đều không chính xác. Ngành này xét đến cùng phải chú trọng hai chữ: “duyên phận”. Thế nên người chơi đồ cổ thế hệ trước phần nhiều đều tin số mệnh, cho rằng số đã có ắt có, số không có thì đừng cố. Nếu không có duyên với một món đồ mà cứ cố giành về tay, gọi là đi ngược ý trời, sẽ dẫn tới hậu họa khôn lường, món đồ ấy không còn là hàng tốt nữa, mà trở thành vật dữ cắn chủ, nhẹ thì thân bại danh liệt, nặng thì nguy tới tính mạng.
Có điều đây đều là cách nói từ xưa, được quy vào mê tín dị đoan. Thời bây giờ ai cũng tiếp thu mấy chục năm giáo dục theo chủ nghĩa duy vật, chẳng tin mấy lời đó nữa. Hễ có tiền đưa tới tay thì bất chấp quy củ cách thức, ta cứ thế xông lên phá vỡ đạp bằng, chẳng sợ gì sất. Thần tài ngồi trên, yêu ma quỷ quái cũng phải đứng sang một bên.
Ví như mấy người ngồi cùng xe với tôi hiện giờ, rõ ràng không phải hạng con buôn cổ hủ trọng truyền thống.
Tôi đang ngồi trong một chiếc van Toyota chín chỗ cũ nát, ngoài lái xe ra tổng cộng có năm người. Bên trong xe lặng phắc như tờ, chẳng ai bắt chuyện, cũng chẳng ai hàn huyên. Bốn người kia đều ngồi im tại chỗ, trưng ra vẻ mặt hờ hững khó gần. Chỉ khi xe thình lình xóc nẩy lên, họ mới đảo mắt thật nhanh, vờ như vô tình liếc nhau một cái sắc lẻm.
Tôi cảm giác được họ không giống mình. Tôi là chủ một tiệm đồ cổ nhỏ trong thành phố, còn họ là con buôn cổ vật chuyên thu mua đồ cũ từ nông thôn. Những người này quanh năm suốt tháng lê la dưới quê, qua lại với đám nông dân vừa chất phác vừa gian xảo nên người cũng thoang thoảng mùi bùn đất và sát khí.
Bọn họ là ai? Xe chạy đi đâu? Tôi hoàn toàn không biết. Cửa xe đóng kín, bên ngoài đêm tối như mực, không trông rõ được cảnh vật. Chỉ có tiếng động cơ chạy ì ì cho thấy chúng tôi đang tiến tới một mục tiêu nào đó.
Tôi cũng chẳng buồn nghĩ nhiều, dựa đầu vào cửa kính lạnh lẽo, huyệt Thái Dương tì vào chốt cửa, gà gật ngủ. Xe chạy lắc lư tròng trành dữ dội, trong lúc mê man, tôi chợt có một ảo giác lạ lùng: thùng xe chẳng khác nào cỗ áo quan khổng lồ vừa đóng đinh, kín mít không lọt một tia sáng. Tôi nằm trong, bên ngoài có mười sáu người khiêng quan tài băng qua nghĩa địa, bước xuống lối vào mộ, tiến về phía huyệt mộ cuối cùng... Phải rồi, quên chưa tự giới thiệu. Tôi tên Hứa Nguyện, hơn ba mươi, là một tay buôn cổ vật cò con dưới chân hoàng thành. Tôi có một cửa tiệm nhỏ ở Lưu Ly Xưởng, buôn bán kim thạch ngọc khí, gọi là Tứ Hối Trai.
Tứ hối là gì? Chính là hối người, hối việc, hối lỗi, hối lòng. Đây là lời trăng trối của bố tôi, dạo Cách mạng Văn hóa, ông bị hãm hại phải nhảy xuống hồ Thái Bình tự tử, chỉ để lại tám chữ này. Song đằng sau đó còn ẩn giấu một câu chuyện dài. Tổ tiên tôi là một chi trong “Minh Nhãn Mai Hoa” gồm năm gia tộc lâu đời trong ngành cổ vật, mỗi nhà sở trường giám định một loại đồ cổ, có địa vị cực cao trong giới sưu tầm. Sau giải phóng, Minh Nhãn Mai Hoa cải tổ thành Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, vẫn có sức ảnh hưởng không nhỏ.
Hứa Nhất Thành, ông nội tôi là chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa thời Dân Quốc, xuất thân Bạch môn, về sau vì đánh cắp đầu Phật ngọc ở minh đường Võ Tắc Thiên tuồn cho người Nhật nên bị coi là Hán gian đem xử bắn. Từ đó nhà tôi cũng sa sút không gượng dậy nổi, rút lui khỏi Minh Nhãn Mai Hoa. Vào ngày sinh nhật ba mươi tuổi, do sự thúc đẩy của những người cố ý, tôi đã rơi vào vòng xoáy này. Trải qua một phen bôn ba trắc trở, cuối cùng xem như tôi cũng giải oan được cho ông nội, đưa đầu Phật về nước, kết thúc mối dây dưa ngàn năm giữa nhà họ Hứa và đầu Phật ngọc. Sau khi xong việc, tôi quay về Tứ Hối Trai, tiếp tục buôn đồ cổ, sống lặng lẽ.
Đột nhiên nghe phanh két một tiếng, người tôi đổ nhào về phía trước, sực tỉnh khỏi dòng ký ức. Xe đã dừng lại, tôi mở mắt ra, lắc lắc đầu. Ngờ đâu vừa quay đầu sang, tôi chợt thấy một gương mặt trắng bệch với đôi mắt cực kỳ quái dị hiện lên giữa bóng tối bên ngoài xe, một bên to tướng như mắt trâu, lòng đen ít lòng trắng nhiều, bên kia lại nhỏ xíu, thi trừng mắt với rùa chưa chắc đã thắng nổi. Cặp mắt một to một nhỏ này, trông như lúc nào cũng đang ngắm bắn.
Tôi giật thót mình, vô thức rụt người lại, suýt nữa ngã nhào khỏi ghế. Bốn kẻ cùng xe cười nửa miệng, lộ vẻ khinh bỉ. Bấy giờ tôi mới nhớ ra, gương mặt này hẳn là của tài xế. Chẳng để tôi nghĩ nhiều, cửa xe đã bị kéo đánh “xạch”, tài xế ló đầu vào, đảo tròn con mắt to rồi làm động tác mời, giọng khàn khàn, “Tôi tên Mắt Trố, làm chân chạy bàn, mời các vị theo tôi.”
Tôi vội điều hòa hơi thở, theo bốn người kia xuống xe. Vừa đặt chân xuống đất đã thấy mùi cỏ dại và cành thông xộc vào mũi man mát. Khỏi cần hỏi cũng biết, đây là mùi đặc trưng của chốn đồng không mông quạnh, hơn nữa còn là nơi hết sức hoang vu. Tôi nhìn quanh, lờ mờ thấy mấy ngọn núi đằng xa, trông như thú dữ mai phục trong đêm, có thể nhào tới bất cứ lúc nào.
Mắt Trố bảo bọn tôi theo sát sau y. Mây đen đang bao phủ bầu trời, che khuất mặt trăng, chỉ có ngọn đèn pin loang loáng thoắt sáng thoắt tối trong tay Mắt Trố soi đường. Cây đèn pin của y có vẻ rất được chăm chút, bóng đèn bọc một khoanh giấy bìa cứng, như vậy cột sáng chỉ tập trung vào phía trước, không chiếu sang hai bên, nên cách hơi xa sẽ không thấy được.
Chúng tôi bước thấp bước cao trên triền núi theo y chừng hơn mười phút, rẽ ngoặt liên tục, còn băng qua hai khoảng rừng. Rốt cuộc một người không kìm được lên tiếng hỏi, “Anh đưa chúng tôi đến đâu đây? Cỗ ở đâu vậy?” Mắt Trố quay lại nhe răng cười đáp, “Nôn nóng làm gì, chủ đâu có rời chiếu cỗ được.” Nói đoạn còn cười khà, tiếng cười như quạ. Y vừa cười, nhiệt độ xung quanh chợt hạ xuống, lạnh buốt cả người. Kẻ kia không dám hỏi thêm nữa, đành “hừm” một tiếng rồi đi tiếp.
Đám chúng tôi đi chừng hơn nửa tiếng thì tới một khe núi vắng. Khe núi bị hai dãy núi cao ngất kẹp vào giữa, tạo nên một bình nguyên dưới chân núi. Từ đằng xa loáng thoáng nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, hẳn là dòng suối từ trên núi chảy xuống, uốn quanh chỗ này, cắt khe núi thành hình tam giác. Khe suối là đáy, hai dãy núi sừng sững hai bên. Địa hình này trong phong thủy gọi là hai rồng xuống nước, là đất lành hợp xây mồ mả.
Mắt Trố tiến vào khe núi thì dừng chân, rọi đèn pin về phía trước.
“Bên này.” Chúng tôi nhìn theo ánh đèn, thấy thấp thoáng đằng xa một người trẻ tuổi mặc đồ rằn ri đang ngồi trước mặt là một cái hố rộng chừng nửa mét, mép hố còn gác ba chiếc xẻng cán thép và cả đống đất mới đào.
Khỏi cần hỏi cũng biết ở nơi đất báu phong thủy thế này đào sâu ba thước ắt có mồ mả, có mồ mả tất có trộm mộ đánh hơi được kéo đến.
“Đào tới đâu rồi?” Một tên mặt sẹo đi cùng tôi hỏi.
Mắt Trố di chân xuống đất, hể hả đáp, “Tìm ra vị trí mộ rồi, vừa rồi chúng tôi mới đào đến vách sau, chỉ một nhát nữa là tới cửa thôi, đợi các vị đến mở chiếu đấy.”
Mấy người đi cùng tôi đến trước hố đất, gạt lớp đất mới đào ra, vẻ mặt không ai giống ai. Nghe nói trộm mộ lâu năm chỉ cần nhìn đất là biết niên đại mộ. Có điều tôi chẳng có tài ấy, chắc hẳn mấy kẻ đi cùng cũng chẳng khá hơn. Chúng nhìn đất chỉ để yên tâm chứ đâu nhận ra cái gì.
Kiểm tra đất xong, Mắt Trố cười khì, “Các vị may thật đấy, món lần này là thịt kho của bếp trưởng. Nếu không có gì thắc mắc thì lên món nhé?”
Cả năm chúng tôi đồng loạt gật đầu, đứng tránh ra một quãng. Mắt Trố soi đèn pin về phía kia, hô “mở bát”, tức thì tên chạy bàn mặc đồ rằn ri đứng dậy, cầm chùy sắt và xẻng lên. Dáng gã gầy gò, lách vào hầm dễ như bỡn. Mắt Trố rút trong ngực áo ra một chai rượu trắng hàng chiết lẻ và năm cái chén, lần lượt đưa cho năm chúng tôi, “Trong núi sương dày lạnh giá, làm ít rượu trắng cho ấm người, phải chờ một lúc nữa cơ.”
Không nói thì thôi, y vừa nói tôi liền thấy gió lạnh bốn bề, sương mù bảng lảng, vô thức liếc nhìn vào cánh rừng tối om. Mắt Trố đưa chén tới trước mặt tôi cười, “Chú em lần đầu ăn trên chiếu à?” Thấy tôi cười ngượng, y nói, “Ăn quen bén mùi, anh em mình vất vả một tí, nhưng chắc ăn hơn, có phải không?” Tôi gật đầu lia lịa, đón lấy chén rượu uống cạn, rượu trắng cay nồng như ngọn lửa cháy lan theo cổ họng xuống tận dạ dày, song mắt tôi vẫn dán vào đống bùn đất đang không ngừng đùn ra từ cửa hầm, lòng quặn lên.
“Ăn trên chiếu” như lời Mắt Trố là một hoạt động khá kín đáo trong giới đồ cổ, trước đây tôi chỉ nghe nói, không ngờ hôm nay cũng được tận mắt chứng kiến.
Phần lớn đồ cổ đến từ hai nguồn: một là đồ gia truyền đời đời lưu giữ, hai là đồ tùy táng bị đào ra. Loại trước được truyền đời rõ ràng, nhưng loại sau hơi khó phân định thật giả. Anh bảo món đồ này đào được trong mộ ra, bằng chứng đâu? Lỡ lừa gạt người ta thì sao? Phải biết có những món đồ cổ bản thân nó hoàn toàn không đáng tiền, tất cả giá trị đều nằm ở xuất xứ. Cùng một hạt dưa, mua từ hàng tạp hóa thì chẳng đáng một xu, nhưng nếu từ trong bụng xác nữ ở gò Mã Vương thì nghìn vàng chưa mua nổi.
Thế là có kẻ nảy ra một cách, thăm dò xác định vị trí mộ đâu vào đấy, đào đường hầm đến cạnh mộ rồi để đó, mời vài người mua đến hiện trường, mở cửa mộ ngay trước mặt họ, đào lên bán sang tay luôn. Người mua chính mắt thấy đồ được đào dưới mộ lên, dĩ nhiên khỏi cần lo hàng giả.
Trò này trong ngành đồ cổ gọi là “ăn trên chiếu”, không phải chiếu rượu, mà là chiếu cói, chiếu cói để làm gì? Thời xưa người ta dùng chiếu cói bọc xác chết, nên nó ý chỉ mồ mả. Những người mua như chúng tôi gọi là “khách”, trộm mộ thì gọi là “chạy bàn”, dĩ nhiên “chủ” chỉ người chết trong mộ. Bởi vậy vừa rồi Mắt Trố nói “chủ không rời được chiếu cỗ” khiến mấy người kia sợ quá nín thít.
Mắt Trố nói hôm nay ăn thịt kho của bếp trưởng, ý nói đây là mộ thời Minh - Minh Thái Tổ họ Chu* mà.
Bếp trưởng có nghĩa trước đây chưa từng bị đào xới, bên trong rất có khả năng có hàng ngon.
Chúng tôi vừa uống rượu trắng vừa đợi, đợi hơn mười phút chợt thấy Mắt Trố nheo mắt, “Đến rồi.” Cả đám người đổ dồn mắt vào cửa hầm, thấy hai cánh tay người chết xám ngoét từ từ thò ra, lẽ nào là xác chết sống dậy bò ra ngoài? Thấy cảnh tượng rùng rợn trước mắt, tất cả vô thức lùi lại. Song Mắt Trố lại cười ha hả, giơ đèn pin lên soi, bấy giờ chúng tôi mới trông rõ cánh tay nọ là của tên chạy bàn vừa tụt xuống ban nãy, lấm lem bùn đất, hai tay còn ôm khư khư thứ gì đó.
Trông thấy vật nọ, tất cả sáng mắt lên. Tên chạy bàn phải ôm bằng cả hai tay, chứng tỏ nó không nhỏ chút nào. Đào được vật lớn chừng này từ mộ thời Minh, có thể coi là dấu hiệu tốt. Nhưng năm người chúng tôi chẳng ai nhúc nhích, đứng yên tại chỗ nhìn Mắt Trố chạy đến.
Đây là quy tắc ăn trên chiếu. Người mua tìm đến mua tận gốc để yên tâm, chứ không phải đến đào mồ quật mả, nên không thể nhúng tay vào quá trình trộm mộ, phải đợi đám trộm mộ bưng đồ đến trước mặt mới được xem. Như vậy người mua chỉ coi là mua đồ tùy táng chứ không phải trộm mộ, không tổn âm đức, cũng khỏi áy náy lương tâm. Xét trên góc độ pháp luật hiện đại, lỡ có bại lộ thì cùng lắm chỉ bị khép vào tội tiêu thụ tang vật mà thôi.
Mắt Trố cầm lấy đồ rồi nhanh nhẹn quay lại, nhẹ nhàng đặt xuống đất, cầm đèn pin rọi vào. Năm người chúng tôi xúm lại xem, ra là một chiếc bình, miệng loe, cổ dài, bụng tròn, nhìn hình dạng có thể là bình tỳ bà*. Nhưng bên ngoài lấm lem bẩn thỉu, không nhìn ra màu gì cả.
Mắt Trố đã có chuẩn bị trước, móc ra một cái chổi lông, cọ mạnh cho tróc hết bùn đất, rồi mở nửa chai rượu trắng còn lại, rút miếng da hươu tẩm rượu lau thật kỹ. Chẳng mấy chốc màu men bóng của bình đã lộ ra, hoa văn cũng hiện rõ, bên trên có hoa xanh như ý, cỏ lá cuốn, cúc liền cành, trông không tầm thường chút nào.
Tất cả đều trố mắt ra, xem các đặc điểm này không chừng lại là gốm Thanh Hoa thời Minh, vậy thì tối nay đúng là vớ bở.
Ăn trên chiếu có một đặc điểm: trước khi quật mộ, chẳng ai biết bên trong có gì. Có khả năng là báu vật hiếm có, song cũng có thể chẳng có gì cả. Thế nên người mua thông thường đều trả trước một khoản tiền công sức cho đám trộm mộ, gọi là treo thưởng, để bảo đảm dù đào ra được thứ gì, thì mấy tay trộm mộ cũng vẫn có ít tiền cọc giắt lưng, không đến nỗi công cốc, ngoài ra còn có tác dụng sắp hàng đặt gạch, ai bỏ nhiều tiền thưởng thì được ưu tiên chọn trước. Có kẻ lắm tiền thậm chí còn bao trọn.
Thấy đào được chiếc bình quý giá nhường này, Mắt Trố tiếc rẻ ra mặt. Đã nhận tiền cọc, dù đây là bình gốm Sài, cũng phải hai tay dâng cho người khác. Y đặt bình xuống đất, lùi lại mấy bước, gượng cười, “Các vị lại xem đi.”
Người thưởng nhiều tiền nhất bước ra, cười tươi rói cầm lấy bình, ngắm nghía kỹ lưỡng mấy lần, song không đưa cho ai khác mà ôm khư khư trong tay, ngẩng lên nói, “Các vị, món này tôi xin phép ăn trước.”
Bốn người chúng tôi thẫn ra, thi nhau lộ vẻ miễn cưỡng.
Ăn trên chiếu thông thường phải đợi đưa tất cả mọi thứ trong mộ lên, bày hàng ngang ra, rồi mỗi người lựa một món theo mức độ thưởng tiền nhiều ít, nếu còn thì lại theo thứ tự lần lượt chọn lại, cho tới khi hết đồ. Người này vừa bước ra đã ẵm gọn cái bình, không khỏi ngang ngược, nhưng về quy tắc cũng không thể nói là sai.
Huống hồ hắn đã dùng quyền ưu tiên một lần, sẽ phải đợi bốn chúng tôi chọn xong mới được chọn lần nữa. Tới lúc đó có còn gì không cũng không biết chắc được. Về điểm này thì ăn trên chiếu cũng như cược đá*, đều trông vào may mắn. Có người chỉ bỏ mấy trăm đồng đã vớ được gốm màu đời Đường; kẻ dốc túi bao trọn cả mộ, lại chỉ được mấy cân xương khô.
Thế nên chúng tôi cũng đành nín nhịn, đợi xem còn món gì bưng lên nữa. Chẳng bao lâu sau, Mắt Trố lại bưng dưới hầm lên sáu bảy món, chất đống dưới đất. Trong đó có một lư hương bằng đồng gỉ ngoèn không ra hình dạng gì, một mảnh khóa bạc trường thọ, nửa tấm lụa nát, hai bát gốm nhỏ và một đống tiền đồng sặc mùi ẩm mốc.
Bốn chúng tôi nhíu mày bới móc trong đống lỉnh kỉnh, nhìn đi nhìn lại chẳng ưng được món nào. So với chiếc bình gốm kia, mấy thứ này đúng là đồ đồng nát. Gã mặt sẹo ngẩng lên cau có hỏi Mắt Trố, “Bên trong còn gì nữa không?”
“Hết rồi.” Mắt Trố xòe tay.
“Tìm trên người chủ chưa?” Mặt Sẹo gặng.
Mắt Trố ngẩn ra rồi cười trừ, “Ông Trương, chúng tôi có lệ, không động vào quan tài.”
Trộm mộ thông thường chỉ nhặt đồ tùy táng trong mộ, không mở quan tài, không lục tìm trên thi thể xem như tôn trọng người chết. Nào ngờ gã họ Trương “xì” một tiếng, khinh khỉnh nói, “Đào mồ quật mả còn bày vẽ lắm lề luật vớ vẩn! Chẳng lẽ các người không biết, phỉ thúy ngậm trong miệng chủ mộ, mã não nhét ở hậu môn và châu báu đeo trên người mới là hàng tốt hay sao!”
Mắt Trố xua tay lia lịa, “Đổ đấu đã là thất đức lắm rồi, còn động đến thi thể sẽ bị quả báo đấy. Đây là đất của người ta mà.” Nói đoạn y đảo con mắt thô lố một vòng, thấy sương đêm trong khe núi đang bốc lên trắng xóa, như người chết trợn mắt nhìn ra, không khí rờn rợn bảng lảng.
Nếu là kẻ nhát gan, thấy cảnh tượng này hẳn đã rúm lại rồi, nhưng gã họ Trương vẫn chẳng thèm để tâm, “Làm đĩ còn đòi giữ trinh. Bọn tao nửa đêm nửa hôm chạy đến đây là để phát tài, không phải nghe mày giảng đạo!” Tay này cũng khá thông minh, biết phải lôi kéo phe phái nên quàng luôn mấy người khoanh tay đứng ngoài vào để gây áp lực với Mắt Trố.
Mấy kẻ khác cũng thi nhau gật đầu. Chuyến này mọi người lặn lội đường xa đến tận đây, đã vào núi báu đời nào chịu về không vì mấy lề luật cũ rích vớ vẩn? Quá là hoang đường! Ngay cả kẻ đã ẵm được chiếc bình ban đầu cũng gật gù đồng ý, chỉ riêng tôi nín lặng không nói gì.
Mắt Trố vẫn nhăn nhó phân trần, “Không được đâu, làm thế thất đức quá...”
Thấy Mắt Trố không chịu, gã họ Trương nổi giận đẩy phắt y ra, đi đến trước miệng hầm xách xẻng lên quát vọng xuống, “Có chịu mở quan tài không? Không mở tao lấp đất đấy!”
Mắt Trố tái mặt. Dưới hầm còn một người chưa lên, nếu gã Trương lấp đất, kẻ kia sẽ bị chôn sống trong mộ. Mắt Trố vật nài, “Ông Trương, đừng phá luật mà.” Gã Trương bực bội, “Tiền lù lù trước mặt không kiếm mới là phá luật ấy!” Nói đoạn làm bộ định lấp đất. Mắt Trố cuống quýt lao đến ngăn, song bị mấy người khác kéo lại, chỉ biết luôn miệng lúng búng can đừng làm thế.
Thấy vậy, tôi nhíu mày. Xưa nay tôi ghét nhất hạng người như gã họ Trương này, bèn lên tiếng khuyên nhủ, “Tôi thấy người quật mộ đã nhiều, nhưng chưa gặp ai ép người ta quật mộ thế này cả. Nếu ông thấy chưa đã thì tự xuống mà tìm, ép đám chạy bàn thì hay ho gì?” Gã ta vung xẻng trở mặt tôi cười nhạt, “Bỏ cái thói ngụy quân tử đi. Mày bỏ ít tiền thưởng nhất, theo lý thì chẳng xơ múi được mấy tí. Nếu không mở quan tài, coi như chuyến này mày công cốc đấy.”
“Quân tử yêu tiền, nhưng lấy tiền phải có đạo lý. Ông liệu mà ghìm cương trước vực, quay đầu còn kịp.” Tôi không chịu lép.
“Đệt! Mày tưởng mày là phát thanh viên đấy à!” Gã họ Trương chửi tục rồi nheo mắt gian xảo bảo mấy người kia, “Trên xe tôi đã đánh hơi thấy thằng ranh này không được ổn, không cùng bọn với anh em mình rồi.” Đoạn lại nhìn sang tôi, “Mày có mưu mô gì?”
Đây là cố ý chia rẽ, mấy người kia tức thì đổi ngay thái độ.
Ăn trên chiếu nguy hiểm nhất điểm này. Địa điểm quật mộ thường là nơi hoang vu hẻo lánh, lỡ như bên mua hoặc bên bán nổi lòng tham muốn giết người cướp của, sau đó ném xác xuống hầm phi tang thì e rằng mấy chục năm sau cũng chưa phát hiện được, bởi vậy người tham gia đều là chỗ quen biết, rất kỵ những kẻ không liên quan, còn phải để lại người bảo lãnh bên ngoài. Lần này Mắt Trố xui xẻo, mấy người mua chúng tôi đều không quen nhau, chẳng biết lai lịch thế nào, mà bản thân y cũng không khống chế được cục diện. Kết quả gã họ Trương vừa châm ngòi ly gián, tình hình đã trở nên căng thẳng.
Thấy thế nguy, Mắt Trố vội giật tay áo tôi, “Anh Nguyện đừng đôi co với họ nữa, cùng lắm tôi chịu tội thất đức, xuống mở quan là xong...”
“Gã định chôn sống người của ông mà ông vẫn nhịn được à?” Tôi trợn mắt.
Thật phí cho con mắt thô lố của Mặt Trố, mới thế mà đã rân rấn nước mắt như đàn bà, “Tôi dẫn các vị đến đây ăn trên chiếu, nếu xô xát dính đến cả mạng người thì về sau ai dám tin tôi nữa?” Tôi bĩu môi, “Hóa ra ông cũng nghĩa khí gớm nhỉ.” Mắt Trố không nghe ra là tôi mỉa mai, còn vỗ ngực tự hào, “Từ lúc Mắt Trố tôi xuất đạo đến giờ, lúc nào cũng đặt chữ nghĩa lên trên hết.”
Gã họ Trương đợi mãi phát sốt ruột, vung xẻng chỉ mặt Mắt Trố quát, “Hôm nay nhất định phải có một đứa chôn thây ở đây. Hoặc là mày hoặc là nó, chọn đi!” Hành động của gã khiến người ta không nén được nghi ngờ, chẳng biết có phải gã đã rắp tâm trở mặt từ trước, vừa rồi chỉ lựa gió bẻ măng không. Hôm nay vừa mở chiếu đã bưng lên một bình tỳ bà, khiến tất cả người tham gia đều động lòng tham, gã Trương chỉ đâm chọc vài câu, cả đám đã hùa nhau phá luật. Nhân tính quả thực không chịu nổi thử thách.
Mắt Trố tuân thủ luật lệ, nhưng gặp phải mấy tay chỉ biết đến tiền thì coi như xui tận mạng. Tôi trầm ngâm một thoáng rồi vỗ vai Mắt Trố, “Cứ để tôi.”
“Anh Nguyện? Anh...”
Tôi lắc đầu, đi đến giữa hai người, giơ tay phải lên cao giọng, “Ông Trương, tôi cho ông biết, nếu còn không chịu tỉnh ngộ thì xui xẻo ập xuống ngay đấy.”
Gã họ Trương có lẽ cho là tôi dọa nên chỉ nhướng mày cười hung ác rồi xúc một xẻng đất đổ xuống hầm. Mắt Trố hét lên thất thanh: “Ông Trương, đừng mà!”
Tiếng hét của y làm chim chóc xung quanh giật mình bay vụt lên, cả cánh rừng chỉ nghe tiếng đập cánh phành phạch. Gã họ Trương lờ đi, vung xẻng lên định xúc thêm nhát nữa, chợt thấy trên ngực xuất hiện một đốm sáng vàng nhạt. Gã vội ngẩng lên, thấy đèn pin vẫn nằm trong tay Mắt Trố, lại nhìn ra sau lưng Mắt Trố và tôi, mới phát hiện quầng sáng nọ từ đám sương mù trong rừng chiếu ra, rọi thẳng lên ngực mình.
Mấy người xung quanh tức thì cuống cả lên, chẳng hiểu là chuyện gì. Gã họ Trương sững ra một thoáng, rồi thấy quầng sáng nọ cũng chẳng gây ra tổn hại gì, bèn cười nhạt, nhanh nhẹn xúc ngay một xẻng đất đổ xuống. Nhưng khi xúc đến xẻng thứ ba, trong đám sương mù xung quanh chợt lóe lên vô số đốm sáng, áng chừng phải đến hai ba chục đốm, lơ lửng lững lờ trôi về phía này, cùng lúc đó, tiếng sàn sạt không biết từ đâu rộ lên.
Mắt Trố bỗng gào to như xé gan xé phổi: “Chủ mộ đến lấy mạng đấy!” Tiếng hét thảm thiết khôn tả, khiến gã họ Trương run bắn, xẻng trong tay rơi đánh “keng” xuống đất. Gã vốn không tin ma mãnh, nhưng tình cảnh này quá mức quái gở, lòng đã căng thẳng sẵn, lại nghe Mắt Trố hét lên, không khỏi giật mình.
Mấy người mua kia cũng đờ ra, một kẻ còn len lén rút tràng hạt run run lần từng hột. Tôi đứng khoanh tay tại chỗ bất động, tủm tỉm cười đầy thâm ý. Cùng lúc đó, một giọng trầm trầm nghiêm nghị từ thăm thẳm rừng sâu vẳng đến, “Các người đã bị bao vây, lập tức bỏ vũ khí xuống, giơ hai tay lên.”
Giọng nói lẫn với tiếng xèn xẹt, rõ ràng là nói qua loa. Gã họ Trương và mấy người mua kia nghe vậy tức thì tái mét mặt mày, có lẽ đang nghĩ thà gặp quỷ dữ đòi mạng còn hơn.
Chỉ thấy từ màn sương mù trong rừng sâu rầm rập tiến ra hai ba chục cảnh sát, những đốm “ma trơi” chập chờn kia thực ra là đèn pin công suất lớn của họ. Bốt da giẫm lên thảm cỏ xào xạc, huy hiệu trên mũ kê pi lấp loáng, tỏa ra khí thế uy nghiêm nghiêng trời lệch đất. Họ lẳng lặng chẳng nói chẳng rằng, chạy thoăn thoắt như bay, chẳng mấy chốc đã vây chặt khe núi, không lọt một con ruồi.
Trước là Mắt Trố, sau đến gã họ Trương và mấy tên khách mua đều ngoan ngoãn ngồi xuống, hai tay ôm đầu, động tác hết sức thành thạo. Chỉ riêng tôi vẫn đứng yên tại chỗ, giữ nguyên tư thế giơ tay, như thể những cảnh sát này được tôi triệu tới vậy. Đến nước này, gã họ Trương và đám người kia vẫn chưa hiểu đầu đuôi ra sao, chỉ gằm ghè nhìn tôi như muốn ăn tươi nuốt sống.
Theo lệ cũ thì tôi làm vậy là đuối lý. Giới đồ cổ cũng hơi giống xã hội đen, ân oán trong giới chỉ giải quyết nội bộ, hễ có tranh chấp thì tìm bậc đức cao vọng trọng phân xử, không lôi nhau ra trước pháp luật. Nếu kẻ nào gọi Công an tới phá hỏng việc buôn bán của người khác, sẽ bị coi là nối giáo cho giặc, bị người người khinh bỉ.
Có điều nói đi cũng phải nói lại, thời buổi này ai quan tâm mấy lề luật đó nữa, chỉ có hạng người như Mắt Trố mới khư khư giữ lề thói cũ mà thôi. Chính vì thích những kẻ gìn giữ luật tục cổ như y, nên tôi mới tiết lộ cho y chút manh mối.
Người giữ vững nguyên tắc, lúc nào cũng đáng được kính trọng. Trong một bộ phim điện ảnh Hồng Kông tôi từng xem, có câu thế này, “Người sống trên đời, luôn phải kiên trì theo đuổi vài việc trông có vẻ cực kỳ ngu xuẩn.”
Một cảnh sát trẻ thấy tôi còn chưa ngồi xuống liền trừng mắt định đạp cho một cú, nhưng bị người bên cạnh ngăn lại. Kẻ này tay xách loa điện, chính là người gọi loa trong rừng vừa nãy. Dáng người y gọn gàng, gương mặt sạm đen gầy quắt phảng phất vẻ nghiêm nghị, chỉ cần đứng đó đã xua tan hết không khí âm u rờn rợn xung quanh.
Y đưa loa cho cậu cảnh sát trẻ, rồi chắp tay sau lưng từ từ bước lại gần tôi, đưa mắt nhìn bao quát hiện trường. Đám người kia chạm phải ánh mắt y, tức thì cúi gằm mặt xuống như chuột thấy mèo.
“Cậu lại đây tôi bảo.” Y lạnh lùng lên tiếng, vẫy tay gọi.
Tôi theo y đi sâu vào bụi cây bên cạnh đến mười mấy bước, tới khi thấy đã đủ xa, nói chuyện không sợ bị nghe lỏm nữa, y mới dừng bước nhíu mày, “Đồng chí Hứa Nguyện, làm thế này hơi bị liều đấy.”
“Đồng chí Phương Chấn, chẳng phải tôi vẫn luôn phối hợp với các đồng chí sao?” Tôi thản nhiên đốp lại. Tôi và tay “cảnh sát già” Phương Chấn này vốn quen nhau từ trước, có thể coi là cùng vào sinh ra tử. Nhưng y chẳng mảy may mừng rỡ vì gặp lại bạn cũ, trái lại còn sa sầm mặt, “Sao vừa rồi cậu lại ra mặt bộc lộ thân phận hả?”
Tôi đáp, “Chúng ức hiếp kẻ thành thực, tôi khoanh tay đứng nhìn sao được. Những người giữ lề lối cũ như Mắt Trố giờ chẳng được mấy ai, tôi cũng muốn bênh vực lẽ phải chứ. Đằng nào các anh chả bao vây khu này rồi, cứ dọa cho chúng vỡ mật một phen.”
“Vớ vẩn! Lẽ ra cậu phải để bị bắt cùng cả đám, đến đồn công an cách ly ra rồi sẽ thả cậu. Giờ chúng đã biết cậu là người của cảnh sát cài vào, chẳng lẽ cậu không sợ chúng báo thù sao, nguy hiểm lắm đấy!” Phương Chấn nghiêm túc phê bình tôi.
“Bọn chúng ít nhất cũng phải bóc lịch mười hai mươi năm, sợ cóc gì?” Tôi vung tay hùng hổ.
Phương Chấn lắc đầu thở dài, vẻ rất bực bội trước hành vi không cần thiết của tôi. Tôi lờ đi, vươn vai hỏi, “Không nói mấy chuyện vớ vẩn này nữa, việc của tôi chuyến này xong chưa?”
“Chưa, lát nữa về đồn cậu còn phải cho lời khai.”
Nghe vậy, tôi than khổ bai bải, “Các anh bắt được cả người lẫn tang vật rồi, còn cần tôi khai gì nữa?”
“Đây là quy định.” Phương Chấn đáp, “À phải, lúc hỏi cung, cậu cũng phải dự thính dưới vai trò cố vấn về văn vật, đây là cục trưởng Lưu sắp xếp đấy.”
“Được rồi, được rồi...”
Tôi giơ hai tay đầu hàng. Tranh luận với hạng người như Phương Chấn đúng là vô nghĩa. Y như một tảng đá, một con đê, có xô bao nhiêu sóng gió vào, y cũng trơ trơ bất động. Tôi quay sang, thấy xa xa nhoáng lên một luồng sáng trắng. Đó là mấy kỹ thuật viên đang chụp ảnh hiện trường căn hầm mới đào. Cảnh sát đi đi lại lại xung quanh, kẻ thu giữ tang vật, người trông chừng đối tượng phạm tội, lấy dấu bánh xe, trình tự đâu ra đấy, chỉ nghe tiếng lao xao chứ không ầm ĩ. Cứ nghĩ bấy nhiêu người lẳng lặng bám theo chúng tôi trong núi, đến lúc bao vây xong xuôi rồi vẫn không ai phát hiện ra, tôi lại phục sát đất. Muốn làm được như vậy phải có tố chất gần bằng bộ đội đặc chủng ấy chứ.
Người của Phương Chấn, đúng là thâm sâu khó lường, hệt như y vậy.
“Từ nãy đến giờ, các anh vẫn bám theo tôi à?”
“Phải.”
“Xe tải rẽ ngoặt bao nhiêu vòng trong núi, trời lại tối như bưng, thế mà các anh vẫn theo được.”
“Công việc thôi.”
“Nếu lúc nãy tôi để lộ thân phận, các anh lại chưa đến kịp thì sao? Có kế hoạch dự phòng nào không?” Tôi tò mò hỏi.
“Cục sẽ có tiền tuất cho các trường hợp hy sinh trong khi làm nhiệm vụ.”
“…”
Nhìn mặt Phương Chấn thấy chẳng có vẻ gì là đang đùa, tôi rụt cổ lại, không nói chuyện này nữa. Trao đổi xong, chúng tôi quay trở lại. Mắt Trố đột nhiên ngẩng lên, “Thủ trưởng ơi, dưới hầm vẫn còn một người, xin các thủ trưởng đừng quên.”
Tay cảnh sát đang coi chừng y không hề khách khí, cốc cho một cái, “Im đi!” Mắt Trố vội ngậm miệng lại, cúi gằm mặt xuống. Tôi thấy vậy liền gật đầu, “Anh cũng nghĩa khí gớm, yên tâm đi, lưới trời lồng lộng, các anh không ai chạy thoát được đâu.”
Chẳng mấy chốc tay chạy bàn mặc đồ rằn ri phụ trách đào mộ đã bò ra khỏi đường hầm, vừa nhô lên liền bị ba người đàn ông giữ chặt. Vừa thấy mặt hắn, tôi đã buồn cười, tên này cũng mắt to mắt nhỏ, giống y khuôn Mắt Trố.
Phía cảnh sát bắt được cả người lẫn tang vật, hoàn thành nhiệm vụ, Phương Chấn tuyên bố có thể thu quân. Bên ngoài rừng có mấy chiếc xe đợi sẵn, tôi và Phương Chấn lên xe đầu tiên, mấy tên ăn trên chiếu bị tống cả vào xe thứ hai. Các xe đồng thời nổ máy, nháy đèn lấp loáng, chính khí lẫm liệt xua tan không khí âm u trong cánh rừng tối tăm.
Phương Chấn ngồi ghế sau cùng tôi, hai tay đặt trên đầu gối, mắt nheo nheo, nhìn thẳng phía trước chẳng nói nửa lời. Đây là thói quen của y khi ngồi xe, tôi cũng biết ý không tán gẫu, mà nhìn ra màn đêm tối mịt ngoài cửa sổ, lòng ngổn ngang muôn mối.
Lần hành động này là cục trưởng Lưu gọi tôi tới. Ông ta xuất thân từ Hồng môn trong Minh Nhãn Mai Hoa, giữ chức vụ quan trọng trong chính phủ, phụ trách quản lý về đồ cổ và văn vật, là người phát ngôn của Minh Nhãn Mai Hoa trên quan trường, ban đầu cũng chính ông đã bày kế hoạch kéo tôi vào vụ việc tìm kiếm đầu Phật.
Mấy tháng trước, phía cảnh sát để ý thấy có một lượng đồ tùy táng được tuồn vào thị trường đồ cổ thủ đô, qua kiểm nghiệm của Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, những đồ tùy táng này đều là thật, hơn nữa có niên đại giống nhau, thành phần thổ nhưỡng tương đồng, giống như được đào từ cùng một ngôi mộ lên vậy. Nghi ngờ đám trộm mộ lại làm bậy, cảnh sát bèn đặt ra kế hoạch câu cá này.
Kế hoạch này cần một người am hiểu đồ cổ, có tiếng tăm trên giang hồ, lại không quá nổi bật. Người trong Minh Nhãn Mai Hoa đều không phù hợp, cuối cùng nhiệm vụ rơi xuống đầu tôi. Dưới sự cài cắm của cục trưởng Lưu và Phương Chấn, tôi dạo một vòng trong chợ, quả nhiên đã tìm được một kẻ chuyên tổ chức “ăn trên chiếu”. Từ đó tôi bắt đầu tham gia với thân phận là một tay buôn cổ vật, phối hợp trong ngoài với Phương Chấn.
Lần “ăn trên chiếu” này không được thuận lợi, trái lại còn kết thúc trong tranh chấp. Thực ra tôi đã dự liệu từ trước. Kiểu mua bán đượm nếp cổ xưa này, chủ yếu dựa vào lề luật và chữ tín, không còn phù hợp với thời nay nữa. Giờ kinh tế mở cửa, mọi người đều cho rằng tiền bày ra trước mắt, cần gì phải đếm xỉa đến đống lề luật cũ rích, miễn làm sao kiếm được tiền thì thôi. Ngay cả giới cổ vật vốn bảo thủ cũng không tránh khỏi xu thế này, hạng người như gã họ Trương ngày càng nhiều, dưới ảnh hưởng của xu thế, lề luật cũng dần dần biến mất.
Rất nhiều lề lối trước đây trong giới cũng dần lui xuống khỏi vũ đài lịch sử, trở thành một thứ đồ cổ, giống như “ăn trên chiếu” vậy.
Không biết nếu ông và bố tôi sống đến giờ sẽ thấy thế nào. Vừa nghĩ linh tinh, tôi vừa giơ ngón tay, vẽ một đóa hoa mai lên cửa sổ xe phủ mờ hơi sương. Đóa hoa tổng cộng có năm cánh, chụm lại với nhau. Tiếc rằng chỉ lát sau hơi ấm điều hòa trong xe đã phát huy tác dụng, bông mai cũng tan tác.
Chẳng hiểu sao, dù đang ngồi trong xe cảnh sát, cảm giác ngột ngạt như rơi xuống hầm mộ tối om vẫn lởn vởn trong đầu tôi, không sao xua tan được, khiến tôi khó thở. Tôi khẽ tì trán lên cửa sổ xe, để hơi lạnh se se thấm vào đầu. Trong bầu không khí yên lặng đến ngột ngạt ấy, xe chầm chậm ra khỏi núi.
Chẳng mấy chốc, cả đoàn xe đã đến đồn cảnh sát địa phương, chạy thẳng vào sân. Nhìn tình hình này, e rằng bọn Phương Chấn định thẩm vấn gấp tại đồn cảnh sát gần nhất, tôi không khỏi than thầm trong bụng, xem chừng trong chốc lát chưa thể về thành phố ngay được rồi.
Đồn cảnh sát ở đây khá nhỏ, mấy chiếc xe cảnh sát chạy vào đã chật kín cả sân. Tôi và Phương Chấn xuống xe uống hớp nước nóng, ăn mấy miếng bánh quy rồi đi thẳng vào phòng thẩm vấn. Bên kia bàn là Mắt Trố, đối tượng thẩm vấn đầu tiên, hai tay bị còng, ngồi trên ghế. Có điều tên này cực kỳ bình tĩnh, con mắt thô lố nhìn quanh ngó quất, chẳng hề lộ vẻ căng thẳng.
Tôi cứ nghĩ trông thấy mình ít nhất y cũng trợn mắt nhìn, nào ngờ Mắt Trố lại cười tươi, còn chủ động chào trước, “Chào thủ trưởng.”
“Hắn nghĩ thoáng thật. ” Tôi lầm bầm rồi ngồi xuống sau bàn cùng Phương Chấn, bên cạnh còn một cảnh sát trẻ phụ trách ghi biên bản.
Trước tiên, Phương Chấn theo trình tự thẩm vấn, hỏi tên tuổi nghề nghiệp của y. Mắt Trố ngẩng đầu ưỡn ngực, đối đáp trôi chảy, nói mình là người ở Khai Phong, Hà Nam, họ Liêu. Trông bộ dạng y cứ như vừa được chiến sĩ thi đua, đang trả lời phỏng vấn vậy, chẳng giống đối tượng tình nghi bị thẩm vấn chút nào. Đoán chừng nếu ngành công an hằng năm có bầu chọn đối tượng tình nghi chịu hợp tác nhất, nhất định y sẽ được giải.
Hỏi xong mấy câu theo lệ, Phương Chấn gõ cán bút lên bàn, bắt đầu vào vấn đề chính: “Lần ‘ăn trên chiếu’ này là anh tổ chức à?”
“Vâng, tôi loan tin trên chợ, sẽ có người chủ động tìm tới... Ôi chao, nếu biết trước là các thủ trưởng để mắt đến, tôi sẽ rủ thêm mấy tay buôn lậu nữa, coi như trừ hại cho dân.” Mắt Trố trưng ra vẻ mặt xả thân vì nghĩa.
“Anh biết bị cảnh sát để mắt đến từ lúc nào?”
“Vừa nãy thôi ạ. Thấy loạt đèn pin xuyên qua sương mù rọi đến, tôi hiểu ra ngay. Chỉ có cảnh sát mới được trang bị đèn pin siêu sáng chống sương mù. Từ lúc ấy, tôi đã quyết tâm phải dốc toàn lực phối hợp với cảnh sát rồi.” Vừa nói, con mắt thô lố của Mắt Trố vừa láo liên đảo một vòng.
Tôi ngồi bên cạnh tò mò hỏi, “Anh đã biết là cảnh sát, sao còn hô rằng mộ chủ đòi mạng?” Mắt Trố hậm hực đáp, “Những kẻ đó thường ngày chẳng từ chuyện ác nào không làm nên cực kỳ mê tín. Tôi hô như vậy sẽ dọa được chúng. Ai bảo đám khốn nạn đó trở mặt trước, đòi chôn sống con tôi chứ?”
Phương Chấn nhíu mày, “Tên chui xuống quật mồ là con anh à?” Mắt Trố cười đáp, “Bố giữ hầm, con xuống mộ, đây là quy củ trong nghề.”
Phương Chấn nhìn sang, tôi gật đầu, ý bảo y nói không sai. Đúng là có lệ này. Nguyên nhân rất đơn giản, lúc đổ đấu phải đào hầm, thông thường là một người đứng canh trên miệng hầm, một người chui xuống mồ hốt của. Nhưng con người vốn sẵn tính tham, kẻ đứng trên nếu nổi lòng tham, sau khi nhận đồ chuyền lên có thể sẽ đổ đất xuống chôn sống người bên dưới. Bởi thế những kẻ kết phường đi trộm mộ phần lớn đều là thân thích, hơn nữa còn phải có quan hệ máu mủ, nhưng thỉnh thoảng cũng có trường hợp con hại chết cha, về sau quy củ phải sửa thành con xuống mộ, cha đứng trên, như vậy mới được bình yên vô sự. Đừng tưởng chỉ là thay đổi nhỏ, thực ra bên trong bao hàm rất nhiều đạo lý về nhân tính.
Thế nên gã trai trẻ xuống quật mồ kia cũng mắt to mắt nhỏ, có lẽ là bệnh di truyền gì đó trong dòng họ, không cần giám định, chỉ nhìn mặt đã biết chắc chắn là cha con rồi.
Phương Chấn cúi đầu hí hoáy ghi mấy câu, rồi đập bàn, “Anh có biết bố con anh phạm tội gì không?”
Mắt Trố gật đầu lia lịa, “Biết ạ, biết ạ, là tội lừa đảo. Theo bộ luật Hình sự Trung Quốc quy định, đây là hành vi bịa đặt hoặc giấu giếm sự thật để lừa đảo chiếm đoạt phi pháp một số lượng lớn tài sản của nhà nước và tư nhân.” Y đọc làu làu một lèo khiến cậu cảnh sát ghi biên bản suýt phì cười.
“Lừa đảo ấy à?” Phương Chấn cười nhạt, “Hôm nay bố con anh làm từng ấy việc mà chỉ là lừa đảo thôi hả? Hình như sai sai thì phải?”
Mắt Trố cười trừ, “Thủ trưởng sáng suốt, đúng là chỉ có tội lừa đảo thôi ạ.” Đoạn y chồm tới, mắt trợn tròn thô lố, hạ giọng thật thấp như đang tiết lộ một bí mật kinh thiên động địa, “Chuyện này tôi chỉ nói riêng với các vị thôi nhé, hàng tôi đưa cho chúng đều là giả đấy.”
Phương Chấn sững người, vội sai cậu cảnh sát kia lấy tang vật đem đến. Khi họ chuyển tang vật đến, tôi biết đã tới lượt mình, bèn ung dung đứng dậy, cầm bình tỳ bà kia lên xem kỹ. Nói ra thì, lần ăn trên chiếu này xôi hỏng bỏng không, một phần lớn là vì chiếc bình này. Chính nó đã khơi dậy lòng tham của những kẻ tham gia, từ đó mới dẫn đến cuộc tranh chấp về sau.
Thực ra tôi cũng không hiểu nhiều về đồ gốm, đó là sở trường của nhà họ Dược - Huyền môn, tiếc rằng gã Dược Bất Nhiên chẳng ra gì nọ đã phản bội, Dược Lai lại qua đời, Huyền môn không có người thừa kế, nên tôi đành đi cày thay trâu. Tôi cầm bình lật qua lật lại xem kỹ mấy lần, chợt tủm tỉm cười. Lúc mới lấy từ dưới mộ lên, trong cảnh tối tăm tù mù, tôi chỉ rọi đèn pin nhìn qua, không kịp xem kỹ. Giờ ngắm nghía kỹ lưỡng, mới nhận ra vấn đề.
Phương Chấn hỏi tôi cười gì, tôi bèn đáp Mắt Trố nói không sai, đây là một món đồ giả, hơn nữa còn làm giả tới mức không thể giả hơn được nữa. Dứt lời tôi trỏ cho Phương Chấn xem, dưới đế bình có một dòng chữ viết “Năm Hồng Hi thứ nhất đời Minh Thành Tổ di chế”, tổng cộng mười một chữ khải bằng men xanh nhạt.
Phương Chấn và cậu cảnh sát ghi biên bản nhìn đi nhìn lại vẫn chẳng thấy gì khác lạ. Tôi bèn lật úp bình xuống, di ngón trỏ qua từng chữ, bảo họ, “Sơ hở nằm ngay ở hàng chữ này đấy.”
Cậu cảnh sát vỗ tay đánh đét, “Tôi biết rồi! Hồng Hi là niên hiệu của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, niên hiệu của Minh Thành Tổ Chu Đệ là Vĩnh Lạc kia mà! Mâu thuẫn rồi!”
Tôi lắc đầu, “Không phải đâu. Cậu thấy hai chữ ‘di chế’ không? Chứng tỏ khi Chu Đệ còn ở ngôi đã sai làm chiếc bình này, nhưng làm chưa xong ông ta đã qua đời. Tới khi bình ra lò, đã là thời Hồng Hi, nên khi đề khoản phải viết niên hiệu của hoàng đế mới trước, sau đó mới viết Thành Tổ di chế, tỏ rõ vật này tuy ra đời vào thời Hồng Hi, nhưng được coi là di vật lúc tiên đế còn sống.”
Cậu cảnh sát cố cãi, “Anh không xem màu gốm dưới đế, cũng chẳng nhìn hoa văn, chỉ dựa vào hàng chữ này, sao biết được là giả?”
Tôi cả cười, “Chỗ sai nằm ở ba chữ Minh Thành Tổ kia kìa. Miếu hiệu của Chu Đệ không phải Minh Thành Tổ, mà là Minh Thái Tông.” Cậu ta trợn tròn mắt, “Sao thế được! Sách giáo khoa lịch sử trung học của tôi viết là Minh Thành Tổ Chu Đệ mà, có thấy ai gọi là Minh Thái Tông đâu.”
Tôi lắc ngón tay, “Cậu không biết rồi. Sau khi Chu Đệ qua đời, đã định miếu hiệu là Minh Thái Tông. Hơn một trăm năm sau, tới những năm Gia Tĩnh mới đổi thành Minh Thành Tổ. Thế nên thời nay chúng ta gọi Minh Thành Tổ Chu Đệ thì không sao, nhưng thợ thủ công những năm Hồng Hi, khi nhắc đến Chu Đệ chỉ gọi là Thái Tông thôi. Những văn vật trước thời Gia Tĩnh, nếu có hai chữ Thành Tổ ắt là đồ giả. Đây là điểm mù kiến thức, rất nhiều người không biết đâu, hơi sơ ý là bị lừa ngay.”
Mắt Trố như được vén mây mờ, vỗ tay đôm đốp thán phục, làm còng tay kêu leng keng, “Hóa ra sơ hở ở chỗ đó! Thủ trưởng đây đúng là mắt sáng như sao!”
Tôi và Phương Chấn nhìn nhau, cảm thấy phản ứng của tên này hơi kỳ lạ, dường như y cũng chẳng biết món đồ giả này sơ hở ở đâu.
Trong số tang vật chỉ có chiếc bình này đáng giá nhất, nếu nó đã là giả thì khỏi cần xem các món khác nữa. Phương Chấn gọi người mang hết cả đi, rồi lại hỏi Mắt Trố, “Ngay từ đầu anh đã định lừa mấy người kia rồi hử?”
“Vâng!” Mắt Trố thẳng thắn gật đầu thừa nhận, không hề xấu hổ.
Tôi chau mày, uổng công vừa nãy còn khen y giữ lề lối, hóa ra cũng là một tên lừa đảo.
Nhưng ngẫm kỹ lại, tôi không thể không thừa nhận y tính toán rất giỏi. Nghĩ mà xem, nếu người mua nhìn lầm đồ giả thành thật, coi như y ẵm được một khoản tiền lớn, nếu người mua phát hiện ra sơ hở cũng chẳng sao, đồ được đào dưới mộ lên ngay trước mặt các người kia mà, dù là đồ giả, cũng là do mộ chủ tìm nhầm đồ giả để chôn theo, chẳng liên quan gì đến kẻ bày cỗ. Ăn trên chiếu vốn trông vào vận may, đừng nói là vớ phải đồ giả, dù chẳng lấy được gì, cũng đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Lỡ như bị cảnh sát tóm gọn cũng chẳng sao, Mắt Trố chỉ cần chứng minh những thứ kia là giả, ít nhất sẽ thoát tội buôn bán văn vật, cùng lắm chỉ bị quy là lừa đảo thôi.
Xem ra trước khi bắt tay làm, y đã suy xét kỹ càng đủ mọi khả năng rồi, tiến được lui được, thảo nào lúc vào phòng thẩm vấn, trông y bình tĩnh làm vậy.
Phương Chấn nheo mắt ngẫm nghĩ, trong khi cậu cảnh sát bên cạnh không nhịn được quát, “Anh tưởng anh thoát được chế tài pháp luật đấy à? Đào xới mộ cổ cũng sẽ bị khép tội.”
Mắt Trố cười ha hả, chớp mắt đầy gian xảo. Tôi sực nghĩ ra, lập tức buột miệng hỏi, “Lẽ nào... ngôi mộ kia cũng là giả?”
Mắt Trố cười đáp, “Thủ trưởng sáng suốt quá.” Lần này, không khí trong phòng thẩm vấn bỗng trở nên khác lạ. Phương Chấn lạnh lùng gõ xuống bàn, “Nói kỹ xem nào.”
Mắt Trố thưa, “Thực ra chuyện này rất đơn giản. Bố con tôi tìm một miếng đất báu phong thủy, đào một đường hầm giả, ước chừng khoảng mấy mét, chẳng chạm đến mồ mả nào cả. Sau đó chúng tôi giấu mấy món đồ giả chuẩn bị sẵn xuống đó, tới lúc mở chiếu, con trai tôi sẽ giả vờ xuống mộ đưa từng món lên bán cho họ. Những người đó rất mê tín, lại nhát gan, nhất định sẽ không xuống kiểm tra, nên không làm sao biết được.”
“Chẳng trách anh khăng khăng không cho tay họ Trương mở quan tài. Tôi cứ tưởng anh giữ vững lề lối, hóa ra là sợ lộ tẩy!” Nghĩ lại những tình tiết khi nãy, tôi vừa ngượng vừa giận.
Mắt Trố ưỡn ngực, nghiêm trang đáp, “Không phải sợ lộ tẩy, mà là tôi biết chuyện này không đúng. Đào mộ quật mả là tội lớn, đi ngược với đạo lý, tuy tôi văn hóa thấp, nhưng cũng không thể làm những chuyện như vậy. Huống hồ điều 328 bộ luật Hình sự nêu rõ, đào xới các di chỉ văn hóa cổ mộ cổ, trộm cắp hoặc phá hoại nghiêm trọng các văn vật quý báu sẽ bị xử phạt từ mười năm tù, chung thân hoặc tử hình, tôi đâu thể đưa đầu vào họng súng được.”
“Anh thuộc luật Hình sự quá nhỉ.”
“Biết luật mới phạm luật được chứ.” Mắt Trố dõng dạc đáp.
Tôi ngả người vào lưng ghế, cảm giác đắc chí vừa nãy đã hoàn toàn tan biến. Tên khốn này đúng là quá xảo quyệt. Chuyện này từ đầu đến cuối là một cú lừa, gã này nhìn thì ngu thực ra đầu toàn sỏi, nếu tôi không phải người được cảnh sát cài vào, e rằng đã bị y đùa bỡn đến chết cũng không biết. Đường đường là người của Minh Nhãn Mai Hoa, vậy mà bị một tên lừa đảo nhà quê xoay như chong chóng, đúng là mất mặt.
Phương Chấn nhìn tôi đầy ẩn ý, khiến tôi càng thêm ái ngại. Vừa rồi tôi còn nói đỡ cho Mắt Trố, cứ ngỡ y cũng coi như quân tử trong đám trộm cắp, vòng vèo một hồi, thì ra vẫn chỉ là hạng đen ăn đen!
Mặt tôi thoắt xám ngoét, thoắt lại trắng bệch. Song Phương Chấn lờ đi, lạnh lùng thẩm vấn tiếp, “Cũng có nghĩa ‘ăn trên chiếu’ đều là lừa gạt, đào sẵn hầm giả, làm sẵn đồ giả, tất cả là một cái bẫy, đúng không?”
Mắt Trố cải chính, “Thủ trưởng à, chuyện này phải giải thích rõ mới được. Mấy món đồ giả kia có thứ là bọn tôi tự làm, nhưng dạng như chiếc bình tỳ bà này phải đi đường thủy, bọn tôi không làm nổi đâu.”
“Đường thủy là sao?” Thấy Phương Chấn nhìn sang, tôi tiu nghỉu giải thích, “Thủy ở đây ý nói nước pha vào rượu, chỉ hàng giả. Đi đường thủy có nghĩa là hàng giả mua lại từ tay những kẻ chuyên làm hàng giả, dùng để lừa mấy con gà.”
Chuyện này rất phổ biến trong giới đồ cổ. Giới này nhiều kẻ lừa gạt, nhưng cực ít người tự làm được hàng giả. Làm giả cũng là một ngón nghề, đâu có dễ thế. Thông thường đám lừa gạt sẽ mua hàng giả giá bèo từ những kênh chuyên làm giả, sau đó lừa bán ra với giá cao. Ví như Trịnh Quốc Cừ ở làng Trịnh chuyên làm đồ đồng giả, người khắp nơi trên cả nước nhập hàng từ đó rồi bán ra với giá như đồ thật, gọi là đi đường thủy. Đám làm giả ấy núp dưới chiêu bài bán đồ mỹ nghệ phỏng cổ để hợp thức hóa việc buôn bán nên cảnh sát xưa nay vẫn chẳng làm gì được.
Phương Chấn nghe xong bèn quay sang Mắt Trố, “Ai bán cho anh?”
Mắt Trố nghiến răng, lần đầu tiên lộ vẻ lúng túng, “Thủ trưởng à, chuyện này... đừng hỏi được không, tôi thực không tiện nói ra đâu.”
Cậu cảnh sát trẻ đập bàn, “Đây là đồn công an đấy! Ai cò kè mặc cả với anh! Khai mau!”
“Đây, đây là luật lệ trong giới!”
“Anh mà cũng nói đến luật lệ à!” Cậu cảnh sát tức quá phì cười. Phương Chấn chậm rãi bồi thêm, “Anh am hiểu pháp luật, hẳn cũng biết nếu lập được công lớn có thể giảm nhẹ tội hoặc hưởng án treo nhỉ.”
Mắt Trố nhắm nghiền mắt, như đang đấu tranh tư tưởng rất găng. Cuối cùng y lên tiếng, “Các thủ trưởng đã bắt được tôi, chứng tỏ chúng ta có duyên, tôi xin kể thật với các vị vậy, có điều tôi cũng là bất đắc dĩ thôi, không phải cố tình...”
“Đừng dài dòng nữa! Nói mau!”
Mắt Trố thở dài, “Nói thực, chiếc bình này mua từ đâu, tôi cũng không biết.”
“Anh còn dám nói láo à?” Cậu cảnh sát trẻ nổi xung.
“Tôi không biết thật mà. Tôi nghe một người trong nghề nói có chỗ này đi đường thủy được, hàng tốt giá bèo, lại uy tín. Nhưng con đường thủy này chỉ có độc một dòng địa chỉ thôi. Tôi ghi tên món hàng cần đặt và yêu cầu cụ thể trong thư, bỏ cùng tiền vào phong bì rồi gửi đến địa chỉ đó. Chừng mười ngày sau, người ta sẽ gửi hàng đến. Suốt cả quá trình, không phải gặp ai cả.”
“Anh không sợ họ nhận tiền rồi quỵt à?”
“Họ uy tín lắm, bao nhiêu người đều lấy hàng chỗ đó. Hơn nữa còn rất chuyên nghiệp, muốn đòi hàng chất lượng cao hay thấp đều có cả. Hạng bày cỗ ăn trên chiếu như tôi, cần loại hàng giả không được có sơ hở lộ liễu, nhưng lại không thể không có sơ hở. Chiếc bình họ gửi đến rất vừa vặn, người thường không thể phân biệt được thật giả, nhưng chuyên gia thoáng trông là nhận ra ngay.”
Dứt lời Mắt Trố liếc tôi, khiến lòng tự ái của tôi cũng được xoa dịu phần nào.
Phương Chấn truy hỏi, “Địa chỉ đó là gì? Tên người nhận thế nào?”
“Địa chỉ tôi để ở nhà, còn nữa, bức thư đặc biệt ở chỗ hai con tem phải dán đúng, còn phải viết ba chữ Lão Triều Phụng lên góc dán miệng bì thư.”
Xoảng một tiếng, cốc nước nóng rơi xuống đất. Tôi tái mặt gặng, “Anh nói lại lần nữa xem nào.”
“Phải viết ba chữ Lão Triều Phụng, chữ ‘Lão’ trong lão soái, ‘Triều’ trong Triều Tiên, ‘Phụng’ trong cung phụng. ” Mắt Trố nhìn tôi ngỡ ngàng, không hiểu sao tôi lại kích động như vậy.
Tôi không kích động sao được. Kẻ có liên hệ sâu xa nhất, dính líu phức tạp nhất với tôi trên đất Trung Quốc, không ai hơn người này cả. Lão sống cùng thời với ông nội tôi, vụ án đầu Phật năm xưa và hàng loạt sự kiện xảy đến với người nhà họ Hứa sau này, đều từ lão mà ra. Mấy người bạn tôi, hoặc chết trong tay lão, hoặc là người do lão cài cắm vào.
Đó là nói ân oán riêng tư, còn về việc công thì Lão Triều Phụng là một dòng chảy ngầm trong giới cổ vật, nắm giữ đường dây làm giả lớn, dấy lên gió tanh mưa máu trong thị trường văn vật Trung Quốc, có thể nói là kẻ địch ngàn năm của Minh Nhãn Mai Hoa. Bởi thế lão không chỉ là kẻ thù của tôi, mà còn là kẻ địch của cả Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa. Sau khi vụ án đầu Phật khép lại, Lão Triều Phụng đã biến mất, tôi cũng chẳng biết thân phận thật của lão. Người của Minh Nhãn Mai Hoa định đi sâu điều tra, nhưng manh mối quá ít ỏi, chỉ tổ tốn công vô ích. Lão như một con nhện độc, giấu mình trong mạng lưới giăng mắc vô cùng phức tạp, không sao phát hiện ra được.
Rốt cuộc lão là ai? Sao lại căm thù nhà họ Hứa như vậy? Cái tên Lão Triều Phụng này có liên quan gì với Ngư Triều Phụng, kẻ địch của cụ tổ Hứa Hoành nhà tôi? Những bí ẩn trùng trùng không giải quyết được, khiến tôi như có gai sau lưng, không dám lơi lỏng. Ngày nào còn chưa tìm hiểu rõ ngọn ngành thì từ nhà họ Hứa chúng tôi đến Minh Nhãn Mai Hoa, thậm chí cả thị trường cổ vật, đều không được yên ổn.
Thực không ngờ, một vụ án tưởng chừng cách xa tít tắp lại dính dáng đến lão, khiến tôi vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Xem ra nhà họ Hứa chúng tôi vẫn thật “có duyên” với lão.
Tôi cúi xuống lẳng lặng nhặt cốc nước lên, nhìn chằm chằm Mắt Trố, như thể coi y là Lão Triều Phụng. Mắt Trố thấy thế cũng sởn gai ốc, vội giơ hai cánh tay bị còng lên xua xua, “Không được đâu, đồng chí à, không được đâu.”
“Cái gì không được?” Cậu cảnh sát trẻ hỏi.
Mắt Trố nhìn tôi đầy vẻ quan tâm, “Đồng chí này mũi rồng cao thẳng, ấn đường phẳng mà rộng, đường pháp lệnh hai bên cánh mũi sâu dài mở rộng, hình như cái chuông, vốn là tướng đại phúc. Nhưng vừa rồi không biết cậu nảy ra ý thù địch với ai, hai đường pháp lệnh đột nhiên thu lại, hẹp như vách đứng, chẳng khác cây kéo treo ngược, đây là...” Y ngập ngừng.
Tôi nhìn xoáy vào y, “Là sao?”
Mắt Trố thở dài, “Xưa nay tướng mạo luôn đi đôi với số mệnh, biến đổi theo tâm tính. Đồng chí đã động sát khí, kiếp số lộ ra mặt, chuông đồng đúc thành kéo vàng, lại dựng ngược dọc mũi, nhằm thẳng vào nhân trung. Nếu không tu tâm dưỡng tính, bình ổn lại tâm trạng, e rằng...”
“E rằng làm sao?”
“E rằng số mệnh sẽ bị cắt làm đôi.”
Chữ Chu trong họ của Minh Thái Tổ có nghĩa là màu đỏ, mà thịt kho trong tiếng Trung Quốc gọi là “hồng thiếu nhục” chữ “hồng” cũng có nghĩa là đỏ.↩
Bình tỳ bà là một dạng bình gốm điển hình của Trung Quốc, được lưu hành rất rộng, thời gian sử dụng dài. Tạo hình của nó được phát triển từ bình tĩnh thủy trong chùa miếu thời Đường, hình dạng cơ bản là miệng loe, cổ thon dài, bụng phình, đế tròn. Điểm độc đáo về tạo hình của nó là cổ bình thon, giữa cổ hơi thắt lại rồi phình dần xuống dưới như hình quả hạnh, đế khá to, hoặc thu vào hoặc Xòe ra. Tạo hình loại bình này có từ thời Tống, trải qua các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh, Dân Quốc cho tới nay.↩
Cược đá là thuật ngữ trong nghề buôn đá, chỉ ngọc phỉ thúy lúc mới khai thác bị lớp phong hóa bao phủ, không biết bên trong xấu đẹp thế nào, phải xẻ ra xem mới biết chất lượng.↩
Chương 1
Tiến >>
Nguồn: TVE 4U
Được bạn: Mot Sach đưa lên
vào ngày: 31 tháng 12 năm 2024