1.
Tối muộn ông tiến sĩ mới đến, vào một ngày thứ Sáu của tháng Bảy. Đoạn đường sau chót trên xe mui trần đi từ ga về tựa như vô tận, trời vẫn nực lắm, ông mệt rũ, nhưng giờ thì ông tới nơi rồi. Elli và lũ trẻ đợi ông ở phòng khách. Ông hầu như chưa kịp đặt hành lý xuống, Felix và Gerti đã chạy xổ ra kể chuyện ào ào. Chúng ở ngoài biển từ sáng tinh mơ, chỉ muốn quay lại đó ngay để khoe với ông chúng đã đắp được những gì. Một ngôi thành cát khổng lồ. Bãi biển đầy những ngôi thành như thế. Để cho bác thở đã, Elli nhắc, bồng con bé Hanna ngái ngủ trên tay, nhưng lũ trẻ vẫn không dứt được câu chuyện về ngày hôm nay. Elli hỏi: Chuyến đi thế nào? Anh có muốn ăn chút gì không? Ông tiến sĩ ngẫm nghĩ xem có nên ăn gì không, vì ông không thấy ngon miệng. Ông rảo chân lên tầng trên của ngôi nhà nghỉ hè, lũ trẻ chỉ cho ông chỗ chúng ngủ, hai đứa mười một và mười hai tuổi, và chúng tìm ra trăm nghìn lý do để chưa phải lên giường. Cô hầu phòng đã chuẩn bị một đĩa hạt dẻ và hoa quả, bình nước có sẵn, ông uống nước rồi nói với em gái rằng ông rất biết ơn cô, vì trong ba tuần tới ông sẽ ăn ở tại đây, họ sẽ có nhiều thì giờ bên nhau, tuy về lâu về dài mới biết, liệu ông có thích vậy không.
Ông tiến sĩ không mong đợi gì nhiều ở kỳ nghỉ này. Mấy tháng vừa qua thật tệ, ông không muốn ở chỗ cha mẹ lâu thêm nữa, vì vậy lời mời ra biển Baltic đến thật đúng lúc. Em gái ông tìm được nhà trọ này trên báo, mẩu quảng cáo hứa có giường đệm tử tế và giá cũng phải chăng. Lại còn thêm bao lơn, hàng hiên, vị trí ngay sát bìa rừng và tầm nhìn ra biển thật hoành tráng.
Phòng ông nằm cuối hành lang. Gọi là rộng rãi thì không phải, nhưng có bàn viết, nệm cứng, ngoài ra còn có một bao lơn hẹp trông ra rừng, hứa hẹn bầu không khí yên tĩnh, mặc dù từ ngôi nhà gần đó lao xao tiếng trẻ con. Ông soạn hành lý, vài bộ đồ lớn, quần áo, sách để đọc, giấy viết. Lẽ ra ông có thể kể cho Max biết kết quả các cuộc thương thảo ở nhà xuất bản mới, nhưng chuyện đó lui lại vài hôm nữa cũng được. Kể cũng lạ, sau chừng ấy năm ông lại có dịp đến Berlin, rồi chỉ hai tư tiếng sau đã tới Müritz, trong một ngôi nhà mang tên May mắn. Elli đã đùa cợt về cái tên đó, cô hy vọng ông sẽ tăng vài cân nhờ không khí vùng biển, mặc dù cả hai đều biết chuyện đó rất khó xảy ra. Mọi thứ cứ lặp đi lặp lại, ông nghĩ, từ nhiều năm nay, mùa hè thì ở các khách sạn hay an dưỡng đường nào đó, sau đó đến mùa đông lê thê trong thành phố, đôi khi mấy tuần liền ông không rời giường. Vui mừng vì được ở một mình, ông ra bao lơn ngồi một lát, vẫn nghe tiếng người lao xao, rồi ông lên giường và nhẹ nhàng trôi vào giấc ngủ.
Khi thức dậy vào sáng hôm sau, ông đã ngủ được hơn tám tiếng. Ông biết ngay mình đang ở đâu, ông ở gần biển, trong căn phòng này, xa lắc tất cả những gì mà ông quen thuộc đến phát ngán. Tiếng trẻ con hôm qua theo ông vào giấc ngủ, giờ lại vang lên, chúng đang hát, một bài hát tiếng Hebrew(1), không khó để nhận ra. Bọn trẻ đến từ miền Đông, ông nghĩ, có loại nhà nghỉ hè dành cho bọn trẻ ấy, trước đây hai hôm, ở Berlin, Puah, cô giáo tiếng Hebrew của ông có nhắc rằng ở Müritz cũng có một nhà nghỉ hè như thế. Ông bước ra bao lơn và ngó về phía lũ trẻ. Chúng đã hát xong, giờ chúng ngồi dọc một cái bàn dài kê trước nhà, ăn sáng, ầm ĩ và vui vẻ. Trước đây một năm ở Planá ông ghét tiếng ồn ào ấy, nhưng hôm nay gần như ông vui sướng khi nghe những tiếng bi bô như thế. Ông hỏi cô em gái có biết gì về lũ trẻ ấy không, nhưng Elli chẳng biết gì và có vẻ ngạc nhiên khi thấy ông đột nhiên phấn khích, cô hỏi ông ngủ ra sao, có hài lòng với căn phòng không, có chứ, ông hài lòng, ông đang mong ra biển.
Quãng đường dài hơn ông tưởng, đi mất gần mười lăm phút. Gerti và Felix xách túi đựng đồ tắm và đồ điểm tâm, chạy lên trước một đoạn rồi lại quay về với ông bác đang chậm chạp bám theo. Mặt biển phẳng lì, lấp lánh ánh bạc trong nắng, khắp nơi đều có thể thấy những đứa trẻ mặc đồ tắm sặc sỡ vầy nước ở chỗ nông hoặc chơi bóng. May mà Elli đã thuê một chiếc ghế hộp cho ông, đặt kề bên mé phải cầu buộc thuyền, từ đây ông có thể quan sát mọi thứ khá thuận tiện. Xung quanh các ghế hộp sơn sọc lô nhô vô số ngôi thành cát cao đến đầu gối, ít nhất một nửa số đó được trang hoàng ngôi sao sáu cánh bằng vỏ sò.
Gerti và Felix muốn xuống nước, và rất sung sướng khi thấy ông bác cũng xuống theo. Nước ở khoảng gần bờ nóng như trong bồn tắm, nhưng sau đó ông cùng hai đứa trẻ bơi ra xa hơn, cho đến khi chạm các dòng chảy lạnh. Gerti muốn ông bác chỉ cho nó cách nổi người như xác chết, không khó chút nào, rồi ba bác cháu cứ thế dập dờn trôi nổi hồi lâu trên làn nước lấp lánh, cho đến khi nghe tiếng Elli từ bờ gọi ra. Anh không nên quá trớn, cô nhắc. Chẳng phải hôm qua anh hơi sốt đó sao? Đúng, ông tiến sĩ thừa nhận, nhưng từ sáng sớm nay ông đã hết sốt. Dẫu vậy, lên bờ ngồi ghế hộp nghỉ ngơi cũng tốt, trời có lẽ nóng trên ba mươi độ nhiều, ra chỗ nắng làm sao ông chịu thấu. Cả Gerti và Felix cũng không nên phơi nắng quá mức, chúng đang nhặt quả thông xếp các chữ cái tên mình trên mặt cát. Ông ngồi lặng yên ở đó rất lâu, ngắm lũ trẻ, thi thoảng lọt vào tai loáng thoáng mấy câu tiếng Do Thái, tiếng một người trong đám phụ trách nhắc nhở, nghe giọng nhất định dưới tuổi ba mươi. Gerti đã bắt chuyện với một nhóm con gái, khi được hỏi, nó kể lại, phải rồi, tụi nó từ Berlin và cũng đi nghỉ hè như nhà mình vậy, ở một nhà nghỉ hè cách nhà mình không xa.
Ông tiến sĩ có thể ngồi đó hàng giờ liền cũng được. Elli hỏi đi hỏi lại, ông thấy trong người thế nào, luôn bằng một giọng lo âu như người mẹ mà ông đã quá quen. Chưa bao giờ ông có thể trò chuyện được cùng Elli như với Ottla, nhưng lúc này ông vẫn nói với cô về Hugo Bergmann và Else Bergmann, họ đã mời ông cùng đi Palestine, tới Tel Aviv, nơi cũng có bãi biển và tiếng cười con trẻ như ở đây. Elli không cần phải nói thêm, ông tiến sĩ vẫn biết quan điểm của cô về những kế hoạch kiểu này, nói cho cùng thì chính ông cũng không tin vào chúng. Nhưng trẻ con là một niềm vui lớn, ông sung sướng và hàm ơn vì được ở đây với chúng. Thậm chí ông còn có thể chợp mắt trong không khí ồn ã này, giữa cái nóng khủng khiếp ban trưa, hơn một giờ liền, trước khi Gerti và Felix lại kéo ông xuống nước.
Sang ngày hôm sau, ông đã phân biệt được những khuôn mặt đầu tiên. Ánh mắt ông không lướt đi bâng quơ nữa, ông bắt đầu thấy hứng khởi, phát hiện ra vài cặp chân dài thiếu nữ, khuôn miệng, mái tóc, chiếc bàn chải tóc, thi thoảng có một ánh nhìn, cô bé tóc đen dong dỏng ở đằng kia mấy lần ngó qua chỗ ông rồi lại làm bộ như vô tình. Ông nhận ra hai, ba thiếu nữ qua giọng nói của họ, ông quan sát họ nhảy sóng ngoài xa, cách họ chạy trên cát bỏng, tay cầm tay, luôn miệng khúc khích cười. Ông khó đoán được tuổi họ. Có lúc ông cho rằng họ mười bảy tuổi, nhưng rồi lại nghĩ hình như họ vẫn chỉ là con nít, chính lưỡng lự đó đem lại cho ông niềm hứng khởi khi để tâm đến đám thiếu nữ.
Nhất là cô tóc đen dong dỏng cao kia đã làm ông xao xuyến. Thực ra ông có thể hỏi tên tuổi qua Gerti, vì Gerti đã bắt chuyện với cô bé, nhưng ông không muốn để lộ mối quan tâm của mình theo cách ấy. Ông ao ước khiến cô bật cười, vì tiếc thay, chưa bao giờ cô cười cả. Nom cô có vẻ ương bướng, như thể hôm nay có điều gì bực bội. Chiều muộn, từ bao lơn ông quan sát cô bưng đồ ăn ra đặt lên chiếc bàn ngoài vườn khu nghỉ mát, rồi sau đó, lúc tối, ông thấy cô đóng vai nữ chính trong một vở kịch. Ông không hiểu những lời cô nói, nhưng ông nhìn cách cô di chuyển, nhìn cô diễn với tất cả nhiệt tâm, rõ ràng đó là vai một cô dâu bị ép lấy chồng, ông suy đoán khi theo dõi diễn biến vở kịch, ông nghe thấy tiếng lũ trẻ con cười, tiếng vỗ tay, trong khi cô tóc đen cúi chào mấy lần liền.
Tận đến lúc thuật lại cho Elli và lũ trẻ nghe, ông vẫn vô cùng sầu muộn. Trước chiến tranh ông quen nhiều người ở nhà hát, gã Löwy ngang tàng khinh rẻ cha mình, các nữ diễn viên trẻ hầu như không thuộc lời thoại tiếng Do Thái, nhưng họ có một sinh lực dồi dào khi nhập vai vào vở diễn, hồi ấy ông từng có lòng tin mãnh liệt.
Sáng hôm sau Gerti dẫn cô gái ra chỗ ghế hộp, và lần đầu tiên ông thấy cô cười. Thoạt tiên cô rụt rè, nhưng khi ông nói đã xem cô diễn thì chẳng mấy chốc cô tỏ ra thân mật. Ông được biết tên cô là Tile, và khen cô trông như một diễn viên chính cống. Cô đáp, hy vọng trông cô giống một cô dâu, chứ cô có đóng vai diễn viên đâu? Ông tiến sĩ khoái câu trả lời đó, họ cười nói và làm quen cặn kẽ hơn. Vâng, cô là người Berlin, cô nói, cô cũng biết ông tiến sĩ là ai, vì trước đây mấy tuần, ở hiệu sách nơi cô làm việc, cô đã bày một cuốn sách của ông ra cửa kính. Có vẻ cô không muốn tiết lộ hơn về bản thân, chừng nào Gerti còn ở cạnh, vì thế cô mời ông lên cầu bến đi dạo. Thì ra cô muốn thành nghệ sĩ múa, và đó chính là nỗi ưu phiền của cô, vì cha mẹ cô ra sức ngăn cản. Ông tiến sĩ không biết nên an ủi cô thế nào cho phải, cái nghề ấy rất hay mà cũng đòi hỏi rất nhiều, nhưng nếu có lòng tin thì một ngày nào đó cô sẽ được múa. Ông quả quyết có thể hình dung cô bay trên sân khấu, uốn người, cầu khẩn bằng động tác tay chân. Ông tiến sĩ im lặng hồi lâu, trong khi cô nhìn ông đầy háo hức, nửa vẫn còn trẻ con, nửa đã như đàn bà.
Ngày hôm sau họ cũng đi dạo, cả hôm sau nữa. Cô gái suy ngẫm rất kỹ về những lời của ông tiến sĩ, song cô không chắc cô có hiểu đúng ý ông hay không. Khi nhớ lại thì ông tiến sĩ không hài lòng với câu trả lời của mình, hình như động viên những mơ mộng nơi cô bé là sai lầm, có lẽ ông không có cái quyền đó. Ông kể về công việc của mình ở công ty bảo hiểm, về những lúc ông viết khi đêm đến, tuy nhiên, dạo này ông không viết gì. Ông cũng không làm việc ở công ty nữa, ông về hưu từ một năm nay, chính vì vậy mà ông ngồi đây trên cầu bến, cạnh một cô gái Berlin xinh đẹp sắp thành nghệ sĩ múa trong mấy năm tới. Giờ thì cô gái lại cười và mời ông ngày mai dùng bữa, tối thứ Sáu ở nhà nghỉ mát luôn có cuộc liên hoan nho nhỏ, lúc nãy cô đã xin phép bà phụ trách rồi. Ông đồng ý ngay lập tức, cũng vì đó là ngày thứ Sáu, và thế là lần đầu tiên trong đời, ở tuổi bốn mươi, ông liên hoan vào tối thứ Sáu.
Đang buổi chiều, từ bao lơn ông được chứng kiến công việc chuẩn bị. Rồi ông lui vào phòng viết bưu thiếp, kể về biển và lũ ma quái mà dường như ông vừa tạm thời thoát khỏi. Ông kể nhiều về lũ trẻ trong thư gửi Robert và vợ chồng Bergmann, thi thoảng viết những câu giống hệt nhau. Tile cho ông biết nhà nghỉ mát tên là Hạnh phúc trẻ thơ, nên ông viết: Để kiểm tra khả năng di chuyển của mình, sau nhiều năm liệt giường và đau đầu tôi đã vùng dậy để làm cuộc du hành nho nhỏ tới Baltic. Dù thế nào thì tôi cũng gặp may lần này. Cách bao lơn của tôi năm chục mét là một nhà nghỉ dưỡng của Tổ chức Xã hội Do Thái Volksheim ở Berlin. Xuyên qua tán cây tôi có thể thấy lũ trẻ chơi đùa. Những đứa trẻ vui tươi, khỏe mạnh và hăng hái. Những người Do Thái miền Đông được dân Do Thái miền Tây cứu vớt trước mối hiểm họa Berlin. Phân nửa thời gian của ban ngày, cũng như của ban đêm, ngôi nhà, cánh rừng và bãi biển ngập tràn tiếng hát. Khi ở cạnh chúng, tôi không hạnh phúc, nhưng tôi đã đứng trước thềm hạnh phúc.
Còn đủ thì giờ để đi dạo một đoạn ngắn, sau đó ông thong thả chuẩn bị cho buổi tối, lấy bộ đồ lớn sẫm màu trong tủ, đứng trước gương chỉnh cà vạt. Ông tò mò muốn biết điều gì đợi mình ở bên đó, muốn biết chính xác buổi liên hoan diễn ra thế nào, những bài ca, khuôn mặt, chỉ thế thôi, ông không mong đợi gì cho bản thân.
2
Dora ngồi bên bàn bếp và đang mổ cá chuẩn bị bữa tối. Suốt mấy hôm nay cô nghĩ đến ông, rồi đột nhiên ông xuất hiện, mà lại do chính Tile dẫn đến, và ông đến một mình, không đi cùng người phụ nữ ở bãi biển. Ông đứng trong khung cửa, thoạt tiên ngắm nhìn mẻ cá, sau đó đến đôi tay cô, với đôi chút trách cứ, cô đoán vậy, rõ ràng không thể lầm được, đó chính là người đàn ông ở bãi biển. Cô sửng sốt đến nỗi không nghe rõ ông nói gì, ông nói gì đó về tay cô, đôi tay mềm mại đến thế, ông nói, vậy mà phải làm cái công việc máu me. Vừa nói ông vừa nhìn cô đầy vẻ tò mò, ngạc nhiên về công việc mà cô, người nấu bếp, phải làm. Tiếc thay ông không nán lại lâu được, Tile muốn đưa ông tham quan tiếp trong nhà, ông chỉ dừng lại thêm một thoáng cạnh bàn rồi đi mất.
Mấy giây liền, cô như bị bỏ bùa khi nghe tiếng người nói bên ngoài, tiếng Tile cười, tiếng chân xa dần. Cô tự hỏi, chuyện gì sẽ xảy bây giờ, cô hình dung cảnh ông đứng trong phòng Tile mà không biết đó cũng là phòng cô. Liệu Tile có nói cho ông hay? Cô đoán, chắc là không. Cô nhớ lại lần đầu tiên ngoài bãi biển, khi cô phát hiện ra ông bên người phụ nữ nọ và ba đứa trẻ. Cô hầu như không để ý tới người phụ nữ, chỉ chăm chú dõi theo ông, cách ông bơi, cách ông đi lại, cách ông ngồi đọc trên ghế hộp. Thoạt tiên, vì nước da ngăm ngăm, cô đoán ông là người lai da đỏ. Ông ấy có gia đình rồi, mi mong đợi nỗi gì, cô tự nhủ, nhưng dù vậy cô cứ tiếp tục hy vọng. Một lần cô theo chân ông và gia đình về tận làng, cô nằm mơ thấy ông, mơ cả về Hans, nhưng bây giờ không nên nghĩ đến Hans nữa thì hơn, hoặc có nhớ thì cũng chỉ đại khái như một nghĩa vụ.
Hai tiếng sau, cô gặp lại ông tiến sĩ trong bữa tối. Ông ngồi xa cô, tận đầu bàn, cạnh Tile đang vênh vang như một con công, vì không có Tile thì ông đâu có mặt ở đây. Từ hai hôm nay, bất cứ có dịp nào cũng thấy Tile nhắc đến ông tiến sĩ, ông tiến sĩ, ông ấy là nhà văn đấy, thứ Sáu các cậu sẽ làm quen ông ấy, và giờ thì chẳng phải ai khác ngoài người đàn ông ở bãi biển. Tile giới thiệu ông, sau đó mọi người chúc tụng mấy lời, rót rượu vang, chia bánh mì. Ông tiến sĩ nom có vẻ như thấy gì cũng thực sự lạ lẫm, và liên tục nhìn về phía cô, suốt bữa ăn, với ánh mắt đầy quyến luyến mà cô cảm thấy đã quen. Sau đó, trước khi ra về, ông tiến đến hỏi tên cô; tên ông thì cô biết rồi, giờ cô phải nói tên mình cho ông hay. Ông nhìn cô bằng đôi mắt xanh lơ, gật đầu và ngẫm nghĩ về cái tên đó. Cô nói, quá hấp tấp: Tôi đã thấy ông ở bãi biển, cùng vợ ông, mặc dù cô quá biết đó không thể là vợ ông được, nếu không thì vì sao cô lại phơi phới trong lòng từ khi ông vào bếp đứng cạnh cô? Ông tiến sĩ cười và xác nhận, đó là em gái ông. Bọn trẻ con cũng là con cô ấy, ông còn một em gái nữa, Valli, chồng là Josef, có thể cô đã nhìn thấy rồi. Ông hỏi bao giờ được phép gặp lại cô. Tôi rất muốn gặp lại cô, ông nói, hoặc: Tôi hy vọng chúng ta sẽ gặp lại nhau, và cô nói luôn: Vâng, có chứ ạ, vì cô cũng muốn gặp lại ông. Mai nhé? cô hỏi, thực tình cô muốn reo lên, khi ông ngủ dậy, bất cứ lúc nào ông muốn. Ông đề nghị ở bãi biển, sau giờ ăn sáng, cho dù cô muốn có ông cho riêng mình trong bếp hơn. Ông mời cả Tile. Cô quên bẵng rằng trên đời này còn có Tile, nhưng tiếc thay, Tile tồn tại, ai cũng thấy cô bé si mê ông tiến sĩ nhường nào, trong khi cô bé mới mười bảy và chắc chắn không có kinh nghiệm gì với đàn ông.
Dora mến cô bé ngay từ đầu, vì cô bé từa tựa như cô, nghĩ gì trong đầu là phải tuôn ra miệng ngay. Tile không hẳn xinh, nhưng người ta nhận thấy trong cô tràn trề sinh lực, cô yêu cơ thể mình, yêu cặp đùi thon dài như một vũ nữ chính hiệu. Dora đã thấy cô múa, rồi thấy cô khóc, và chưa đầy một giây sau cô đã cười khanh khách, như thời tiết tháng Tư.
Đã quá nửa đêm từ lâu nhưng Tile vẫn say sưa thuật lại từng lời của ông khách, cụ thể ông đã nói gì về ngôi nhà, bữa ăn, không khí buổi lễ, và ai cũng phấn khởi. Dora im lặng, cô có những quan sát của riêng mình mà giờ đây cô đang ôn lại và gửi gắm mình vào bằng cách nào đó, tựa như người đàn ông và mấy khoảnh khắc ở gần ông là thứ gì đó mà người ta phải gửi gắm mình vào. Cả khi Tile đã thiếp đi từ lâu, trong cô có gì đó bắt đầu lan tỏa, một âm thanh hay mùi hương, một thứ gì đó, thoạt tiên chỉ là hư vô nhưng sau đó ào ào chiếm lĩnh tâm trí cô.
Sáng hôm sau ở bãi biển, ông chìa tay cho cô khi chào nhau. Ông đã chờ cô và nhận thấy cô có vẻ mệt mỏi. Chuyện gì vậy? dường như ông muốn hỏi. Và vì Tile có mặt, và cả cháu gái Gerti của ông, nên cô chỉ mỉm cười vẩn vơ với ông, nói gì đó về biển và ánh sáng xung quanh. Mặc dù hai người chỉ nói vài câu với nhau, nhưng giờ đây cô phải sống với mấy câu nói và ánh nhìn đó. Xuống nước thì rõ ràng ông không muốn, nhưng Tile muốn, và thế là họ bơi vài phút. Cô để ý thấy người phụ nữ ở phía xa, tại sao mình lại tưởng đó là vợ ông nhỉ.
Còn bây giờ họ nói chuyện và quên là mình đang nói, vì chưa nói ra câu gì thì đã quên mất, họ ngồi ở bãi biển như dưới một cái lồng chụp khổng lồ nuốt hết ngay mọi âm thanh. Ông tiến sĩ hỏi cô hàng nghìn câu hỏi, cô từ đâu đến, sống ra sao, ông nhìn miệng cô, lúc nào cũng nhìn miệng cô, thì thầm gì đó về tóc cô, thân hình cô, về những gì mắt ông thấy, từ khi chưa cần một lời nào. Bây giờ cô kể về cha mình, về chuyện cô bỏ nhà ra đi, ban đầu tới Kraków, rồi đi tiếp đến Wroclaw, tựa như cô bỏ đi chỉ để một ngày đẹp trời đến với người đàn ông này. Cô kể về những tuần đầu của cô ở Berlin mà cô vẫn nhớ, rồi tất cả đột ngột chấm dứt vì Tile đến; chỉ vì Tile đến và làm cô giật mình từ sau lưng với bàn tay ướt đẫm, cô chợt nhớ mình phải quay về nhà bếp. Ông tiến sĩ đứng bật dậy và hỏi, có được phép đi theo cô không, nhưng tiếc rằng Tile cũng muốn đi cùng, bù lại thì cô mời ông ăn tối một lần nữa.
Hôm nay không có món cá, lần này cô ngồi trước một chậu đậu. Cô hy vọng ông sẽ tới. Ồ, vui quá, ông đến sớm thế, ông ngồi xuống đi, tôi rất vui, cô nói. Ông tiến sĩ quan sát cô làm việc một lúc lâu, ông nói, ông thích ngắm cô, cô có nhận ra không? Nhất định ở Berlin cũng có rất nhiều người ngắm cô, và cô đáp hẳn người ta có lý do nào đó: vâng, liên tục, ngoài phố, trên tàu điện, và nếu có dịp thì cũng cả trong nhà hàng, cô không có ý rằng người ta ngắm cô những lúc đó cũng giống ông tiến sĩ ngắm cô bây giờ. Thế là họ chuyển qua đề tài Berlin. Ông tiến sĩ thích Berlin, thậm chí ông biết cả tổ chức Do Thái Volksheim và hỏi cô đã trở thành người nấu bếp ở đó ra sao, sau đó ông muốn nghe cô nói gì đó bằng tiếng Hebrew, ông đã theo học mấy năm nay ở một cô giáo tên là Puah, tiếc là không được giỏi lắm. Cô phải nghĩ một lúc mới đề nghị được ngồi cạnh ông trong bữa ăn, và ông đáp lại bằng thứ tiếng Hebrew sai bét, rằng ông đã nghĩ đến chuyện đó cả đêm rồi, vừa nói ông vừa khom lưng, nắm lấy tay cô và còn hôn lên tay nữa, ra vẻ đùa cợt để cô không giật mình. Nhưng cô vẫn giật mình như thường. Cả khi cô gọt khoai tây sau đó và ông như vô tình chạm vào tay cô, cô giật mình, không hẳn vì ông mà vì chính mình nhiều hơn, vì cái cảm giác cuồng nhiệt và quy phục hoàn toàn, tựa như không cần tới một điều kiện nhỏ nhoi nào.
Sau bữa ăn tối Chủ nhật, họ đi dạo. Hai người hẹn nhau hẳn hoi, trong một khoảnh khắc không bị ai quan sát ở bờ biển, vì họ không muốn làm phật lòng Tile vốn đang làm như ông tiến sĩ là của riêng mình. Chiều đến, khi tất cả mọi người xuống bơi, Dora chợt nhận ra cô đang tự so sánh với Tile. Tile vô tư sải cặp chân dài chạy ào ào qua quãng nước nông, làm nước bắn tung tóe, nhưng ông tiến sĩ không ngẩng lên nhìn, hôm nay cô thấy ông gầy gò và mảnh mai hơn mọi khi. Ông chỉ thoáng nhìn về phía Dora, nhưng cô tin đã cảm nhận được ánh mắt dò xét kỹ càng, tay, đùi, hông, ngực, đúng vậy, và cô hài lòng thấy ông ghi nhận tất cả để gộp lại thành một hình ảnh, không tìm tòi mà khẳng định, tựa như ông đã biết hết từ lâu. Nước ấm và lặng, hai người ngập ngừng một lát mới lội xuống, Tile bắt đầu sốt ruột, hy vọng cô không theo dõi mọi diễn biến.
Cô em gái nặng về lịch sự hơn thân mật, khi ông tiến sĩ giới thiệu hai bên với nhau lúc sáng. Qua chuyện ông kể, họ cũng đã biết đôi chút về nhau rồi. Elli biết Dora làm nghề nấu bếp ở nhà nghỉ dưỡng bên kia, và nấu ngon nhất vùng Müritz, còn Dora biết, nếu không có Elli thì cô sẽ không có cơ hội làm quen ông tiến sĩ. Cô thích cách Elli nói về ông, đáng tiếc là anh tôi, Elli nói, khảnh ăn lắm, phải thật kiên nhẫn và tình cảm thì đôi khi mới dỗ được.
Dora vận chiếc áo dài màu lục thẫm khi đi dạo. Đã hơn chín giờ, trời còn hơi sáng, cô vui khi được đi cạnh ông và cảm thấy ông cũng vui sướng không kém. Lẽ ra họ có thể ra đầu cầu bến thứ nhất và ngồi xuống một trong các dãy ghế băng để quan sát mọi người đi lại, nhưng ông tiến sĩ muốn đi tiếp đến cầu bến thứ hai. Dora cởi giày vì cô thích đi trên cát, ông tiến sĩ đưa tay cho cô vịn và họ lại nói về Berlin. Ông tiến sĩ biết Berlin từ những năm trước chiến tranh, cô ngạc nhiên vì ông biết nhiều thế, ông nhắc tên vài địa điểm quan trọng đối với mình, nói đến khách sạn Askanischer Hof là nơi ông từng trải nghiệm một buổi chiều khủng khiếp, dẫu vậy mấy năm nay ông vẫn muốn kiếm dịp đến Berlin. Thật ư? cô nói. Cô đến Berlin thực ra do ngẫu nhiên, cách đây đã ba năm rồi. Ông hỏi cô sống ở khu nào, ở đó ra sao, ông muốn biết toàn những chuyện kỳ cục như giá sữa và giá bánh mì, lò sưởi và không khí ngoài phố năm năm sau khi chiến tranh kết thúc. Berlin trần tục và hối hả, nhan nhản dân tị nạn từ miền Đông, cô kể, trong khu cô ở toàn người tị nạn, nhìn đâu cũng thấy các gia đình rách rưới thích hát hò, đến từ miền Đông kinh hãi.
Hết đoạn đi dạo ven bờ biển, họ ngồi xuống một cái ghế băng hẹp, gần đầu cầu bến thứ hai, trong quầng sáng đục của cột đèn. Họ vẫn nói tiếp về Berlin, ông tiến sĩ kể về ông bạn Max có người tình là Emmy ở đó. Giờ thì đáng tiếc là họ phải nói vài câu về Hans, ít nhất cô cũng phải nhắc đến anh ta, nhất là khi ông tiến sĩ nói đến một người đã đính hôn, nhưng đó là chuyện đã xảy ra cả nghìn năm trước. Ông tiến sĩ trở nên mơ màng, giả sử ông đến Berlin thì sẽ ra sao nhỉ, và cô đáp lại, thế thì rất thích, vì cô sẽ chỉ cho ông xem mọi thứ, nhà hát, sân khấu tạp kỹ, cảnh náo nhiệt trên quảng trường Alexander, mặc dù cũng có những góc yên bình, tận ngoài xa, ở Steglitz hoặc bên hồ Müggel, nơi đô thị tiếp giáp với làng quê. Ai mà biết được sự thể ra thế này, ông tiến sĩ nói, tôi đi ra biển Baltic nhưng phải trung chuyển ở Berlin. Thật may vì được ngồi đây với cô, ông nói. Cô cũng thấy may.
Trên cầu thưa dần bóng người, hẳn đã sắp nửa đêm, chỉ còn thấp thoáng bóng vài đôi tình nhân, mấy con hải âu ngủ trên phao định vị và ánh đèn hắt ra từ các khách sạn. Một làn gió nhẹ nổi lên, ông tiến sĩ hỏi cô có lạnh không, đã muốn đi khỏi đây chưa, nhưng cô muốn ngồi lại, ông hãy kể cho cô nghe về người mà ông đính hôn hoặc về buổi chiều khủng khiếp nọ, nếu hai chuyện không phải là một, và ông tiến sĩ nói, thực ra là một.
Buổi đêm cô nằm chong chong mắt. Ông đưa cô về lúc một rưỡi, ngay sau đó sấm chớp đùng đùng nổi lên, cứ như ngay trên mái nhà, vì chớp và sấm chỉ cách nhau vài giây. Hình như nhiều người không ngủ, cả Tile cũng thao thức trên giường, cô hỏi ngay Dora vừa đi đâu về. Chị gặp ông ấy à? Dora trả lời, ừ, bọn tớ đi dạo một lát, sau đó sấm chớp ầm ầm. Họ yên lặng đợi cho cơn giông đi xa, và khi bên ngoài lạnh hẳn đi, Dora mở cửa sổ nhìn sang bao lơn nhà bên kia, nhưng bên đó tối om.
Trời mưa đến sáng sớm hôm sau, rồi tiếp tục đến tận tối, buổi chiều ông tiến sĩ mới tới, gần như đã trở thành một thói quen, ông ngồi hỏi cô đủ chuyện, cứ như chẳng bao giờ cạn câu hỏi cả. Cô ưa cách xưng ông tôi theo khuôn phép, nó cũng chỉ là cái vỏ ngoài, cô biết chứ, một thứ che chắn tạm thời mà một ngày nào đó cô sẽ gỡ bỏ. Cô có thể nói: Tôi có nhớ ông, trong bữa sáng hôm nay chúng tôi có nói về ông, ông còn nhớ Berlin đấy chứ? Cô liên tục nghĩ tới chuyện đó. Đôi khi cô phải tự cảnh báo, vì đó chỉ là những giấc mơ, thậm chí trong tâm tưởng cô đã đưa ông vào phòng mình ở phố Münze, cho dù cô không thích căn phòng ấy chút nào, trong đó không có vòi nước, thực ra chỉ là một phòng kho có tủ và giường, nhìn ra sân sau tối mò.
Cô đoán ông cỡ ba lăm, có nghĩa là ông phải hơn cô mười tuổi. Ông nói là ông không được khỏe, vùng đỉnh phổi của ông bị nhiễm lạnh, vì vậy ông tìm vùng biển và khách sạn trong rừng; chỉ vì mấy năm nay ông không khỏe mà cô gặp được ông.
Miệng ông, cách ông nói như một làn nước, cách ông xuyên thấu cô một cách nhẹ nhàng. Trước ông, chưa người đàn ông nào nhìn cô như thế, ông nhìn thấy nhục thể, thấy sự phập phồng dưới làn da, sự run rẩy, và mọi thứ làm cô hài lòng.
Có lần cô cảm giác rất hạnh phúc khi nghe ông thuật lại một giấc mơ. Ông mơ thấy đi tới Berlin, ông ngồi trên tàu đã được mấy tiếng, nhưng vì lý do nào đó mà nó không dịch chuyển được mấy, ông tuyệt vọng vì tàu liên tục dừng, ông sẽ không tới nơi đúng giờ, mà người ta thì đợi ông ở ga vào tám giờ tối, lúc này đã bảy giờ mà ông vẫn chưa qua biên giới. Giấc mơ như vậy. Cả Dora cũng đôi khi mơ như thế, và điều quan trọng nhất đối với cô là người ta đợi ông đến. Ở địa vị cô thì cô không ngại đợi, cô nói, ngồi nửa đêm trên ghế băng cũng chẳng sao. Ông tiến sĩ nói: Thật ư? Cho đến hôm qua ông gọi cô là cô, cô thích thế, nhưng giờ đây ông chỉ gọi mỗi “Dora”. “Dora” có nghĩa là tặng vật, ông chỉ việc đón nhận thôi, cô đang đợi.
3
Ông tiến sĩ hết sức ngạc nhiên thấy mình ngon giấc. Ông đang chuẩn bị lao vào một cuộc đời mới, thực ra phải sợ mới đúng, thực ra phải nghi kỵ, nhưng ông lại ngủ, lũ ma quái không xuất đầu lộ diện, dù ông vẫn luôn đợi chúng, đợi những trận chiến ngày xưa trong đầu. Nhưng lần này có vẻ như không có chiến trận nào, đúng là một phép mầu, và có một kế hoạch tiếp sau phép mầu ấy. Ông không nghĩ nhiều đến cô, ông hít cô vào rồi thở cô ra, những buổi chiều trong bếp, lúc họ đi dạo ở Berlin trong tưởng tượng, trong bữa ăn, khi một làn hương từ cô thoảng bay đến. Tối đến, lên giường, thỉnh thoảng ông nghĩ ngợi về một câu nói, một góc da thịt, diềm váy của cô, cách cô cầm nĩa khi ăn, hôm qua, lúc ông hỏi về cha cô, một người Do Thái sùng đạo và từ lâu nay xung khắc với con. Hiện tại cô không xuất hiện trong giấc mơ của ông. Nhưng ông không đánh mất cô lúc ngủ, vừa sáng sớm ông đã biết ngay cô đang ở đâu đó, dường như giữa ông và cô có một sợi dây mà cả hai cùng chầm chậm kéo để xích lại gần nhau. Cho đến nay hầu như ông chưa chạm vào cô, nhưng ông không chỉ lờ mờ phỏng đoán, rằng sẽ đến một ngày ông chạm vào cô, ông không ghét mình vì thế, ông gần như coi đó là quyền của mình và nỗi lo sợ chỉ là một điều mê tín đã bị đè bẹp.
Từ một tuần nay họ gặp nhau hằng ngày. Ông gặp các em gái và lũ cháu chủ yếu chỉ vào bữa sáng. Vừa hôm qua thôi, ông buộc phải nghe than phiền rằng ông dành quá ít thì giờ cho họ. Elli nói thế, nhưng dường như thực tế cô rất thuận lòng với ông và cái cô Dora kia, vì nhờ vậy ông có việc mà làm ở cái xứ Müritz buồn thiu này, và đêm đêm không phải bận bịu với những chuyện ngớ ngẩn. Chưa bao giờ ông tiến sĩ ưa nói đến công việc của mình, nếu cô hỏi thì ông sẽ trả lời rằng, ông thậm chí không viết thư, kể cả cho Max, người mà ông có thể báo tin ông đang suy tính chuyện đi Berlin. Cơ may để thực hiện dự định đó quá mong manh, nó giống một hơi thở hơn là một ý nghĩ, khó có thể diễn tả thành lời, và ông sợ chỉ cần một câu nói sai nó sẽ tan biến.
Có thể Max sẽ hài lòng khi biết cô là người miền Đông. Từ khi các đô thị tràn ngập dân tị nạn, ai cũng nói đến miền Đông, Max cũng thế, ông là người hy vọng sự giải cứu cho dân Do Thái đến từ miền Đông, nhưng không hề có sự giải cứu nào, từ miền Đông cũng không.
Ai từ miền Đông tới, người ấy rũ bỏ cuộc sống cũ của mình trong nháy mắt, vì vậy Dora tự do hơn ông nhiều, tung cánh bay xa hơn, nhưng đồng thời bị ràng buộc hơn, cô là người biết cội rễ của mình ở đâu, cũng chính vì ông vừa chặt đứt nó. Trong mắt ông tiến sĩ, cô không hiện ra sầu muộn như Max có lẽ sẽ quả quyết, tựa như cô bước ra từ một tiểu thuyết của Dostoyevsky. Cả Emmy cũng đâu có sầu muộn, cô là người Berlin chính cống, tóc vàng mắt xanh, và bí mật duy nhất của cô là quan hệ giữa cô và Max, nhờ cô mà ông biết được thế nào là thỏa mãn xác thịt. Trước mặt ông tiến sĩ, Max đã nhiều bận nói bóng gió đến chuyện ấy, may mà không đi vào chi tiết, song Max là bạn ông, đã có vợ, và dường như phù thủy Emmy đã đẩy Max chệch một bước khỏi con đường sáng. May mà họ không sống cùng thành phố, nhưng tất nhiên cũng không may, ít nhất đối với Emmy. Cô than phiền rằng hai người ít gặp nhau quá. Cô cũng than phiền với ông tiến sĩ. Giữa chặng tới đây, ông đã đến thăm cô tại căn phòng gần Sở Thú và đề nghị cô hãy tự đặt mình vào hoàn cảnh của Max.
Dora cười khi nghe mấy chuyện đó. Họ ngồi ở bãi biển và kể cho nhau nghe chuyện đợi chờ. Ông tiến sĩ cũng đã đợi nửa đời mình, ít nhất thì đó là cảm giác của ông khi mọi chuyện đã qua, người ta cứ đợi, không còn tin là sẽ có ai đến, và đột nhiên, có người đến.
Hôm sau trời mưa như thác đổ. Từ trên bao lơn, ông tiến sĩ quan sát đám người đi lại rầm rập bên khu nhà nghỉ mát, vì hôm nay là Chủ nhật và một nửa số trẻ con quay trở lại Berlin. Tile cũng phải về cùng. Gần mười một giờ cô quàng áo mưa đứng ở sảnh, cắn răng kìm nước mắt. Ông tiến sĩ đã mua tặng cô món quà chia tay, một cái đĩa màu ngọc đỏ mà hôm nọ cô phát hiện ra trong một tủ kính trưng bày. Cô vui sướng khôn tả vì trước đó cô vẫn hay nhắc đến nó. Chúng ta sẽ gặp nhau ở Berlin, ông tiến sĩ hứa, ý ông chỉ là trên đường về ông sẽ ghé thăm cô ở hiệu sách. Mặc dù vậy, lúc này cô vẫn khóc. Ô hay, sao vậy, ông hỏi, cô lắc đầu và quả quyết chỉ vì sung sướng. Ông đã có địa chỉ chưa? Ông tiến sĩ gật đầu, ông đã ghi lại cả rồi, ông sẽ viết ngay cho cô, chừng nào biết chính xác ngày giờ, vì nếu cứ mưa mãi thế này thì hai cô em gái ông sẽ muốn về nhà sớm. Đến đây thì phút chia tay cũng đã dài, Tile mân mê cái đĩa, ông tiến sĩ động viên cô, vì hôm trước cô không muốn nghĩ tới chuyện tiếp tục sống chung với cha mẹ nữa, nhưng ông tiến sĩ nói, cô phải sống ở đó, không nhớ chuyện đôi giày ba lê à, cô đã hứa rồi đấy.
Gần như ông thở phào khi Tile đi khỏi. Ông không muốn nói ra với Dora, nhưng chính Dora cũng nhẹ cả người, hai người nhận rõ sự vắng mặt của Tile ngay lập tức. Chừng nào Tile còn ở đây, họ sẽ cảm thấy bị soi mói, giờ thì họ cũng không hẳn tự do, nhưng nhẹ nhõm hơn.
Bất chấp thời tiết xấu, họ hẹn nhau đi dạo. Dora nói khoảng mười giờ sẽ đến đón ông tiến sĩ, ông ngồi trên phòng đọc sách, song cô đến sớm hơn nửa tiếng. Cô đội mưa chạy qua, mái tóc dày nặng và cả khuôn mặt cô ướt đẫm. Trong một thoáng ông thấy cô lạ lẫm, nhưng chỉ vì cô đứng trong phòng ông. Thì ra ông ở đây, cô nói còn chưa bước qua khung cửa; cô hy vọng không làm phiền ông. Cô chẳng hề nhìn căn phòng, cứ đứng đó mỉm cười, ngắm nhìn ông, ông tiến sĩ chỉ còn phải lấy áo choàng, nhưng thay vì thế, không hề báo trước, ông ôm cô. Đúng hơn là ông chỉ rướn người về phía trước, gần như lướt đến, ông hôn lên tóc và trán cô, vừa hôn vừa thì thầm, cả nụ hôn cũng tựa như lời thì thầm, ông vui vô cùng. Từ khi phát hiện được cô trong bếp, ông vui vô cùng. Vâng, cô nói. Cô vẫn dựa vào cửa, tựa như tiếp tục đợi đến lúc hai người lên đường, áo choàng của ông treo trong tủ đầu kia, ông chỉ còn phải đi lấy nó, nhưng ông không đi. Ông nói về Berlin; nếu cô muốn thì ngay hè này ông sẽ tới Berlin. Có đúng ông nói thế không? Cô gật đầu, cô hôn tay ông, hôn lên đầu các ngón tay, nhưng giờ thì cô phải cởi cái áo khoác ngớ ngẩn ra. Hình như cô run, căn phòng sưởi không được ấm lắm, cô khoác một chiếc áo dài mà ông chưa thấy bao giờ, và mặc cái áo dài đó thì run là phải. Đừng đi, cô nói khi ông định rời ra một thoáng để treo chiếc áo khoác của cô, rồi họ đứng đó hồi lâu, hơi nghiêng người, ôm nhau mà như không, hông kề hông, như một đôi tình nhân. Cô thấy nhớ ông ngay, cô nói, sau lần nhìn thấy nhau ở bờ biển, mặc dù cô đã không tin. Giờ thì cô tin. Có thể tin vào nụ hôn được không? Cô muốn biết ông nghĩ gì, bây giờ, ngay lúc này, liệu ông có nghĩ đến chuyện ấy không. Không, đừng nói ra, cô thì thầm, dù thực ra chẳng rõ vì sao lại thì thầm. Dora đi ra bao lơn và lắc đầu thất vọng vì thời tiết, riêng về chuyện thời tiết thì đúng là họ quá xúi quẩy. Cô ngồi xuống tràng kỷ cạnh cửa ra bao lơn, chỗ ông tiến sĩ thỉnh thoảng ngồi đọc sách, ông nhận xét chiếc áo dài, cô mua nó ở Berlin, đó là lý do để ông nhớ rằng Dora có một quãng thời gian trước mùa hè này và thực lòng ông muốn biết về quãng thời gian đó. Ông nhận ra cô trẻ trung xiết bao, cô còn cả cuộc đời trước mắt, ông thầm nghĩ, ông có quyền gì để vươn tay chạm vào?
Nỗi ngờ vực dấy lên về đêm. Không phải một cuộc giao chiến như ông hằng quen thuộc, dù vậy ông vẫn thức trắng đến sáng, thời gian trôi lê thê, không cách nào ngủ nổi. Ý nghĩ chậm chạp xuyên thấu thân thể ông, ông có thể thản nhiên quan sát chúng mà không có cảm xúc gì đáng kể, như ông ngạc nhiên xác nhận, giống một kế toán viên làm quyết toán và không việc gì phải nghi ngờ những con số. Không đếm xỉa thứ tự, câu hỏi nào hiện ra là ông tiếp nhận, xử lý từng câu rồi lặp lại lần nữa. Ông có bệnh, ông hơn cô mười lăm tuổi, dù vậy ông có thể thử sống với cô, ở Berlin, may mà cô là người Berlin chứ một thành phố khác thì không bao giờ lôi kéo nổi ông. Đó là các điều kiện mà ông thấy tương đối thuận lợi, không kể đến những nụ hôn ban sáng. Những gì còn lại đều bất lợi: Trong mấy ngày ở bờ biển này, ông hầu như không tăng cân, ông thấy mình yếu ớt, ông không biết làm sao để giải thích với cha mẹ, rằng có một người, một thiếu nữ, đã thế còn là một người miền Đông, từ cái xứ vốn bị cha ông khinh thị. Liệu ông có nên bước đến trước mặt cha và nói, con làm quen cô ấy ở Müritz và sẽ đi Berlin với cô ấy? Ông sắp xếp các kiểu mở màn cho suôn sẻ, thoạt tiên thử nói với mẹ, sau đó thử với cha. Ông tự hỏi, tại sao lại khó khăn nhường ấy, rồi cuối cùng ông gần như bình tĩnh làm lại từ đầu để không bỏ sót điều gì, tình hình ở Berlin, chuyện phòng ở, và lặp đi lặp lại: bệnh tật, tính thiếu cương quyết mà ông vẫn tự trách mình bấy lâu nay, nhưng hoàn toàn vô hiệu.
Ông kể cho Robert nghe về đêm đó, không hẳn chỉ vì ông coi trọng nó, mà vì giữa hai người từ lâu nay đã thành một kiểu tập tục là than phiền về buổi đêm của mình. Ở an dưỡng đường trước đây hai năm, từ khi quen nhau họ hay bàn chuyện chuyển tới một thành phố khác. Bây giờ ông tiến sĩ trở lại đề tài đó, có lẽ cả hai người phải chóng ra đi, chậm nhất là sang năm, đi đến cái khu Do Thái bẩn tưởi của Berlin chẳng hạn, nơi Dora đang sống, mặc dù ông không hề nhắc đến cái tên Dora.
Họ hẹn gặp nhau vào buổi chiều để gỡ gạc lại buổi đi dạo bị lỡ. Lần này cô đợi ông, vẫn khoác chiếc áo choàng cũ, vẻ hơi ngập ngừng, tựa như cô nhận ra được ngay cái đêm không lành. Cô nhìn ông dò hỏi, nhưng ông làm ra vẻ không có gì, lần đầu tiên ông cầm tay cô, nhỏ và khô. Chưa đi được mấy bước, họ đã trở lại tình cảnh giống như hôm qua trên phòng ông, vẫn giọng thì thầm ấy, trong khi quanh họ rì rào tiếng mưa đổ xuống rừng thông và bạch dương. Ông tiến sĩ gợi nhắc tâm trạng bối rối của mình từ hôm qua đến giờ, mọi thứ đều mới lạ một cách đáng sợ, mọi thứ đều điên đảo. Ông muốn cô không nhầm về ông, muốn cô đánh giá ông chính xác, đánh giá cả chính mình, để sau này cô không ân hận. Cô nói, cô không biết có gì để ân hận? Ông tiến sĩ không biết thể hiện ra sao. Ông đang có bệnh, ông nghỉ hưu từ một năm nay. Ông có những thói quen kỳ quặc. Để cô mường tượng ra tình cảnh của ông, ông kể về bệnh lao của mình, chỉ để cô hiểu ra cô đang đứng trước tình thế nào, vì hôm qua ông nắm được ý cô, bản thân ông hiểu tình thế này. Chuyện bệnh trạng của anh, em không quan tâm. Có chứ. Em chỉ muốn có mặt nơi anh có mặt, còn lại sẽ ổn thôi. Ông nghe rõ nhất hai chữ “chúng mình”, nghe âm hưởng của nó, nhẹ nhàng và quả quyết, cứ làm như chẳng có gì ghê gớm có thể xảy ra với họ nữa. Về chuyện phòng ở thì cô đã suy nghĩ rồi. Cô quen vài người có thể nhờ vả, nếu ông muốn thì ngay hôm nay cô sẽ viết thư về Berlin. Anh có muốn không? Trên đường ra bãi tắm, đoạn cuối trước khi ra khỏi rừng, cô nêu vài cái tên mà ông hoàn toàn không quen, cả hai lạnh run, mặc dù mưa đã ngớt hẳn. Đợi đã, cô nói. Em làm nhé? Cô ám chỉ vấn đề phòng ở, nhưng cũng có thể còn hơn thế nữa, ông tiến sĩ nói, ừ, em viết đi, và ông chỉ muốn biết, Thượng đế nhân từ nào đã đưa cô đến với ông.
Về phòng lúc trời tối, ông tiến sĩ cố hồi tưởng những gì hai người đã nói, nhưng thực ra ông không chỉ nghe tiếng cô gái, mà nghe cả sự im lặng không dễ chịu trong khi họ cứ dấn bước và nói tiếp. Ông không biết gì hơn nữa. Ông đã tương đối bình tâm, mọi thứ đều đi đúng đường, cứ như là ông chẳng phải làm gì. Ông chỉ còn phải viết cho Else Bergmann về chuyến đi Palestine nữa thôi, vì nhất định sẽ không có một chuyến đi như vậy. Chắc Else sẽ không ngạc nhiên lắm nếu ông không đi, tuy nhiên ông vẫn phải giải thích, ông phải cố vượt qua sự ngần ngại để viết thư và làm ra vẻ như rốt cuộc ông không muốn thế.
I- ĐẾN - 1 -
Tiến >>
Nguồn: https://dtv-ebook.com.vn/
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 8 tháng 10 năm 2024